Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (762.72 KB, 75 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

DƯƠNG THỊ HƯƠNG

BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH GIÁO DỤC
TẠI XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN

LUẬN VĂN THẠC SĨ

CHUYÊN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH GIÁO DỤC
TẠI XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN

Chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60380102

Người hướng dẫn khoa học: PGS - Tiến sĩ Nguyễn Cảnh Hợp
Học viên: Dương Thị Hương
Lớp: Cao học luật, khóa 22

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Dương Thị Hương, học viên lớp Cao học Luật khóa 22, chuyên
ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh. Tơi xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi, được
thực hiện với sự hướng dẫn của PGS - TS. Nguyễn Cảnh Hợp. Những thông tin tôi
đưa ra trong luận văn là trung thực, có trích dẫn nguồn tham khảo đầy đủ. Những
phân tích, kiến nghị được tơi đề xuất dựa trên q trình tìm hiểu, nghiên cứu của cá
nhân và chưa từng được cơng bố trong các cơng trình trước đó.
Tác giả luận văn

Dương Thị Hương


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Biện pháp xử lý hành chính
Bộ luật hình sự
Giáo dục tại xã, phường, thị trấn
Hội đồng nhân dân
Người chưa thành niên
Ủy ban nhân dân
Xử lý vi phạm hành chính

: BPXLHC
: BLHS
: GDTXPTT
: HĐND
: NCTN
: UBND
: XLVPHC



MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ BIỆN PHÁP XỬ LÝ
HÀNH CHÍNH GIÁO DỤC TẠI XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN ............................ 5
1.1. Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn ................................................................................................... 5
1.1.1. Khái niệm biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn ............................ 5
1.1.3. Nguyên tắc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn ............. 6
1.2. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn .......... 7
1.2.1. Mục đích................................................................................................... 7
1.2.2. Ý nghĩa ..................................................................................................... 7
1.3. Đối tượng, điều kiện và thời hạn áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn ................................................................................................... 8
1.3.1. Đối tượng áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn .............. 8
1.3.2. Điều kiện áp dụng .................................................................................. 13
1.3.3. Thời hạn áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn .............. 13
1.3.4. Thời hiệu áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.............. 13
1.4. Nội dung cưỡng chế của biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn..... 13
1.5. Trình tự, thủ tục thực hiện biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn .... 15
1.6. Thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị
trấn...................................................................................................................... 18
1.6.1. Người có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn gồm........................................................................................ 18
1.6.2. Thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn ............................................................................................... 18
1.6.3. Thu thập thông tin, tài liệu để lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp giáo
dục tại xã, phường, thị trấn .............................................................................. 18
1.6.4. Xác định tuổi, nơi cư trú của đối tượng bị áp dụng biện pháp giáo dục tại
xã, phường, thị trấn .......................................................................................... 19

1.6.5. Hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn gồm . 20
1.6.6. Xử lý hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
từ nơi khác gửi đến .......................................................................................... 21
1.6.7. Gửi hồ sơ và thông báo về việc lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp giáo
dục tại xã, phường, thị trấn .............................................................................. 21


1.6.8. Cuộc họp tư vấn xem xét, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn ............................................................................................... 22
1.6.9. Hồn thiện hồ sơ trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ..................... 24
1.6.10. Thi hành quyết định giáo dục tại cấp xã............................................... 25
1.7. Khiếu nại và khiếu kiện quyết định xử lý giáo dục tại xã, phường, thị
trấn...................................................................................................................... 29
Kết luận chương 1 ................................................................................................. 30
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP GIÁO DỤC TẠI XÃ,
PHƯỜNG, THỊ TRẤN VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN .................................. 31
2.1. Thực trạng áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn ........... 31
2.1.1. Về đối tượng ........................................................................................... 31
2.1.2. Về thời hạn ............................................................................................. 35
2.1.3. Về thủ tục thi hành biện pháp ................................................................. 36
2.1.4. Bất cập, hạn chế ..................................................................................... 41
2.2. Phương hướng, giải pháp hoàn thiện biện pháp giáo dục tại xã, phường,
thị trấn ................................................................................................................ 49
2.2.1. Về pháp luật ........................................................................................... 49
2.2.2. Về điều kiện thực hiện ............................................................................ 51
2.2.3. Về tổ chức thực hiện ............................................................................... 52
2.2.4. Về giáo dục pháp luật............................................................................. 56
Kết luận chương 2 ................................................................................................. 59
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, nước ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do
đó cần phải đề cao pháp luật, kỷ cương. Trong quá trình đổi mới, quan điểm dùng
pháp luật để quản lý xã hội, quản lý nhà nước được khẳng định và đề cao. Nhà nước
đã ban hành các hiến pháp1 và nhiều luật thể chế hóa đường lối của Đảng, tạo khuôn
khổ pháp lý và thúc đẩy quá trình đổi mới. Hệ thống pháp luật từng bước được xây
dựng, hồn thiện, trong đó có lĩnh vực bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Trong thời gian qua, Nhà nước ta tham gia nhiều Công ước Quốc tế về quyền
con người chứng tỏ quyết tâm cao độ bảo đảm thực hiện ngày càng tốt các văn bản
pháp luật về quyền con người đã được cộng đồng quốc tế cơng nhận. Vì vậy, nội
dung các luật của chúng ta khi xây dựng và thực hiện phải đảm bảo các điều ước
quốc tế về nhân quyền mà chúng ta đã ký theo hướng đề cao nhân tố con người, tạo
điều kiện cho con người thực hiện đầy đủ các quyền con người, quyền cơng dân về
dân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội.
Cho đến nay, ở nước ta, pháp luật về xử lý hành chính đối với người vi phạm
pháp luật đã trải qua một quá trình hồn thiện khá dài. Đây là các biện pháp xử lý
hành chính có vai trị quan trọng trong việc đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Tuy nhiên, cho đến nay trong
điều kiện mới, hệ thống các quy định pháp luật và áp dụng pháp luật về biện pháp
xử lý hành chính vẫn cịn nhiều cịn chế. Việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn của
biện pháp xử lý hành chính có ý nghĩa lớn, nhất là trong bối cảnh pháp điển hóa về
xử lý vi phạm hành chính ở nước ta hiện nay.
Biện pháp xử lý hành chính là những biện pháp cưỡng chế hành chính đặc
biệt, chỉ áp dụng đối với chủ thể vi phạm là cá nhân, căn cứ vào nhân thân và quá
trình vi phạm pháp luật của đối tượng. Theo Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012

có các biện pháp xử lý hành chính gồm: Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn;
biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng; biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc;
biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Trong đó, giáo dục tại xã, phường, thị trấn là biện pháp xử lý hành chính có
tính cưỡng chế ít nghiêm khắc nhất so với các biện pháp xử lý hành khác, áp dụng
1

Hiến pháp năm 1992, sửa đổi bổ sung năm 2001; Hiến pháp năm 2013.


2

chủ yếu đối với đối tượng có hành vi vi phạm nhỏ, tính chất đơn giản, rõ ràng,
khơng nghiêm trọng, với tinh thần không cách ly họ khỏi cộng đồng mà ngược lại,
dùng sức mạnh của cộng đồng dân cư trực tiếp tham gia giáo dục, cảm hóa người vi
phạm để họ sớm hối lỗi, sửa chữa sai lầm, trở thành cơng dân tốt trong xã hội. Biện
pháp này cịn được coi là một biện pháp xử lý hành chính hiệu quả áp dụng đối với
người chưa thành niên vi phạm pháp luật nhưng chưa đến mức phải bị truy cứu
trách nhiệm hình sự hoặc chưa cần thiết phải cách ly ra khỏi xã hội, mục đích là
nhằm giám sát, ngăn ngừa những đối tượng này tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội,
đồng thời giáo dục và giúp họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh tại nơi cư trú.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
chưa đem lại hiệu quả như mong muốn, còn nhiều bất cập theo cá nhân cần có sự bổ
sung, thay đổi để đạt hiệu quả cao hơn.
Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn chưa thật hiệu quả, ít đạt mục
đích áp dụng, ý nghĩa răn đe, phịng ngừa khơng cao, có những vấn đề đặt ra cần
phải xem xét, làm rõ hơn như tính chất và mức độ cưỡng chế của biện pháp, thời
hạn áp dụng, đối tượng áp dụng, thủ tục áp dụng, sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ
chức, mối liên hệ với các biện pháp xử lý khác...
Xuất phát từ những vấn đề trên, học viên chọn đề tài “Biện pháp giáo dục

tại xã, phường, thị trấn” làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn là một vấn đề
quan trọng, được các cấp, các ngành quan tâm và có ý nghĩa trong sự ổn định an
ninh, chính trị, trật tự, an tồn xã hội, có ý nghĩa mang tính thực tế khá cao. Tuy
nhiên, Biện pháp này được quy định lần đầu tiên tại Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành
chính 1995 nằm trong nhóm các biện pháp xư lý hành chính khác, sau một thời gian
dài thực hiện thì Biện pháp này đã được quy định tại điều 89 của Luật Xử lý vi
phạm hành chính năm 2012.
Bên cạnh đó, trong thời gian qua, đã có một số tác giả có những cơng trình
nghiên cứu như Luận văn Thạc sĩ học của Nguyễn Ngọc Bích (2003) “Hồn thiện
pháp luật về xử lý hành chính người chưa thành niên”; luận văn Thạc sĩ học của
Nguyễn Trọng Bình (2002) “Hồn thiện quy định pháp luật về các hình thức xử
phạt vi phạm hành chính”; luận án Tiến sĩ của Hồng Minh Khơi (2016) “Biện
pháp xử lý hành chính đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật”; luận văn
cử nhân của Trần Thanh Thiện (2013) “Biện pháp xử lý giáo dục tại xã, phường, thị


3

trấn đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật - thực tiễn và phương hướng
hoàn thiện”. Đồng thời, có một số bài viết trên các tạp chí chun ngành như:
“Quyền công dân, quyền con người và chỗ đứng của các biện pháp xử lý hành
chính khác trong pháp luật về vi phạm hành chính” của Trần Thanh Hương trên
Tạp chí dân chủ và pháp luật số 11/2005; “Các BPXLHC khác: Thực tiễn và giải
pháp” của Hoàng Thị Kim Quế đăng trên Tạp chí Khoa học của Trường Đại học
Quốc gia Hà Nội hay “Hoàn thiện các biện pháp xử lý hành chính khác theo Pháp
luật Việt Nam” của Lê Ngọc Thạch đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số
1/2006 … cũng đã đề cập đến một số nội dung của biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn như đối tượng, nội dung, thời hạn … Tuy nhiên, các cơng trình, bài

viết này chủ yếu nói về khía cạnh xử lý đối với người chưa thành niên và những nội
dung chung của các biện pháp xử lý hành chính mà chưa nghiên cứu sâu, cụ thể và
toàn diện về biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Vì vậy, đề tài “Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn” ở cấp độ luận
văn Thạc sĩ sẽ nghiên cứu đầy đủ, cụ thể và chuyên sâu về vấn đề này. Bên cạnh đó,
tác giả cũng kế thừa kết quả khoa học của những cơng trình đã cơng bố và kinh
nghiệm thực tiễn có liên quan.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích chung
Thơng qua việc nghiên cứu quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng cịn
nhiều bất cập, hạn chế, từ đó đưa ra những đề xuất, giải pháp nhằm hoàn thiện các
quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ nhận thức mang tính chất lý luận và quy định pháp luật về biện
pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
- Đánh giá thực trạng việc thực hiện biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị
trấn, xác định rõ hạn chế, bất cập và nguyên nhân của chúng.
- Đề xuất và phân tích, lý giải các giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu
quả thực hiện biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu: Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả nghiên
cứu những vấn đề cơ bản về biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn dưới góc độ


4

lý luận và pháp lý, tập trung nghiên cứu việc áp dụng và thi hành các quy định của
pháp luật về biện pháp này trong thực tiễn, có thu thập số liệu, tìm hiểu các bất cập,
vướng mắc nhằm tìm ra những ưu điểm và những mặt hạn chế.

- Phương pháp nghiên cứu: Việc nghiên cứu đề tài được thực hiện dựa trên
cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Trong từng chương tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể gồm:
Chương 1. Tác giả sử dụng các phương pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp để
làm rõ khái niệm và đặc điểm của biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Chương 2. Tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp so sánh, thống kê, tổng
hợp để thu thập thông tin và đánh giá kết quả những kết quả áp dụng biện pháp giáo
dục tại xã, phường, thị trấn; nguyên nhân của những hạn chế, khó khăn từ đó đề
xuất, kiến nghị các giải pháp hồn thiện.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
- Đề tài góp phần làm sáng tỏ nhận thức về biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn, từ khía cạnh lý luận cũng như những quy định của pháp luật và
thực trạng thực hiện.
- Các giải pháp được đề tài phân tích, khẳng định có thể tham khảo để hoàn
thiện về pháp lý biện pháp xử lý hành chính này.
- Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu,
giảng dạy, học tập trong nhà trường và tham khảo trong hoạt động quản lý của
chính quyền địa phương.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia thành 02 chương, cụ thể
như sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận và pháp lý về biện pháp xử lý hành chính giáo dục
tại xã, phường, thị trấn.
Chương 2. Thực trạng áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn và
kiến nghị hoàn thiện.


5

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH
GIÁO DỤC TẠI XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN
1.1. Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn
1.1.1. Khái niệm biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
Biện pháp GDTXPTT được quy định lần đầu tiên tại Pháp lệnh XLVPHC
năm 1995 nằm trong nhóm các BPXLHC khác. Tại Điều 21 Pháp lệnh XLVPHC
ngày 6/7/1995, biện pháp GDTXPTT được quy định là BPXLHC do Chủ tịch Ủy
ban nhân dân xã, phường, thị trấn quyết định bằng văn bản, áp dụng đối với những
người từ 12 tuổi trở lên sinh sống tại xã, phường, thị trấn đó đã có hành vi vi phạm
pháp luật nhưng chưa đến mức đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục
hoặc người nghiện ma túy, người mại dâm chưa đến mức đưa vào cơ sở chữa bệnh.
Tuy nhiên, qua hơn 10 năm thực hiện, Pháp lệnh XLVPHC đã bộc lộ những
hạn chế, bất cập đòi hỏi phải khẩn trương nghiên cứu, điều chỉnh, nhằm đáp ứng
yêu cầu ngày càng cao của đời sống kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn
phát triển mới.
Luật XLVPHC 2012 được ban hành ngày 20/6/2012 thay thế Pháp lệnh
XLVPHC tại điều 89 của Luật này đã quy định: GDTXPTT là BPXLHC áp dụng
đối với các đối tượng quy định tại điều 90 của Luật này để giáo dục, quản lý họ tại
nơi cư trú, được thực hiện trên cơ sở quyết định của Chủ tịch UBND cấp xã. Biện
pháp này không cách ly người vi phạm khỏi gia đình, cộng đồng, tạo cơ hội cho họ
nhận ra lỗi lầm mà quyết tâm sửa chữa, trở thành công dân tốt trong xã hội.
Cần phân biệt BPXLHC, GDTXPTT và biện pháp tư pháp GDTXPTT, bởi
biện pháp tư pháp GDTXPTT là hình thức được áp dụng đối với NCTN phạm tội bị
Tòa án quyết định áp dụng biện pháp tư pháp GDTXPTT 2.
Cho đến nay, mặc dù đã trãi qua các lần sửa đổi, bổ sung nhưng GDTXPTT
vẫn được xem là biện pháp cưỡng chế mang tính ít nghiêm khắc nhất trong số các
BPXLHC, áp dụng chủ yếu đối với đối tượng có hành vi vi phạm nhỏ, tính chất đơn
giản, rõ ràng, không nghiêm trọng, với tinh thần không cách ly họ khỏi cộng đồng
mà ngược lại, dùng sức mạnh của cộng đồng dân cư trực tiếp tham gia giáo dục,

2

Nghị định số 10/2012/NĐ-CP ngày 17 tháng 02 năm 2012 của Chính phủ, quy định chi tiết thi hành biện
pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người chưa thành niên phạm tội.


6

cảm hóa người vi phạm để họ sớm hối lỗi, sửa chữa sai lầm, trở thành công dân tốt
trong xã hội. Biện pháp này còn được coi là một BPXLHC hiệu quả áp dụng đối với
NCTN vi phạm pháp luật nhưng chưa đến mức phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự
hoặc chưa cần thiết phải cách ly ra khỏi xã hội, mục đích là nhằm giám sát, ngăn
ngừa những đối tượng này tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, đồng thời giáo dục
và giúp họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh tại nơi cư trú.
1.1.2. Đặc điểm
GDTXPTT là một trong những BPXLHC đặc biệt nhằm kịp thời phịng
chống vi phạm pháp luật có hiệu quả. Biện pháp này có những đặc trưng sau đây:
- Là biện pháp có tính cưỡng chế thấp nhất trong số bốn BPXLHC. Cụ thể,
biện pháp này chỉ áp dụng đối với những đối tượng nhất định có hành vi vi phạm
nhỏ, tính chất đơn giản, rõ ràng, khơng nghiêm trọng.
- Biện pháp này áp dụng ngay tại địa phương, không tước tự do, không cách
ly khỏi cộng đồng; người bị áp dụng biện pháp này vẫn sinh sống, học tập, làm việc
tại địa phương ...
- Là BPXLHC có sự tham gia của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong cộng
đồng, nhà trường và gia đình trong việc giúp đỡ, giáo dục người bị áp dụng biện
pháp GDTXPTT .
- Thẩm quyền áp dụng là Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn mà khơng
phải là Tịa án nhân dân như các BPXLHC khác.
1.1.3. Nguyên tắc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
Khi áp dụng BPXLHC, GDTXPTT cần phải tuân thủ các nguyên tắc khi áp

dụng biện pháp GDTXPTT được quy định tại điều 2 của Nghị định số:
111/2013/NĐ-CP 3 như sau:
- Nhanh chóng, cơng khai, khách quan, cơng bằng; đúng thẩm quyền, đối
tượng, trình tự, thủ tục quy định tại Luật XLVPHC và Nghị định này.
- Không xâm phạm đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm; tôn trọng và bảo vệ
bí mật riêng tư của người bị áp dụng biện pháp GDTXPTT. Không công khai việc
tổ chức, nội dung, kết quả cuộc họp tư vấn, hồ sơ và thi hành quyết định GDTXPTT
đối với NCTN.
- Người có thẩm quyền áp dụng biện pháp GDTXPTT có trách nhiệm chứng
minh vi phạm hành chính. Cá nhân bị áp dụng biện pháp GDTXPTT có quyền tự
3

Nghị định số 111/2013/NĐ-CP ngày 30 tháng 9 năm 2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện
pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn.


7

mình hoặc thơng qua người đại diện hợp pháp chứng minh mình khơng thuộc đối
tượng bị áp dụng biện pháp GDTXPTT.
- Phải bảo đảm sự tham gia của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong cộng đồng,
nhà trường và gia đình trong việc giúp đỡ, giáo dục người bị áp dụng biện pháp
GDTXPTT.
- Việc quyết định thời hạn áp dụng biện pháp GDTXPTT phải căn cứ vào
tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, nhân thân người vi phạm, tình tiết giảm nhẹ,
tình tiết tăng nặng.
- Chỉ áp dụng biện pháp GDTXPTT đối với NCTN trong trường hợp cần
thiết nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành
cơng dân có ích cho xã hội. Khi tiến hành xem xét áp dụng và thi hành quyết định
áp dụng biện pháp GDTXPTT đối với NCTN, người có thẩm quyền bên cạnh việc

phải tuân theo quy định chung về xem xét áp dụng biện pháp GDTXPTT còn phải
tuân theo các nguyên tắc XLVPHC ; tuân thủ quy định về trách nhiệm quản lý của
cha mẹ hoặc người giám hộ đối với NCTN có nơi cư trú ổn định, trách nhiệm của
cơ sở bảo trợ xã hội hoặc cơ sở trợ giúp trẻ em đối với NCTN khơng có nơi cư trú
ổn định. Bên cạnh đó, Luật quy định NCTN được đi học hoặc tham gia các chương
trình học tập hoặc dạy nghề khác, tham gia các chương trình tham vấn, phát triển kỹ
năng sống tại cộng đồng phù hợp với độ tuổi của các em 4.
1.2. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
1.2.1. Mục đích
Mục đích áp dụng biện pháp này là nhằm giáo dục, quản lý những đối tượng
có hành vi vi phạm nhỏ, tính chất đơn giản, rõ ràng, không nghiêm trọng tại nơi cư
trú để họ có điều kiện sữa chữa sai lầm khi nhận thấy không cần thiết phải cách ly
họ khỏi cộng đồng. Khác với cách quy định tại Điều 23 Pháp lệnh XLVPHC 2002
(sửa đổi bổ sung 2007, 2008) Luật XLVPHC đã tách các đối tượng bị áp dụng biện
pháp GDTXPTT quy định thành một điều riêng tại Điều 90. Thời hạn áp dụng biện
pháp này vẫn giữ nguyên theo quy định của Pháp lệnh là từ 03 đến 06 tháng.
1.2.2. Ý nghĩa
Biện pháp GDTXPTT mang lại hiệu quả rất to lớn, mang tính giáo dục và
răn đe cao, tạo được sự đồng thuận trong nhân dân, góp phần quan trọng trong cơng
tác phịng, ngừa và đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả các loại tội phạm. Đây là cơ sở
4

Khoản 1 Điều 136 Luật XLVPHC.


8

pháp lý quan trọng để đẩy mạnh việc triển khai đồng bộ các giải pháp góp phần bảo
đảm ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội trên địa bàn.
Đồng thời, GDTXPTT được coi là một BPXLHC hiệu quả áp dụng đối với

NCTN vi phạm pháp luật nhưng chưa đến mức phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự
hoặc chưa cần thiết phải cách ly ra khỏi xã hội, mục đích là nhằm giám sát, ngăn
ngừa những đối tượng này tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, đồng thời giáo dục
và giúp họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh tại nơi cư trú.
Ngoài ra, với quy định biện pháp GDTXPTT là bước đệm để thực hiện các
biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc đã phần nào giảm bớt áp lực, gánh nặng về cơ sở vật chất,
con người, kinh phí để thực hiện các biện pháp trên.
1.3. Đối tượng, điều kiện và thời hạn áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn
1.3.1. Đối tượng áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
theo điều 90 của Luật XLVPHC 2012 thì đối tượng áp dụng biện pháp
GDTXPTT là:
1. Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của
một tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật hình sự.
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của
một tội phạm nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật hình sự.
3. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi 02 lần trở lên trong 06 tháng có hành
vi trộm cắp, lừa đảo, đánh bạc, gây rối trật tự công cộng mà chưa đến mức truy cứu
trách nhiệm hình sự.
4. Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên có nơi cư trú ổn định.
5. Người từ đủ 18 tuổi trở lên thực hiện hành vi xâm phạm tài sản của cơ
quan, tổ chức; tài sản, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của cơng dân hoặc người nước
ngồi; vi phạm trật tự, an toàn xã hội 02 lần trở lên trong 06 tháng nhưng chưa đến
mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
6. Những người quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này mà khơng có nơi
cư trú ổn định thì được giao cho cơ sở bảo trợ xã hội hoặc cơ sở trợ giúp trẻ em để
quản lý, giáo dục trong thời hạn chấp hành biện pháp GDTXPTT.
Năm 2012, lần đầu tiên những quy định chung về xử lý hành chính được
nâng lên thành luật. Ngày 10/6/2012, Luật XLVPHC 2012 đã được Quốc hội thơng

qua và có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2013 thay thế cho Pháp lệnh XLVPHC 2002.


9

Đây là một bước phát triển vượt bậc trong quá trình xây dựng các văn bản pháp luật
trong lĩnh vực xử lý hành chính. Từ đây hoạt động XLVPHC đã có căn cứ pháp lý
vững chắc hơn, thể hiện được tầm quan trọng của hoạt động này trong quá trình xây
dựng và bảo vệ nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Luật XLVPHC 2012 là một
hệ thống những quy định rõ ràng và cụ thể hơn rất nhiều và phù hợp với tình hình
thực tế so với Pháp lệnh XLVPHC 2002. Đến ngày 15/11/2013 thì Nghị định số:
111/2013/NĐ- CP, Nghị định quy định chế độ áp dụng BPXLHC, GDTXPTT chính
thức có hiệu lực thay thế cho Nghị định số 163/2003/NĐ-CP ngày 19 tháng 12 năm
2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành biện pháp GDTXPTT và Nghị định
56/2016/NĐ-CP mới ban hành ngày 29 tháng 6 năm 2016 nhằm khắc phục những
bất cập của Nghị định số 111/2013/NĐ-CP.
So với Pháp lệnh XLVPHC 2002 thì quy định về đối tượng bị áp dụng biện
pháp GDTXPTT trong Luật XLVPHC 2012 có nhiều điểm mới tiến bộ hơn, liên quan
trực tiếp đến vấn đề bảo đảm quyền con người. Quy định “Người từ đủ 12 tuổi đến
dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý
quy định tại Bộ luật Hình sự”5 thuộc đối tượng bị áp dụng biện pháp GDTXPTT.
Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, tội phạm
trong BLHS được phân thành tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội
phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Trong đó, tội phạm rất
nghiêm trọng là tội phạm nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung
hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù. Thế nhưng, nhóm người từ đủ 12
tuổi đến dưới 14 tuổi chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Do đó, theo quy định của
Pháp lệnh XLVPHC 2002 thì “Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành
vi có dấu hiệu của một tội phạm rất nghiêm trọng quy định tại BLHS thì thuộc đối
tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng 6. Tuy nhiên, Khoản 1 Điều

90 Luật XLVPHC đã thể hiện sự tiến bộ rõ rệt trong việc bảo đảm quyền con người
khi quy định nhóm NCTN này thuộc đối tượng bị áp dụng biện pháp GDTXPTT.
Bên cạnh đó, Luật XLVPHC cũng nhấn mạnh chỉ áp dụng biện pháp
GDTXPTT đối với nhóm đối tượng này khi đó là hành vi có dấu hiệu của một tội
phạm rất nghiêm trọng do cố ý. Có nghĩa là, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của
mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn
những vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Quy định này đã loại trừ những
5
6

Khoản 1 Điều 90 Luật XLVPHC 2012.
Điểm a khoản 2 Điều 22 Pháp lệnh XLVPHC 2002


10

NCTN thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc
tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý khỏi đối tượng bị áp dụng biện pháp GDTXPTT.
Tội phạm nghiêm trọng quy định tại BLHS là tội phạm gây nguy hại lớn cho
xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù 7.
Pháp lệnh XLVPHC quy định người thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội
phạm nghiêm trọng do cố ý quy định tại BLHS bị áp dụng biện pháp GDTXPTT
nếu ở độ tuổi “từ đủ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi” 8. Trong khi đó, Luật XLVPHC 2012
đã nâng độ tuổi đối với nhóm hành vi này là “từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi” 9. Việc
này thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong vấn đề hạn chế áp dụng
chế tài đối với NCTN từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi.
Cụ thể hóa quy định về những NCTN có hành vi trộm cắp, lừa đảo, đánh
bạc, gây rối trật tự công cộng mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thuộc
đối tượng bị áp dụng biện pháp GDTXPTT.
Khác với Pháp lệnh XLVPHC, Luật XLVPHC 2012 đã quy định lại độ tuổi

của những người có hành vi trộm cắp, lừa đảo, đánh bạc, gây rối trật tự công cộng mà
chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thuộc đối tượng bị áp dụng biện pháp
GDTXPTT trong giới hạn “từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi” 10 (Pháp lệnh quy định độ
tuổi này là “từ đủ 12 tuổi trở lên”). Ngoài ra, thuật ngữ “nhiều lần” tại điểm b khoản 2
điều 23 Pháp lệnh XLVPHC vốn rất khó xác định mức độ vi phạm đã được thay thế
bằng quy định cụ thể mang tính định lượng “02 lần trở lên trong 06 tháng”.
Đặc biệt, Khoản 6 Điều 90 của Luật XLVPHC 2012 quy định trường hợp
NCTN phạm pháp “nghiêm trọng” khơng có nơi cư trú ổn định, thay vì bị áp dụng
biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng11 thì nay được giao cho cơ sở bảo trợ xã hội
hoặc cơ sở trợ giúp trẻ em quản lý, giáo dục để tạo sự bình đẳng trong biện pháp xử
lý NCTN phạm tội, đồng thời tạo điều kiện giáo dục, chăm sóc các em được tốt
hơn12. Đây là một điểm thay đổi lớn trong đối tượng áp dụng biện pháp GDTXPTT,
thể hiện tinh thần bảo đảm quyền con người nói chung và quyền của NCTN nói riêng.
Luật XLVPHC đã xây dựng lại quy định về đối tượng bị áp dụng BPXLHC,
GDTXPTT là người đã thành niên tại Khoản 4 và Khoản 5 gồm:
7

Khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự.
Ðiểm a Khoản 2 Điều 23 Pháp lệnh XLVPHC 2002.
9
Khoản 2 Điều 90 Luật XLVPHC 2012.
10
Khoản 3 Điều 90 Luật XLVPHC 2012.
11
Điều 24 Pháp lệnh XLVPHC 2002.
12
Khoản 6 Điều 90 của Luật XLVPHC 2012.
8



11

- Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên có nơi cư trú ổn định.
- Người từ đủ 18 tuổi trở lên thực hiện hành vi xâm phạm tài sản của cơ
quan, tổ chức; tài sản, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của cơng dân hoặc người nước
ngồi; vi phạm trật tự, an toàn xã hội 02 lần trở lên trong 06 tháng nhưng chưa đến
mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
Luật XLVPHC đã bỏ quy định “người bán dâm có tính chất thường xun từ
đủ 14 tuổi trở lên có nơi cư trú nhất định” khỏi đối tượng bị áp dụng biện pháp
GDTXPTT. Đồng thời, Luật cũng sửa đổi, bổ sung quy định tại Khoản 2 điều 25
Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 về nhóm đối tượng là những người “thực hiện hành vi
xâm phạm tài sản của tổ chức trong nước hoặc nước ngoài, tài sản, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm của công dân, của người nước ngồi, vi phạm trật tự, an tồn xã hội có
tính chất thường xuyên nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự” thuộc
phạm vi bị áp dụng biện pháp GDTXPTT. Theo đó, giới hạn những “người trên 55
tuổi đối với nữ và trên 60 tuổi đối với nam” theo quy định tại điểm d Khoản 2 Điều
23 Pháp lệnh XLVPHC 2002 đã được sửa đổi thành “người từ đủ 18 tuổi trở lên”.
Thuật ngữ “thường xuyên” trong quy định này cũng đã được Luật XLVPHC cụ thể
hóa thành “02 lần trở lên trong 06 tháng” nhằm đảm bảo cho việc thực hiện được
chính xác, tránh trường hợp áp dụng tùy tiện trong thực tiễn.
Theo Luật XLVPHC 2012, đối tượng NCTN khơng có nơi cư trú ổn định sẽ
được giao cho cơ sở bảo trợ xã hội hoặc cơ sở trợ giúp trẻ em để quản lý, giáo dục
trong thời gian chấp hành biện pháp GDTXPTT 13 thay vì đưa vào trường giáo dưỡng.
Biện pháp GDTXPTT là một trong bốn BPXLHC được quy định tại các
Điều 89, 90 Luật XLVPHC năm 2012. Trong quá trình triển khai thi hành Luật
XLVPHC, Chính phủ đã ban hành các văn bản hướng dẫn việc áp dụng biện pháp
này tại các văn bản như: Nghị định số 111/2013/NĐ-CP ngày 30/9/2013 của Chính
phủ quy định chế độ áp dụng BPXLHC, GDTXPTT ; Thông tư số 42/2014/TTBCA ngày 25/9/2014 quy định về biểu mẫu sử dụng trong công an nhân dân khi áp
dụng và thi hành BPXLHC, GDTXPTT và Nghị định số 56/2016/NĐ-CP ngày
29/6/2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số

111/2013/NĐ-CP ngày 30/9/2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng
BPXLHC, GDTXPTT.

13

Khoản 6 Điều 90 Luật XLVPHC 2012.


12

Nghị định 56/2016/NĐ-CP mới ban hành nhằm khắc phục những bất cập
trên của Nghị định số 111/2013/NĐ-CP. Cụ thể, Nghị định 56/2016/NĐ-CP quy
định đối tượng áp dụng biện pháp GDTXPTT quy định tại Điều 90 Luật XLVPHC
và thời hiệu áp dụng đối với các đối tượng này được xác định như sau:
Đối tượng là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, trong thời hạn 6 tháng đã
hai lần bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi trộm cắp, lừa đảo,
đánh bạc, gây rối trật tự công cộng mà lại tiếp tục thực hiện một trong các hành vi
vi phạm nêu trên đến lần thứ ba nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự
và đã bị lập biên bản vi phạm hành chính tại lần vi phạm này, thì thời hiệu là 6
tháng, kể từ ngày thực hiện lần cuối một trong những hành vi vi phạm hành chính
nêu trên.
Đối tượng là người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên có nơi cư trú ổn định,
thì thời hiệu là 03 tháng, kể từ ngày đối tượng có hành vi sử dụng ma túy bị phát hiện.
Người nghiện ma túy đang tham gia chương trình cai nghiện tự nguyện tại
gia đình hoặc cộng đồng hoặc tham gia chương trình điều trị nghiện các chất dạng
thuốc phiện bằng thuốc thay thế theo quy định của pháp luật mà bị phát hiện sử
dụng trái phép chất ma túy thì cũng bị áp dụng biện pháp GDTXPTT. Việc áp dụng
biện pháp GDTXPTT đối với đối tượng này được tiến hành đồng thời với việc cai
nghiện tự nguyện tại gia đình hoặc cộng đồng hoặc điều trị nghiện các chất dạng
thuốc phiện bằng thuốc thay thế;

Đối tượng là người từ đủ 18 tuổi trở lên, trong thời hạn 6 tháng đã hai lần bị
xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi xâm phạm tài sản của cơ quan,
tổ chứ; tài sản, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân hoặc người nước ngoài;
vi phạm trật tự, an toàn xã hội mà lại tiếp tục thực hiện một trong các hành vi vi phạm
nêu trên đến lần thứ ba nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và đã bị
lập biên bản vi phạm hành chính đối với lần vi phạm này, thì thời hiệu là 06 tháng, kể
từ ngày thực hiện lần cuối một trong những hành vi phạm hành chính nêu trên.
Ngồi ra, Nghị định số 56/2016/NĐ-CP cũng sửa đổi, bổ sung quy định về
đề nghị lập hồ sơ, thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp GDTXPTT ; xác
minh nơi cư trú và chuyển hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp GDTXPTT ; xử lý hồ
sơ đề nghị áp dụng biện pháp GDTXPTT từ nơi khác gửi đến; xử lý trường hợp
người đang trong thời gian chấp hành biện pháp GDTXPTT nhưng bị phát hiện thực
hiện hành vi phạm tội trước hoặc trong thời gian chấp hành biện pháp GDTXPTT.


13

1.3.2. Điều kiện áp dụng
Không áp dụng biện pháp GDTXPTT đối với người nước ngoài.
1.3.3. Thời hạn áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
Thời hạn áp dụng biện pháp GDTXPTT từ 03 tháng đến 06 tháng, tùy theo
tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng
nặng của người vi phạm.
1.3.4. Thời hiệu áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
Khoản 2 điều 6 Luật xử phạt vi phạm hành chính quy định: Thời hiệu áp
dụng biện pháp GDTXPTT là 01 năm, kể từ ngày cá nhân thực hiện hành vi vi
phạm quy định tại khoản 1 Điều 90; 06 tháng, kể từ ngày cá nhân thực hiện hành vi
vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 90 hoặc kể từ ngày cá nhân thực hiện lần cuối
một trong những hành vi vi phạm quy định tại khoản 3 và khoản 5 Điều 90; 03
tháng, kể từ ngày cá nhân thực hiện hành vi vi phạm quy định tại khoản 4 Điều 90

của Luật này;
1.4. Nội dung cưỡng chế của biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
Biện pháp GDTXPTT là một BPXLHC nhằm để giáo dục, quản lý tại nơi cư
trú mà không cần phải cách ly ra khỏi xã hội. Về mức độ cưỡng chế, biện pháp này
được xem là nhẹ nhất trong các BPXLHC, khi ban hành quyết định áp dụng, chính
quyền phải phân công cho cơ quan hoặc tổ chức xã hội phối hợp với gia đình chịu
trách nhiệm giáo dục, quản lý.
Nội dung cưỡng chế của biện pháp GDTXPTT đó chính là việc người bị áp
dụng biện pháp này khi vắng mặt nơi cư trú phải thực hiện theo các quy định của
pháp luật. Cụ thể, căn cứ vào Điều 33 Nghị định số 111/2013/NĐ-CP quy định việc
đi lại, vắng mặt của người được giáo dục tại nơi cư trú và Điều 7 Thông tư
48/2014/TT - BCA hướng dẫn chi tiết về về việc đi lại, vắng mặt của người được
giáo dục tại nơi cư trú, thì: Người được giáo dục có thể được vắng mặt tại nơi cư trú
nếu có lý do chính đáng và phải thực hiện việc khai báo tạm vắng theo quy định của
pháp luật về cư trú. Thời gian vắng mặt tại nơi cư trú được tính vào thời hạn chấp
hành biện pháp GDTXPTT nhưng tổng số thời gian vắng mặt tại nơi cư trú không
được vượt quá một phần ba thời hạn áp dụng biện pháp này trừ trường hợp người
được giáo dục bị đau, ốm phải điều trị tại các cơ sở y tế theo chỉ định của bác sỹ và
phải có xác nhận điều trị của cơ sở y tế đó và phải thực hiện theo quy định sau đây:
Trường hợp vắng mặt tại nơi cư trú dưới 15 ngày, thì phải thông báo với người
được phân công giúp đỡ về lý do, thời gian vắng mặt tại nơi cư trú và nơi đến tạm


14

trú. Người được phân công giúp đỡ phải báo cáo Chủ tịch UBND cấp xã nơi người
được giáo dục cư trú về việc người được giáo dục vắng mặt tại nơi cư trú; Trường
hợp vắng mặt tại nơi cư trú từ 15 ngày đến 30 ngày, người được giáo dục hoặc cha
mẹ hoặc người giám hộ của người được giáo dục là người dưới 16 tuổi phải làm
đơn xin phép Chủ tịch UBND cấp xã, trong đó ghi rõ lý do, thời gian vắng mặt, nơi

đến tạm trú. Người được phân cơng giúp đỡ phải có ý kiến trong thời hạn chậm nhất
là 03 ngày, kể từ ngày nhận được đơn. Chủ tịch UBND cấp xã xem xét, quyết định
ngay sau khi nhận được đơn; trường hợp không đồng ý phải trả lời bằng văn bản,
trong đó nêu rõ lý do. Người được giáo dục có trách nhiệm trình báo với Cơng an
cấp xã nơi mình đến tạm trú.
Khi hết thời hạn tạm trú phải có xác nhận của UBND cấp xã hoặc Công an
cấp xã nơi tạm trú về thời gian tạm trú và việc chấp hành pháp luật tại nơi đến tạm
trú. Nếu người được giáo dục vắng mặt tại nơi cư trú mà không báo cáo, không
được sự đồng ý của Chủ tịch UBND cấp xã, không trình báo với Cơng an cấp xã nơi
đến tạm trú, hết thời hạn tạm trú mà không được xác nhận của UBND cấp xã hoặc
Công an cấp xã nơi đến tạm trú, trong thời gian tạm trú mà vi phạm pháp luật thì
thời gian vắng mặt đó khơng được tính vào thời hạn chấp hành biện pháp
GDTXPTT. Trong trường hợp này, Trưởng Công an cấp xã đề nghị Chủ tịch
UBND cấp xã xem xét, quyết định gia hạn thời gian chấp hành đối với người được
giáo dục cho đến khi chấp hành đủ thời gian theo quyết định GDTXPTT.
Trường hợp người được giáo dục thay đổi nơi đăng ký thường trú, đi học tập,
có việc làm ổn định hoặc theo gia đình chuyển đến địa phương khác hoặc có các lý
do tương tự, thì người được giáo dục hoặc cha mẹ hoặc người giám hộ của người
được giáo dục là người dưới 16 tuổi phải làm đơn xin phép Chủ tịch UBND cấp xã,
trong đó ghi rõ lý do, nơi đến thường trú hoặc tạm trú.
Ngoài ra, người bị áp dụng biện pháp GDTXPTT phải tham gia các nội dung
giáo dục theo quy định như: Phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền, nghĩa vụ của
công dân, các quy định của pháp luật liên quan đến hành vi vi phạm pháp luật của
người được giáo dục. Đối với người nghiện ma túy, cần phổ biến pháp luật về phòng,
chống ma túy; về tác hại của việc tiêm chích, sử dụng ma túy đối với sức khỏe, gia
đình và cộng đồng, phòng tránh HIV/AIDS và các bệnh lây truyền qua tiêm chích ma
túy; về chương trình cai nghiện và điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng
thuốc thay thế. Giáo dục về kỹ năng sống, hướng nghiệp, dạy nghề cho người được
giáo dục; Giáo dục về truyền thống tốt đẹp của đất nước, quê hương.



15

Việc GDTXPTT có thể được thực hiện bằng các hình thức cơ bản: Gặp gỡ
trực tiếp gia đình, người được giáo dục; Giới thiệu tham gia các lớp học về kỹ năng
sống, các lớp hướng nghiệp, dạy nghề, tìm việc làm; Thơng báo bằng văn bản về gia
đình, người được giáo dục về các biện pháp quản lý, giáo dục; Tổ chức cuộc họp
góp ý tại địa bàn dân cư ở cơ sở. Trường hợp người được giáo dục là NCTN thì
khơng tổ chức cuộc họp góp ý.
Luật giao nhiệm vụ cho người được phân cơng giúp đỡ phải có kế hoạch
quản lý, giáo dục, giúp đỡ người được giáo dục và được hưởng khoản kinh phí hỗ
trợ cho việc quản lý, giáo dục, giúp đỡ theo quy định của Bộ Tài chính. Bên cạnh
đó, Luật cũng quy định người được giáo dục phải cam kết bằng văn bản về việc
chấp hành quyết định GDTXPTT, đồng thời giao trách nhiệm cho gia đình của
người đó phải phối hợp chặt chẽ với cơ quan, tổ chức được giao quản lý, giáo dục
trong việc quản lý, giáo dục người vi phạm là con em của mình.
Người được giáo dục có tiến bộ rõ rệt thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức
được giao trách nhiệm quản lý và ý kiến bằng văn bản của các cơ quan, tổ chức có
liên quan, Chủ tịch UBND cấp xã quyết định miễn chấp hành phần thời gian còn lại
của quyết định. Quyết định áp dụng biện pháp GDTXPTT hết thời hiệu thi hành sau
6 tháng, kể từ ngày ra quyết định; nếu trốn tránh thì thời hiệu được tính lại kể từ
thời điểm hành vi trốn tránh chấm dứt. Khi đã chấp hành xong quyết định thì Chủ
tịch UBND cấp xã cấp giấy chứng nhận cho người đó.
Người được giáo dục gửi bản cam kết về việc chấp hành quyết định
GDTXPTT cho cơ quan, tổ chức được giao quản lý, giáo dục và phải nghiêm chỉnh
thực hiện cam kết của mình.
Nội dung cam kết gồm: Chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, nghiêm túc sửa
chữa sai phạm; Thực hiện tốt nghĩa vụ học tập, tu dưỡng, rèn luyện; Tham gia các
chương trình học tập hoặc dạy nghề phù hợp; Tham gia lao động với hình thức phù
hợp; Tham gia các chương trình tham vấn, phát triển kỹ năng sống phù hợp được tổ

chức tại địa phương; Đối với người nghiện ma túy, phải có nội dung cam kết tham
gia chương trình cai nghiện ma túy đã đăng ký. Cam kết của NCTN phải có ý kiến
của cha mẹ hoặc người giám hộ.
1.5. Trình tự, thủ tục thực hiện biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
Dưới góc độ quyền con người, quy định về thủ tục lập hồ sơ đề nghị áp dụng
biện pháp GDTXPTT quy định tại điều 97 Luật XLVPHC đã được sửa đổi, bổ sung


16

theo hướng tăng cường tính cơng khai, minh bạch hơn so với Điều 70 Pháp lệnh
XLVPHC 2002.
Về thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp GDTXPTT, Luật
XLVPHC và Nghị định 111/2013/NĐ-CP ngày 30 tháng 9 năm 2013 quy định chế
độ áp dụng BPXLHC, GDTXPTT ghi nhận Trưởng công an xã nơi người bị đề nghị
cư trú hoặc nơi họ có hành vi vi phạm pháp luật tự mình lập hoặc theo đề nghị của
Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp xã; đại diện các tổ chức chính trị - xã hội ở
cơ sở; đại diện cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người vi phạm đang làm việc hoặc học
tập; đại diện đơn vị dân cư ở cơ sở như tổ trưởng tổ dân phố, trưởng thơn, ấp, bản,
bn, làng, phum, sóc và các đơn vị tương đương 14 .Trường hợp người vi phạm do
cơ quan Công an đang thụ lý vụ việc tiến hành xác minh, thu thập tài liệu và lập hồ
sơ gửi đến Chủ tịch UBND cấp xã xem xét, quyết định.
Trong qua trình lập hồ sơ, những chủ thể có thẩm quyền lập hồ sơ căn cứ vào
giấy khai sinh của người bị đề nghị để xác định tuổi của đối tượng bị áp dụng. Cũng
theo hướng dẫn tại Nghị định 111/2013/NĐ-CP, căn cứ để xác định nơi cư trú ổn
định là nơi đối tượng thường trú hoặc tạm trú nhưng phải là nơi người đó hiện đang
thường xuyên sinh sống 15.
Hơn nữa nhằm bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch, Luật XLVPHC
đặt ra yêu cầu việc lập hồ sơ phải được thông báo cho cha mẹ hoặc người giám hộ
về việc lập hồ sơ và những người này có quyền đọc hồ sơ và ghi chép các nội dung

cần thiết trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo.
Quy định về quyết định áp dụng biện pháp GDTXPTT được xây dựng trên
tinh thần tiếp tục kế thừa quy định của Pháp lệnh XLVPHC nhưng có sự phát triển
và bổ sung một số nội dung mới theo hướng dẫn bảo đảm tính dân chủ, cơng khai,
minh bạch, cơng bằng, chính xác và hiệu quả. Trước khi ra quyết định áp dụng biện
pháp GDTXPTT, Chủ tịch UBND cấp xã giao công chức tư pháp - hộ tịch kiểm tra
hồ sơ và tổ chức cuộc họp tư vấn. Chủ tịch UBNND cấp xã chủ trì cuộc họp tư vấn
với sự tham gia của Trưởng Công an cấp xã, công chức tư pháp - hộ tịch, đại diện
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và một số tổ chức xã hội cùng cấp có liên quan,
đại diện dân cư ở cơ sở, gia đình người bị đề nghị. Khơng những thế, Luật
XLVPHC 2012 còn bảo đảm cho người bị xem xét, áp dụng biện pháp GDTXPTT

14
15

Khoản 1 Điều 9 Nghị định 111/2013/NĐ-CP.
Khoản 1 Điều 13 Nghị định 111/2013/NĐ-CP.


17

có cơ hội tự mình hoặc nhờ luật sư, người đại diện hợp pháp giải thích, biện hộ cho
vụ việc của mình, phát biểu ý kiến của mình về áp dụng biện pháp 16.
Bên cạnh đó, với mục đích bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người bị áp dụng, nhất
là những NCTN, Luật XLVPHC còn ghi nhận vai trò và trách nhiệm của các cơ quan,
tổ chức cá nhân trong cộng đồng nhà trường và gia đình trong việc giúp đỡ, giáo dục
người bị áp dụng biện pháp GDTXPTT. Các quyền khiếu nại, khởi kiện của người bị
áp dụng cũng được ghi nhận trong Quyết định áp dụng biện pháp GDTXPTT.
Kinh phí hỗ trợ cho các hoạt động trong quá trình áp dụng biện pháp giáo dục
tại cấp xã gồm: Xác định tình trạng nghiện; kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ; tổ chức

cuộc họp tư vấn; hỗ trợ cho người được phân công giúp đỡ người được giáo dục;
chuyển giao đối tượng về nơi cư trú và đến cơ sở bảo trợ xã hội, cơ sở trợ giúp trẻ
em; các chi phí cho NCTN khơng có nơi cư trú ổn định trong cơ sở bảo trợ xã hội, cơ
sở trợ giúp trẻ em và các chi phí cần thiết khác do ngân sách địa phương cấp và hỗ trợ
từ nguồn kinh phí phịng, chống tội phạm; phịng, chống ma túy, HIV/AIDS; chương
trình quốc gia bảo vệ trẻ em và các nguồn kinh phí khác (nếu có). Ngân sách trung
ương chi bổ sung cho các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách địa phương cho
hoạt động này. Người được phân công giúp đỡ được hưởng khoản kinh phí hỗ trợ
một tháng tối thiểu là 25% mức lương cơ sở đối với mỗi người được giáo dục và có
thể được HĐND cấp tỉnh quyết định mức hỗ trợ cao hơn.
Quyết định áp dụng biện pháp GDTXPTT đối với NCTN phải nhanh chóng,
cơng khai, khách quan, cơng bằng; đúng thẩm quyền, đối tượng, trình tự, thủ tục;
khơng xâm phạm đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm; tôn trọng và bảo vệ bí mật
riêng tư của người bị áp dụng biện pháp GDTXPTT và áp dụng biện pháp quản lý
tại gia đình; bảo đảm sự tham gia của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong cộng đồng,
nhà trường và gia đình trong việc giúp đỡ, giáo dục người bị áp dụng biện pháp
GDTXPTT. Đối với những người tự nguyện khai báo, thành thật hối lỗi về hành vi
vi phạm của mình; có mơi trường sống thuận lợi cho việc thực hiện biện pháp này;
cha mẹ hoặc người giám hộ có nhân thân tốt, có điều kiện thuận lợi để quản lý, giáo
dục NCTN và có bản cam kết thì được xem xét, quyết định áp dụng biện pháp quản
lý tại gia đình từ 03 tháng đến 06 tháng, nhằm giáo dục giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm
để trở thành cơng dân có ích cho xã. Chủ tịch UBND cấp xã là người có thẩm quyền

16

Ðiều 98 Luật XLVPHC 2012.


18


quyết định áp dụng biện pháp GDTXPTT nơi người vi phạm cư trú; nơi cơ sở bảo
trợ xã hội, cơ sở trợ giúp trẻ em đã tiếp nhận NCTN không có nơi cư trú ổn định.
1.6. Thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường,
thị trấn
1.6.1. Người có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn gồm
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người vi phạm cư trú;
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cơ sở bảo trợ xã hội, cơ sở trợ giúp trẻ
em đã tiếp nhận NCTN khơng có nơi cư trú ổn định đóng trụ sở.
Luật XLVPHC 2012 quy định đối với hình thức GDTXPTT thì do Chủ tịch
UBND cấp xã (cơ quan hành chính nhà nước) quyết định: cịn các biện pháp hành
chính khác thì do Tịa án nhân dân cấp huyện xem xét, quyết định 17.
1.6.2. Thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn
- Trưởng Công an cấp xã nơi đối tượng quy định tại các Điểm c, d và đ
Khoản 2 Điều 4 của Nghị định này cư trú lập hồ sơ đề nghị Chủ tịch UBND cùng
cấp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp GDTXPTT .
- Trưởng Công an cấp xã nơi đối tượng quy định tại các Điểm c, d và đ
Khoản 2 Điều 4 của Nghị định này thực hiện hành vi vi phạm pháp luật lập hồ sơ đề
nghị áp dụng biện pháp GDTXPTT sau đó đề nghị Chủ tịch UBND cùng cấp
chuyển hồ sơ theo quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 Điều 13 của Nghị định này.
- Cơ quan Công an cấp huyện hoặc Công an cấp tỉnh đang thụ lý vụ việc theo
quy định tại Khoản 2 Điều 97 Luật XLVPHC lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp
GDTXPTT đối với đối tượng quy định tại Khoản 2 Điều 4 của Nghị định này, sau
đó chuyển hồ sơ đến Chủ tịch UBND cấp xã theo quy định tại Khoản 2 và Khoản 3
Điều 13 của Nghị định này.
1.6.3. Thu thập thông tin, tài liệu để lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp
giáo dục tại xã, phường, thị trấn
Việc thu thập thông tin, tài liệu để lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp
GDTXPTT gồm: Thu thập thông tin, tài liệu về hành vi vi phạm; Xác định tuổi theo

quy định tại Điều 12 của Nghị định này; Xác minh nơi cư trú theo quy định tại Khoản
1 Điều 13 của Nghị định này; Thu thập các thơng tin và tài liệu khác có liên quan.
17

Khoản 2 điều 105 Luật XLVPHC 2012.


19

Đối với người nghiện ma túy, ngồi những thơng tin quy định tại Khoản 1
Điều này, thì phải xác định tình trạng nghiện ma túy hiện tại của họ. Việc xác định
tình trạng nghiện ma túy được thực hiện theo quy định của Bộ Y tế, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ Công an về thẩm quyền, thủ tục và quy trình xác định
tình trạng nghiện ma túy.
Đối với NCTN, ngồi các thơng tin, tài liệu quy định tại Khoản 1 Điều 13,
Trưởng Công an cấp xã có trách nhiệm: Thu thập thêm thơng tin về hồn cảnh gia
đình, quan hệ bạn bè và hồn cảnh dẫn đến vi phạm; Lấy ý kiến nhận xét của nhà
trường, cơ quan, tổ chức nơi NCTN đang học tập, làm việc (nếu có); Lấy ý kiến của
cha mẹ hoặc người giám hộ của NCTN, trừ trường hợp NCTN được chuyển đến cơ sở
bảo trợ xã hội, cơ sở trợ giúp trẻ em.
Người có thẩm quyền lập hồ sơ quy định tại Điều 10 của Nghị định này có
trách nhiệm thu thập các thông tin, tài liệu quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều
này. Thông tin thu thập được phải thể hiện bằng văn bản. Đối với trường hợp hồ sơ
do Công an cấp tỉnh, Công an cấp huyện lập, Trưởng Cơng an cấp xã có trách
nhiệm thu thập thêm thông tin quy định tại Khoản 3 Điều này.
Cơng chức văn hóa - xã hội, cộng tác viên công tác xã hội, cộng tác viên
công tác trẻ em (nếu có), cha mẹ hoặc người giám hộ của NCTN, nhà trường, cơ
quan, tổ chức có trách nhiệm cung cấp thơng tin, tài liệu hoặc có ý kiến bằng văn
bản theo đề nghị của cơ quan công an trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày
nhận được đề nghị.
1.6.4. Xác định tuổi, nơi cư trú của đối tượng bị áp dụng biện pháp giáo dục

tại xã, phường, thị trấn
Người có thẩm quyền lập hồ sơ quy định tại Điều 10 của Nghị định này xác
định tuổi của đối tượng bị áp dụng biện pháp GDTXPTT căn cứ theo giấy khai sinh
của đối tượng. Trường hợp khơng có giấy khai sinh hoặc khơng thể xác định chính
xác ngày, tháng, năm sinh trong giấy khai sinh, thì căn cứ vào chứng minh nhân
dân, hộ chiếu, sổ hộ khẩu hoặc các giấy tờ khác được cơ quan có thẩm quyền cấp có
ghi rõ ngày, tháng, năm sinh. Trường hợp khơng có các giấy tờ trên để xác định
tuổi, thì căn cứ vào sổ hộ tịch hoặc các giấy tờ, sổ sách, tài liệu khác của cơ quan
nhà nước có liên quan để xác định tuổi của đối tượng. Trường hợp thông tin ngày,
tháng, năm sinh ghi trong các giấy tờ trên khơng thống nhất, thì xác định theo ngày,
tháng, năm sinh trong giấy tờ theo hướng có lợi nhất cho đối tượng.


×