Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Hợp đồng theo mẫu những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 69 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ
---------

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

HỢP ĐỒNG THEO MẪU
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

SINH VIÊN THỰC HIỆN: TRẦN THỊ ĐANG THANH
KHÓA: 35 – MSSV: 1055020246
GIÁO VIÊN HƢỚNG DẪN: Th.S. CHẾ MỸ PHƢƠNG ĐÀI

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2014


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tơi, được
thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Chế Mỹ Phương Đài - giảng
viên khoa Luật Dân sự, trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh.
Các số liệu, thơng tin, kết luận nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng và chưa từng được cơng bố dưới bất cứ hình thức nào.
Sinh viên thực hiện

Trần Thị Đang Thanh

HĐTM – Những vấn đề lý luận và thực tiễn



ii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
HĐTM

Hợp đồng theo mẫu

BLDS

Bộ luật Dân sự

BLDS năm 1995

Bộ luật Dân sự năm 1995

BLDS năm 2005

Bộ luật Dân sự năm 2005

LBVQLNTD năm 2010

Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
năm 2010.

BHNT

Bảo hiểm nhân thọ

LKDBH


Luật kinh doanh bảo hiểm

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

HĐTM – Những vấn đề lý luận và thực tiễn


iii

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG THEO MẪU ........... 5
1.1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng theo mẫu ................................ 5
1.1.1. Khái niệm hợp đồng theo mẫu ............................................................ 5
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng theo mẫu ..................................................... 14
1.1.3. Hình thức của hợp đồng theo mẫu .................................................... 17
1.1.4. Điều kiện để hợp đồng theo mẫu có hiệu lực .................................... 19
1.1.5. Giao kết hợp đồng theo mẫu ............................................................. 23
1.1.6. Giải thích hợp đồng theo mẫu........................................................... 26
1.2. Pháp luật về hợp đồng theo mẫu nhìn từ góc độ luật so sánh ......... 28
1.2.1. Quy định về hợp đồng theo mẫu trong hệ thống thông luật ............... 28
1.2.2. Quy định về hợp đồng theo mẫu trong hệ thống dân luật .................. 30
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG THEO MẪU
MỘT SỐ BẤT CẬP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN .................. 34
2.1. Thực trạng ban hành pháp luật về hợp đồng theo mẫu .................... 34
2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật về hợp đồng theo mẫu ..................... 37
2.2.1.Về việc xác định hợp đồng theo mẫu .................................................. 38

2.2.2. Phạm vi áp dụng hợp đồng theo mẫu ................................................. 40
2.2.3. Về giải thích hợp đồng theo mẫu ....................................................... 44
2.2.4.Về nguyên tắc xác định điều khoản vô hiệu trong hợp đồng theo
mẫu ...................................................................................................................... 46
2.3. Một số kiến nghị hoàn thiện chế định hợp đồng theo mẫu ............... 53
2.3.1. Khái niệm hợp đồng theo mẫu ........................................................... 54
2.3.2. Thời gian trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng theo mẫu .................... 57
2.3.3. Điều khoản vô hiệu trong hợp đồng theo mẫu .................................... 57

HĐTM – Những vấn đề lý luận và thực tiễn


1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, tiếp tục kế thừa và phát triển Hiến pháp năm 1992, sự ra đời của Hiến pháp
năm 2013 đã thể hiện một sự thay đổi toàn diện về chế độ kinh tế - xã hội, phản ánh
sự đổi mới về đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước. Trong đó, chính sách
kinh tế - được xác định là phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thừa nhận nhiều hình thức sở hữu mới như
sở hữu tư nhân. Cùng với đó là sự ra đời của các Bộ luật Dân sự năm 1995 và 2005
đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng nhằm thúc đẩy giao lưu dân sự, tạo môi trường
thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn phát triển mới. Một trong
những quan hệ đó là hợp đồng dân sự, đây cũng là vấn đề trọng tâm của pháp luật
dân sự các nước khác trên thế giới. Trong Bộ luật Dân sự Việt Nam, các quy định
về hợp đồng dân sự chiếm gần ½ tổng số điều của Bộ luật, bao gồm những quy định
chung về hợp đồng và những quy định riêng về từng loại hợp đồng cụ thể. Trong
đó, được coi là sản phẩm của nền kinh tế thị trường với sự gia tăng hàng loạt các
công ty lớn cùng nhu cầu sử dụng hàng hóa, dịch vụ của một số lượng lớn các

khách hàng, hợp đồng theo mẫu ra đời như một nhu cầu tất yếu, rút ngắn thời gian
cho mỗi giao dịch, tạo điều kiện thuận lợi cho các bên tham gia giao dịch một cách
dễ dàng và nhanh chóng. Vì vậy, hợp đồng theo mẫu được sử dụng phổ biến trong
nhiều lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là trong các giao dịch dân sự - thương mại tiêu
dùng.
Tuy nhiên, xét trên nhiều phương diện cho thấy, mặc dù đã được ghi nhận
trong các văn bản quy phạm pháp luật nhưng cả về lý luận và thực tiễn áp dụng chế
định này còn nhiều bất cập, chưa đảm bảo hiệu quả trong việc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của các bên. Đặc biệt, với đặc điểm nổi bật là các điều khoản trong
hợp đồng này được soạn thảo bởi ý chí đơn phương của một bên, thường là các nhà
cung ứng sản phẩm có quy mơ lớn, có vị thế trên thương trường, thường xuyên thực
hiện giao dịch với một số lượng lớn các khách hàng nên họ thường giành thế chủ
động. Hơn nữa mong muốn của các thương nhân bao giờ cũng là mục tiêu lợi
nhuận, vì vậy trong mối quan hệ bất cân xứng cả về thế và lực này, khả năng các
doanh nghiệp lạm dụng vị thế để sử dụng ngày càng nhiều dạng hợp đồng theo mẫu
với những điều khoản khơng có lợi cho người tiêu dùng là rất lớn. Trong khi chế
định hợp đồng theo mẫu trong pháp luật dân sự lại còn nhiều bất cập, mâu thuẫn

HĐTM – Những vấn đề lý luận và thực tiễn


2
trong chính nội tại điều luật này, việc xác định điều khoản nào là vô hiệu cũng như
việc thể hiện theo hướng bảo vệ bên yếu thế trong mối quan hệ này chưa được rõ
nét, gây khó khăn cho việc xác định phạm vi áp dụng khi có tranh chấp xảy ra.
Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Hợp đồng theo mẫu - Những
vấn đề lý luận và thực tiễn”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nếu như hợp đồng là vấn đề được rất nhiều nhà khoa học pháp lý, các luật gia
quan tâm và đã cho ra đời nhiều cơng trình nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh, nội

dung khác nhau như: “Chế độ hợp đồng trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay” của TS. Phạm Hữu Nghị, “Hiệu lực của hợp đồng theo
quy định của pháp luật Việt Nam” của TS. Lê Minh Hùng,… thì hợp đồng theo
mẫu - một chế định đặc biệt của hợp đồng dân sự nói chung lại chưa được đề cập
nhiều trong các cơng trình nghiên cứu, đề tài khoa học. Đến nay, chế định hợp đồng
theo mẫu chỉ được các học giả nghiên cứu, đề cập dưới một góc độ nhất định được
thể hiện trong các bài báo, bài bình luận đăng trên tạp chí khoa học chuyên ngành
luật, hay trên báo chí… Hầu hết các bài viết đều chỉ tập trung phân tích chế định
hợp đồng theo mẫu trong mối quan hệ với điều kiện giao dịch chung và gắn liền với
khía cạnh bảo vệ người tiêu dùng như:
- Nguyễn Văn Vân (2000), “Hợp đồng theo mẫu và vấn đề bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng”, Đặc san khoa học pháp lý (04), tr. 36 – 40.
- Phan Thảo Nguyên (2005), “Về hợp đồng mẫu trong cung ứng thương mại dịch
vụ”, Nhà nước và pháp luật (04), tr. 54 – 56.
- Văn Thành (2009), “Hợp đồng quy định trước các điều kiện thương mại và những
vấn đề đặt ra để bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam”, Bản tin cạnh tranh và người
tiêu dùng (05), tr. 18 – 20.
- Nguyễn Như Phát (2010), “Một số vấn đề lý luận xung quanh Luật bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng”, Nhà nước và pháp luật (02), tr. 28 – 34.
- Phan Thị Thanh Nhàn (2010), Luận văn Thạc sĩ Luật học “Pháp luật về hợp đồng
theo mẫu và vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”, trường Đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh.
Các cơng trình nêu trên là nguồn tài liệu vơ cùng q giá giúp tác giả có nhiều
thơng tin quan trọng làm cơ sở phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài, tuy nhiên các
cơng trình chưa nghiên cứu toàn diện và hệ thống từ lý luận đến thực tiễn áp dụng
về hợp đồng theo mẫu trong hệ thống pháp luật Việt Nam.

HĐTM – Những vấn đề lý luận và thực tiễn



3
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là thơng qua việc phân tích các quy định của
pháp luật về chế định hợp đồng theo mẫu sẽ làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, cũng
như so sánh với thực tiễn áp dụng từ đó phát hiện ra những bất cập nhằm đề xuất
những giải pháp hoàn thiện để quy phạm pháp luật được áp dụng hiệu quả, giảm
thiểu rủi ro cho bên yếu thế khi tham gia giao kết hợp đồng theo mẫu.
3.2. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu nêu trên, đối tượng nghiên cứu của đề tài là những
quy định của pháp luật điều chỉnh hợp đồng theo mẫu mà chủ yếu là trong nền tảng
của chế định hợp đồng là Bộ luật Dân sự năm 2005.
Ngoài ra, tác giả còn liên hệ, so sánh với các quy định liên quan khác trong Bộ
luật Dân sự năm 1995, Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999, Luật
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, Luật giao dịch điện tử năm 2005,…
Trong phạm vi đề tài này, tác giả chủ yếu tập trung phân tích các vấn đề lý luận của
hợp đồng theo mẫu theo quy định của pháp luật dân sự mà không đi vào phân tích
sâu trong từng lĩnh vực chuyên ngành đặc thù có ghi nhận chế định này. Ngồi ra,
tác giả cịn liên hệ với một số quy định của pháp luật nước ngoài nhằm tham khảo
và học hỏi kinh nghiệm quốc tế góp phần hồn thiện chế định này trong quy phạm
pháp luật nước ta.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận liên quan đến chế định hợp đồng theo
mẫu, tác giả đã sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng Mác-Lê nin. Bên
cạnh đó, luận văn cịn có sự kết hợp các phương pháp khác như phương pháp lịch
sử, phương pháp so sánh để có cái nhìn tổng quan về q trình hình thành chế định
này và tham khảo, tiếp thu có chọn lọc mơ hình xây dựng pháp luật về hợp đồng
theo mẫu trong hệ thống pháp luật tiêu biểu trên thế giới, ngồi ra phương pháp
phân tích, tổng hợp các tài liệu khoa học pháp lý và một số trường hợp thực tiễn áp
dụng trong hoạt động xét xử của tòa án cũng như những tình huống được đăng tải

trên phương tiện thông tin đại chúng cũng được sử dụng để làm sáng tỏ những vấn
đề cịn bất cập trong q trình áp dụng pháp luật, từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện
chế định này.

HĐTM – Những vấn đề lý luận và thực tiễn


4
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Đề tài nghiên cứu hệ thống các vấn đề lý luận và làm sáng tỏ quy định của
pháp luật về chế định hợp đồng theo mẫu, chỉ ra một số điểm cịn bất cập trong q
trình áp dụng quy định của pháp luật vào thực tiễn, từ đó đưa ra một số đề xuất
nhằm góp phần tăng cường hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về vấn đề này, tạo sự
an toàn pháp lý, bảo đảm cân bằng quyền và lợi ích của các bên khi tham gia giao
kết loại hợp đồng đặc biệt này trong bối cảnh nền kinh tế thị trường.
Trên cơ sở phân tích các vấn đề lý luận cũng như đánh giá vai trò của hợp
đồng theo mẫu và đưa ra đề xuất cụ thể, khóa luận sẽ là một trong những nguồn tài
liệu tham khảo cho các cá nhân, tổ chức có nhu cầu sử dụng loại hợp đồng này có
cái nhìn tổng quan, từ đó chủ động đánh giá, hạn chế thấp nhất rủi ro có thể xảy ra
trong q trình giao kết, thực hiện hợp đồng. Bên cạnh đó, tác giả cũng hy vọng
rằng khóa luận có thể là một tài liệu có ích cho việc nghiên cứu và học tập.
6. Bố cục của luận văn
Ngồi Lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hợp đồng theo mẫu.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hợp đồng theo mẫu và một số giải pháp hoàn
thiện.

HĐTM – Những vấn đề lý luận và thực tiễn



5

CHƢƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG THEO MẪU
1.1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng theo mẫu
1.1.1. Khái niệm hợp đồng theo mẫu
Lịch sử hình thành và phát triển chế định hợp đồng theo mẫu
Trong lịch sử văn minh thế giới, sự hình thành chế định hợp đồng gần như
xuất hiện cùng các nhu cầu giao lưu mang tính chất tài sản trong xã hội. Trước hết
là nhu cầu giao lưu với nhau nhằm hướng tới một kết quả vật chất nhất định, phù
hợp với lợi ích của các bên. Theo thời gian, do sự phát triển mạnh mẽ và đa dạng
của các hình thức giao lưu đó đã nảy sinh nhu cầu cần thiết phải có mơ hình xử sự
chung do nhà nước quy định để các bên lựa chọn hay tự mình thiết lập. Các mơ hình
này được định danh với tên gọi là “khế ước” hay “hợp đồng”.
Nếu như ở những nước Châu Âu, lý thuyết về hợp đồng đã có bề dày lịch sử
hàng ngàn năm, có một vị trí, vai trị ngày càng được khẳng định và khi bàn đến xu
hướng phát triển của luật dân sự, một nhà triết học và xã hội học nổi tiếng người
Pháp đã dự đoán rằng: “Hợp đồng chiếm 9/10 dung lượng các Bộ luật Dân sự hiện
hành và đến một lúc nào đó tất cả các điều khoản của bộ luật, từ điều khoản thứ
nhất đến điều khoản cuối cùng đều quy định về hợp đồng1” thì ở Việt Nam cho đến
những năm cuối thế kỷ XIX và những năm đầu thế kỷ XX thuật ngữ “khế ước” hay
“hợp đồng” mới được ghi nhận trong các văn bản chính thức của nhà nước. Trước
tiên phải kể đến Bộ dân luật giản yếu Nam Kì (1883), Bộ dân luật Bắc Kì (1931) và
Bộ dân luật Trung Kì (1936).
Trong pháp luật phong kiến, điển hình như Bộ luật Hồng Đức, Bộ luật Gia
Long,… mặc dù trên thực tế có nhiều quan hệ hợp đồng được hình thành giữa các
chủ thể với nhau, nhưng khái niệm hợp đồng nói chung và hợp đồng theo mẫu
(HĐTM) nói riêng vẫn chưa được đề cập một cách trực tiếp mà được thể hiện qua
nhiều thuật ngữ khác nhau như: khế ước, giao kèo, văn tự, văn khế, cam kết, tờ ưng

thuận, chấp thuận2.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, khi cơ cấu kinh tế thay đổi thì các quan
hệ kinh tế cũng thay đổi theo. Vì vậy, pháp luật của nhà nước ta luôn luôn đứng
trước yêu cầu thay đổi để phù hợp với mỗi bước phát triển của các quan hệ kinh tế.
1

M.I. Bragins kij I V.V.Vitrijanskiji (1988), Luật hợp đồng, Nxb. Statut Matxcơva, tr.6.
TS. Đinh Văn Thanh và Th.S Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, Trường đại
học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân Hà nội (2002), tr.331.
2

HĐTM – Những vấn đề lý luận và thực tiễn


6
Các văn bản pháp luật hiện hành của nhà nước ta khơng cịn sử dụng thuật ngữ “khế
ước” hay “hiệp ước” như trước đây mà sử dụng các thuật ngữ có tính “chức năng”,
“cơng cụ”3 như hợp đồng dân sự, hợp đồng lao động, hợp đồng thương mại. Như
vậy trong giai đoạn từ sau khi đổi mới nền kinh tế đến trước năm 1995, thuật ngữ
“hợp đồng theo mẫu” vẫn còn xa lạ và chưa được đề cập trong các văn bản pháp
luật.
Năm 1995, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua Bộ
luật Dân sự (BLDS) - có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 1996, lần đầu tiên chế
định HĐTM được ghi nhận chính thức trong văn bản pháp luật tại Điều 406 BLDS
năm 1995. Bên cạnh BLDS là nền tảng pháp lý trong việc điều chỉnh quan hệ hợp
đồng nói chung và HĐTM nói riêng thì chế định HĐTM cịn xuất hiện trong các
nguồn luật chuyên ngành khác, trong đó phải kể đến các quy định về HĐTM trong
pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Trong những năm trước đổi mới, nhận thức của toàn xã hội về quyền lợi của
người tiêu dùng nói chung và hệ thống pháp luật bảo vệ quyền lợi của người tiêu

dùng nói riêng gần như không tồn tại. Cơ chế quản lý kinh tế bao cấp dựa trên kế
hoạch hóa tập trung vào vấn đề sản xuất hàng hóa và cung cấp dịch vụ, nhu cầu của
người tiêu dùng được nhà nước quản lý thông qua hệ thống tem phiếu. Tuy nhiên,
qua quá trình phát triển, khi Việt Nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
sang cơ chế thị trường, lúc này bắt đầu xuất hiện quan hệ tiêu dùng, đó là quan hệ
mua bán, giao dịch giữa một bên là nhà sản xuất, kinh doanh hàng hố - dịch vụ,
trong đó một bên là người bỏ tiền ra mua hàng hoá và dịch vụ để phục vụ cho sinh
hoạt, tiêu dùng của cá nhân, gia đình và tổ chức (được gọi chung là người tiêu
dùng) với vai trò của người tiêu dùng ngày càng được nâng cao. Trong mối quan hệ
này, người tiêu dùng thường ở vị trí là bên yếu thế, bất bình đẳng về địa vị kinh tế,
mất khả năng mặc cả khi họ buộc phải sử dụng hàng hóa, dịch vụ của nhà cung cấp
độc quyền. Thực tế là vậy, những “kẻ ưu thế” thường hành xử theo xu hướng lạm
dụng quyền lực với bên yếu thế. Thêm vào đó, nếu như cứ có 300% lợi nhuận thì
các nhà tư bản sẵn sàng “treo cổ mình” là vì vậy, họ cũng sẵn sàng “khuyến mại”
cho khách hàng và người tiêu dùng những “cạm bẫy pháp lý” và kỹ thuật4. Vì vậy
mà một hệ thống pháp luật nhân đạo phải ưu tiên bảo vệ kẻ yếu.

3

Nguyễn Ngọc Khánh, Hợp đồng: Thuật ngữ và khái niệm, Nhà nước và Pháp luật, Số 8 (220)/2006, tr.38.
Nguyễn Như Phát, Một số vấn đề lý luận xung quanh Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Nhà nước và
pháp luật Số (02)/2010, tr. 28.
4

HĐTM – Những vấn đề lý luận và thực tiễn


7
Trong bối cảnh đó, việc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng đã được đặt ra
và được xác định bằng các văn bản pháp lý như Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi của

người tiêu dùng năm 1999, đây được xem như một công cụ hỗ trợ bên cạnh pháp
luật dân sự, với sự tham gia của các tổ chức như Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi
trường (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ) - cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính
phủ thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong phạm vi
cả nước,…cùng mạng lưới các Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường và các Hội
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở các địa phương. Có thể nói, Pháp lệnh Bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng năm 1999 là bước đi đầu tiên trong việc bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng. Tuy là nhóm văn bản điều chỉnh trực tiếp nhưng Pháp lệnh chỉ tập
trung chủ yếu vào mục tiêu bảo vệ sức khỏe cho người tiêu dùng, chỉ điều chỉnh
giao dịch của người tiêu dùng bằng các quy định liên quan đến hợp đồng nói chung
mà chưa có những quy định cụ thể về HĐTM.
Với sự chuyển đổi nhanh của nền kinh tế thị trường, sau 10 năm thi hành
nhiều quy định của BLDS năm 1995 lúc này khơng cịn phù hợp với điều kiện thực
tế, bên cạnh đó Đảng và Nhà nước ta ln mong muốn xây dựng một hệ thống pháp
luật hoàn chỉnh, phản ánh tốt hơn đường lối chủ trương của Đảng trong công cuộc
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các nhà lập pháp đã
có sự tiếp thu, học hỏi những những quy định pháp luật từ thực tiễn, cũng như luật
pháp của các nước trên thế giới, cân nhắc chúng cùng với hoàn cảnh thực tiễn tại
Việt Nam để đưa ra một văn bản có tính chuẩn mực pháp lý cao trong hệ thống
pháp luật dân sự. Trên cơ sở đó, song song với việc sửa đổi những hạn chế, BLDS
năm 2005 đã tiếp tục kế thừa và phát triển những ưu điểm của BLDS năm 1995,
trong đó chế định HĐTM được tiếp tục ghi nhận tại Điều 407 BLDS năm 2005.
Tương tự như BLDS năm 1995, qua quá trình áp dụng Pháp lệnh Bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng cũng đã bộc lộ những hạn chế và bất cập như tính khả thi
của Pháp lệnh và Nghị định hướng dẫn chưa cao, nhiều quy định khá chung chung
khó thực thi trong thực tiễn, thiếu những quy định cụ thể, rõ ràng để bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng trong quan hệ hợp đồng với các chủ thể kinh doanh.
Điều này dẫn đến nhu cầu thiết yếu đặt ra là cần có một văn bản mới khắc
phục được những hạn chế của pháp lệnh, tiếp tục thực thi hóa chính sách bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng và thể hiện sự tôn trọng các quyền của người tiêu dùng,

chống lại sự lạm dụng của nhà sản xuất, kinh doanh và những bất công trong xã hội,
trên cơ sở đó Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (LBVQLNTD) năm 2010 đã ra

HĐTM – Những vấn đề lý luận và thực tiễn


8
đời, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2001, điều này một lần nữa khẳng định
chính sách trong việc bảo vệ người tiêu dùng được thể hiện qua định nghĩa về
HĐTM tại khoản 3 Điều 5, quy định điều kiện có hiệu lực cũng như các biện pháp
kiểm soát HĐTM tại Chương 2 của Luật này.
Khái niệm hợp đồng theo mẫu
Trong guồng quay của sự phát triển, để tiết kiệm thời gian và chi phí, các chủ
thể đều muốn rút ngắn thời gian soạn thảo hợp đồng nhằm thúc đẩy quá trình giao
dịch được diễn ra nhanh hơn. Xuất hiện từ những năm đầu thế kỷ XX, HĐTM được
các luật gia phương Tây ví như là “đứa con của cuộc cách mạng cơng nghiệp5”, với
trình độ sản xuất phát triển và khả năng sản xuất, cung cấp sản phẩm và dịch vụ
mang tính hàng loạt và liên tục cho vô số khách hàng đã đặt ra vấn đề “tiêu chuẩn
hóa” các điều kiện của hợp đồng nhằm bắt kịp sự mở rộng không ngừng của thị
trường và phù hợp với số lượng người tiêu dùng ngày càng tăng, điều này đồng
nghĩa với việc gia tăng theo tỉ lệ thuận của các giao dịch kinh doanh. Khi đó, là một
trong những phương tiện điều chỉnh quan hệ xã hội, các quy định của pháp luật phải
đáp ứng nhu cầu thực tiễn.
Bên cạnh đó, sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới sự hỗ trợ của tiến bộ
khoa học kỹ thuật làm xuất hiện những ngành sản xuất mới, có trình độ tích tụ cao,
mơi trường cạnh tranh tự do buộc các doanh nghiệp nhỏ, trình độ kỹ thuật kém hoặc
bị các đối thủ mạnh thơn tính hoặc phải liên kết với nhau để đứng vững trên thị
trường, từ đó làm xuất hiện một số xí nghiệp lớn, các tổ chức độc quyền. Vì vậy, ra
đời như một đòi hỏi tất yếu của một nền kinh tế phát triển, HĐTM được sử dụng
ngày càng phổ biến như một trong những công cụ không thể thiếu của các doanh

nghiệp để tăng lợi nhuận, giảm chi phí giao dịch, đồng thời phân chia rủi ro, góp
phần giải quyết cơng việc một cách hiệu quả nhất.
Trên thế giới, HĐTM được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau, như “hợp
đồng gia nhập” hoặc “hợp đồng hàng loạt”6. Xuất phát từ đặc thù của dạng hợp
đồng này mà có nhiều tên gọi khác nhau. Nếu chú trọng yếu tố hình thức thì HĐTM
là hợp đồng soạn sẵn, áp dụng cho nhiều đối tượng và không được thương lượng lại
các điều khoản của hợp đồng. Nếu chú trọng yếu tố khi giao kết hợp đồng thì hợp
đồng gia nhập thể hiện sự yếu thế của một bên khi bị tước bỏ mọi cơ hội thảo luận,
bàn bạc về các điều kiện của hợp đồng đã được bên mạnh hơn về kinh tế quy định
sẵn, chính vì lẽ đó mà bên yếu thế khơng có khả năng tác động tới nội dung của hợp
5
6

Nguyễn Như Phát, tlđd, tr.30.
/>
HĐTM – Những vấn đề lý luận và thực tiễn


9
đồng, chỉ còn cách là gia nhập hợp đồng qua việc thể hiện sự đồng ý hoặc không
đồng ý với các điều khoản do bên kia đưa ra. Nếu chú trọng về khía cạnh ứng dụng
thì bản hợp đồng đã được soạn sẵn trước đó sẽ được xem là khn mẫu cho sự ra
đời của hàng loạt bản hợp đồng khác khi giao dịch với những đối tương khách hàng
khác nhau, đó là hợp đồng hàng loạt.
Pháp luật Hàn Quốc có cả một bộ luật riêng để điều chỉnh loại hợp đồng này
với tên gọi là hợp đồng gia nhập, cụ thể: “Hợp đồng gia nhập được hiểu là một hợp
đồng bao gồm các điều khoản, điều kiện - bất kể phạm vi, thể loại hay tên gọi của
chúng như thế nào - được một bên chuẩn bị trước dưới một hình thức nhất định, với
mục đích giao kết hợp đồng với nhiều đối tác khác nhau7”.
Hay tại Điều 1379 BLDS Québec năm 1991 đã định nghĩa: “HĐTM khi mà

các quy định chủ yếu được áp đặt hoặc chuẩn bị bởi một bên theo ý đồ của họ và
những điều khoản đó khơng thể được tự do thảo luận. Tất cả các hợp đồng không
phải hợp đồng mẫu đều phải có thỏa thuận giữa các bên8”.
Tại Việt Nam, trong thời kỳ nền kinh tế chưa phát triển, lúc này hoạt động
kinh doanh cịn mang tính manh mún, nhỏ lẻ, mỗi doanh nghiệp chỉ có một lượng
khách hàng khơng đáng kể. Tuy nhiên, kể từ khi đất nước đổi mới, Đảng và Nhà
nước thực hiện chính sách mở cửa kinh tế cùng với xu thế hội nhập, tình hình hoạt
động sản xuất không ngừng phát triển, quan hệ mua bán, trao đổi hàng hóa trở thành
hoạt động thường nhật với nhịp độ cao. Do đó, để đáp ứng nhu cầu thực tiễn, pháp
luật nước ta đã chính thức ghi nhận chế định HĐTM tại Điều 406 BLDS năm 1995.
Cụ thể, BLDS năm 1995 định nghĩa HĐTM là “hợp đồng gồm những điều khoản
do một bên đưa ra theo mẫu để bên kia trả lời trong một thời gian hợp lý; nếu bên
được đề nghị trả lời chấp nhận, thì coi như chấp nhận toàn bộ nội dung HĐTM mà
bên đề nghị đã đưa ra”. Tiếp tục kế thừa và phát triển tinh thần của BLDS năm
1995, HĐTM được quy định tại Điều 407 BLDS năm 2005.

7

Clause 1, Article 2 of Adhesion Contract Act of Korea: “the term adhesion contract means the general terms
and conditions of a contract, regardless of their name, type, or scope, prepared in advance by one party in a
certain form for the purpose of entering into a contract with a large number of persons”.
(Nguồn: />8
Article 1379 Code Civil Québec 1991: “ A contract of adhesion is a contract in which the essential
stipulations were imposed or drawn up by one of the parties, on his behalf or upon his instructions, and were
not negotiable. Any contract that is not a contract of adhesion is a contract by mutual agreement”.
(Nguồn:
/>Q1991_A.html)

HĐTM – Những vấn đề lý luận và thực tiễn



10
Từ nhận định về sự yếu thế, dễ bị lạm dụng của người tiêu dùng trong các giao
dịch với doanh nghiệp và xác định người tiêu dùng là chủ thể cần được bảo vệ trước
tiên khi có sự lạm dụng HĐTM, bên cạnh nền tảng pháp lý là BLDS, LBVQLNTD
năm 2010 lần đầu tiên đã đặt cơ sở tương đối đồng bộ cho việc kiểm soát HĐTM từ
khái niệm hợp đồng, điều kiện có hiệu lực, nghĩa vụ cung cấp thông tin, nghĩa vụ
thực hiện, cũng như các biện pháp kiểm soát HĐTM, hậu quả pháp lý của các điều
khoản vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng trong HĐTM. LBVQLNTD năm
2010 đã định nghĩa:“HĐTM là hợp đồng do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ soạn thảo để giao dịch với người tiêu dùng” (khoản 5 Điều 3).
Như vậy, phù hợp với thông lệ quốc cũng như đáp ứng nhu cầu thiết yếu của
thực tiễn và cụ thể hóa chính sách pháp luật của nước ta, có thể thấy đặc trưng pháp
lý về HĐTM đó là một loại hợp đồng gồm những điều khoản chỉ do một bên soạn
thảo sẵn, được sử dụng nhiều lần với các đối tác khác nhau, bên cịn lại chỉ có
quyền chấp nhận hoặc khơng chấp nhận tồn bộ nội dung của hợp đồng.
Những lĩnh vực phổ biến sử dụng hợp đồng theo mẫu
Nếu như ở phương Tây, cách đây 40 năm, HĐTM gần như chiếm hơn 99% số
lượng các hợp đồng được thiết lập và đến nay sự phổ biến này vẫn khơng thay đổi9
thì Việt Nam cũng khơng nằm ngồi xu hướng này. Phần lớn các giao dịch hiện nay
đều được thực hiện dưới dạng HĐTM, điển hình trong các lĩnh vực sau:
Thứ nhất, HĐTM trong lĩnh vực công nghệ, thông tin và internet:
Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin trong những năm gần đây,
hiện nay ở Việt Nam với hơn 20 triệu người sử dụng, so với phương thức kinh
doanh truyền thống, việc mở rộng thị trường hay đưa ra một sản phẩm mới gặp rất
nhiều khó khăn và thách thức. Chính vì vậy, sử dụng HĐTM trong lĩnh vực này tạo
cơ hội cho các doanh nghiệp mở rộng khu vực kinh doanh một cách nhanh chóng,
giảm chi phí trong việc quảng cáo và tiếp thị sản phẩm tới người tiêu dùng.
Trong lĩnh vực công nghệ, thông tin và internet thường tồn tại chủ yếu các loại
hợp đồng kích hoạt (Click Wrap), hợp đồng trình duyệt (Browse Wrap) hay hợp

đồng gói bọc (Shrink Wrap). Đây là các dạng hợp đồng thường được sử dụng đối
với các khách hàng mua bản quyền phần mềm hoặc các khách hàng truy cập
internet. Chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp rất nhiều HĐTM trong lĩnh vực công nghệ
9

Wayne Barnesv (2010), Consumer Assent to Standard Form Contracts and the Voting Analogy, West
Virginia law review, (112), pp.6.

HĐTM – Những vấn đề lý luận và thực tiễn


11

thông tin và internet ngay khi truy cập một website, download một phần mềm, hay
sử dụng các gói giải pháp công nghệ của các hãng công nghệ thông tin. Với trình độ
cơng nghệ thơng tin ngày càng phát triển như hiện nay, các loại HĐTM càng trở
nên đa dạng và bùng nổ về số lượng.
Thứ hai, HĐTM trong lĩnh vực bảo hiểm:
Trên thế giới, bảo hiểm là một lĩnh vực phát triển và đem lại lợi nhuận rất cao
cho các doanh nghiệp. Có thể nói, các điều khoản được soạn sẵn trong hợp đồng
bảo hiểm là hình ảnh minh họa nổi bật nhất cho những nổ lực thành công của một
phần hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong việc lựa chọn và kiểm soát
rủi ro giả định theo hợp đồng. Bảo hiểm hoạt động theo quy luật số đơng, tức là số
đơng người có những rủi ro tương tự nhau cùng đóng phí để bù đắp tổn thất và thiệt
hại cho số ít người gặp rủi ro. Để đảm bảo tính tương tự về rủi ro và tính tốn mức
phí bảo hiểm hợp lý, mỗi loại sản phẩm cần có phạm vi bảo hiểm cụ thể và quy định
thống nhất trong điều khoản. Khi bán bảo hiểm cho số đông, doanh nghiệp bảo
hiểm cũng không thể trực tiếp thương lượng chi tiết điều khoản với từng khách
hàng. Số lượng và chủng loại khách hàng với nhu cầu bảo hiểm đa dạng, phong phú
khiến cho các doanh nghiệp thêm ưa chuộng sử dụng HĐTM trong quá trình giao

dịch. HĐTM sẽ giúp thúc đẩy tiến độ công việc, đồng thời, góp phần giúp doanh
nghiệp giảm thiểu rủi ro một cách tối đa.
Thứ ba, HĐTM trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng:
Sự phát triển với tốc độ nhanh chóng của các ngân hàng trong và ngoài nước
những năm qua cả về quy mơ, số lượng các chi nhánh, phịng giao dịch trên toàn
quốc cũng như nhu cầu của cá nhân, tổ chức cần sử dụng vốn để thực hiện công
việc kinh doanh, đầu tư của mình ngày càng gia tăng đáng kể. Đón trước tình hình,
đáp ứng nhu cầu của xã hội, việc sử dụng HĐTM là một trong những kết quả tất
yếu của quy luật vận động tự nhiên, là công cụ hỗ trợ đắc lực, rút ngắn thời gian
trong quy trình tín dụng, góp phần giải quyết hồ sơ nhanh chóng để khách hàng tiếp
cận nguồn vốn dễ dàng thuận lợi hơn. Không chỉ dừng lại ở nghiệp vụ cho vay,
hàng loạt các sản phẩm tiện lợi khác của các tổ chức đã ra đời như hoạt động tiền
gửi, hoạt động quản lý tài khoản của khách hàng qua internet, thẻ tín dụng, chuyển
tiền qua tài khoản,….khi khách hàng tiến hành các giao dịch này đều được thực
hiện một cách nhanh chóng với những điều khoản mẫu đã được ngân hàng soạn sẵn.
Thứ tư, HĐTM trong lĩnh vực xây dựng và bất động sản:

HĐTM – Những vấn đề lý luận và thực tiễn


12
Lĩnh vực xây dựng và bất động sản cũng là lĩnh vực thường sử dụng HĐTM,
trong đó dạng HĐTM thường gặp nhất đó là hợp đồng thuê nhà. Ở Việt Nam, việc
cho thuê nhà (không phải là cho thuê văn phòng) thường do các chủ hộ tư nhân nhỏ
lẻ thực hiện và các đối tượng thuê nhà thường cũng chỉ là các khách hàng cá nhân
hoặc hộ gia đình, trong khi đó các nước tiên tiến trên thế giới thường có rất nhiều
các cơng ty nhà đất chun nghiệp cho dịch vụ này. Họ có cả một đội ngũ chuyên
gia và luật sư dày dặn kinh nghiệm để soạn thảo ra các hợp đồng thuê nhà với các
điều khoản, điều kiện mang tính cố định và áp dụng cho hàng loạt các khách hàng
của mình.

Vai trị của hợp đồng theo mẫu
Là một chế định đặc biệt của hợp đồng dân sự nói chung, HĐTM cũng là căn
cứ pháp lý cho việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng.
Về nguyên tắc, các điều khoản trong HĐTM được hình thành khơng dựa trên
cơ sở đàm phán, thương lượng giữa các bên tham gia mà được soạn thảo trước bởi
bên cung cấp hàng hóa, dịch vụ và khách hàng chỉ được thể hiện ý chí của mình
bằng cách chấp nhận toàn bộ nội dung của hợp đồng hoặc khơng chấp nhận. Khi đã
chấp nhận giao kết thì hợp đồng phát sinh hiệu lực, các bên phải tuân thủ những
điều khoản đã được quy định trong hợp đồng cho đến khi kết thúc thời hạn có hiệu
lực.
Về mặt xã hội, HĐTM cũng giữ vai trị vơ cùng quan trọng đối với các chủ thể
trong hợp đồng, đối với nền kinh tế cũng như công tác quản lý của nhà nước.
Đối với các chủ thể trong hợp đồng:
Cùng với tiến trình tự do hóa thương mại và sự phát triển nhanh chóng của
nền kinh tế thị trường, hoạt động cung cấp hàng hóa, dịch vụ ngày càng trở nên sơi
động, phổ biến khi thị trường mở cửa, tạo sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các doanh
nghiệp Việt Nam với nhau cũng như giữa các doanh nghiệp Việt Nam với doanh
nghiệp nước ngồi. Để có thể nâng cao sức cạnh tranh trong việc đáp ứng nhu cầu
thị trường với số lượng lớn khách hàng, các doanh nghiệp đã sử dụng HĐTM như
một công cụ pháp lý nhằm giải quyết công việc của mình một cách hiệu quả.
Hợp đồng dân sự nói chung được hình thành từ sự thỏa thuận của các bên, là
kết quả của quá trình thương thảo và thống nhất ý chí của các bên để làm phát sinh,
thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của nhau. Tuy cũng là một trong những loại
hợp đồng dân sự nói chung nhưng HĐTM khơng được hình thành từ sự đàm phán,
mà do một bên trong quan hệ hợp đồng soạn thảo từ trước để áp dụng hàng loạt đối

HĐTM – Những vấn đề lý luận và thực tiễn


13

với các khách hàng tương tự nhau. Điều này lý giải tại sao HĐTM lại được sử dụng
phổ biến như hiện nay, khơng chỉ mang lại lợi ích cho cá nhân, tổ chức kinh doanh
mà ở khía cạnh nhất định còn mang lại sự thuận tiện cho cả người tiêu dùng.
Một tính năng phổ biến đầu tiên có thể kể đến, đó là việc sử dụng HĐTM sẽ
giúp các doanh nghiệp tiết kiệm chi phí, thời gian, cơng sức trong quá trình đàm
phán giao kết hợp đồng bởi hợp đồng mẫu sẽ được áp dụng cho những đối tượng
khách hàng khác nhau và sử dụng một cách lâu dài, các bên trong hợp đồng không
cần phải mất thời gian đàm phán từng điều khoản trong hợp đồng mà có thể tự
nguyện tham gia hợp đồng sau khi hợp đồng đã được xác lập.
Bên cạnh đó, trước khi soạn thảo thành bản HĐTM để áp dụng cho hàng loạt
khách hàng trong quá trình cung cấp và phân phối sản phẩm của mình, thương nhân
đã dự liệu, tính tốn, phân chia rủi ro và những điều khoản này thường được soạn
thảo bởi các luật sư chuyên nghiệp10. Khi đó, những yếu tố, sự kiện có thể gây ảnh
hưởng đến hoạt động kinh doanh như đình cơng, hỏa hoạn, thiên tai có thể được
kiểm soát qua HĐTM. Là bên cung cấp sản phẩm, hơn ai hết các thương nhân là
người nắm bắt và am hiểu được nhu cầu của đối tượng khách hàng mà mình hướng
đến, cùng với bề dày kinh nghiệm trong lĩnh vực mà mình kinh doanh, thương nhân
sẽ thống nhất hóa và chia sẻ rủi ro một cách hợp lý cho các bên trong hợp đồng, vì
vậy HĐTM được soạn thảo chứa đựng những điều khoản mà cả hai bên đều mong
muốn đạt được, khơng chỉ mang lại lợi ích và giảm thiểu chi phí trong việc cung
cấp sản phẩm cho nhà kinh doanh mà cho cả người tiêu dùng và xã hội.
Ngoài lý do kinh tế, tầm quan trọng rõ ràng của việc sử dụng HĐTM đối với
doanh nghiệp là tự bảo vệ mình tránh được nhiều rủi ro, tranh chấp phát sinh vì qua
quá trình áp dụng vào thực tế, những điều khoản không phù hợp sẽ được phát hiện
và sửa đổi theo hướng hoàn thiện hơn.
Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến các doanh nghiệp đã, đang
và sẽ áp dụng HĐTM như một công cụ tất yếu hỗ trợ hoạt động thương mại của
mình vì nó thể hiện được bản sắc riêng và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường
mang tính cạnh tranh khốc liệt như hiện nay. Qua việc tham khảo các mẫu hợp đồng
của nhiều nhà kinh doanh khác nhau, người tiêu dùng có nhiều cơ hội trong việc

xem xét, đánh giá và lựa chọn đối tác thích hợp nhất. Để có thể nâng cao khả năng
và giành phần thắng về mình, buộc các doanh nghiệp phải thể hiện trong HĐTM

10

Schuchman (1962), Consumer Credit by Adhesion Contracts, 35 TEMPLE L.Q. 125, pp.131

HĐTM – Những vấn đề lý luận và thực tiễn


14
những thế mạnh của mình vượt trội hơn so với đối thủ cạnh tranh thơng qua các
chính sách, quyền lợi mà doanh nghiệp mang đến cho khách hàng.
Đối với nền kinh tế và công tác quản lý của nhà nước:
Pháp luật được ban hành nếu phù hợp với nền kinh tế nó sẽ có tác dụng thúc đẩy
nền kinh tế phát triển. Ngược lại, pháp luật có thể là rào cản đáng kể kìm hãm sự phát
triển. Đối với chế định HĐTM cũng vậy, sự ra đời của HĐTM mang lại một phương
thức mới thích hợp với tốc độ phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thị trường. So
với phương thức truyền thống, HĐTM đã rút ngắn quy trình giao kết hợp đồng, đem
lại kết quả tích cực, đáp ứng số lượng lớn nhu cầu của khách hàng, góp phần tăng
lợi nhuận của các nhà kinh doanh, tạo động lực phát triển kinh tế.
Về bản chất, cũng như một hơp đồng dân sự thơng thường, giá trị đích thực
của bản HĐTM là quy định quyền và nghĩa vụ của bên, buộc họ phải có nghĩa vụ
thực hiện những gì mình đã cam kết. Thơng qua HĐTM, pháp luật hợp đồng sẽ
được cụ thể hóa trong những giao dịch cụ thể có chức năng điều chỉnh hành vi.
Nhưng việc thiết lập phải đảm bảo tính hợp pháp mới phát sinh hiệu lực. Khi được
tiến hành trên thực tiễn, HĐTM cũng có ảnh hưởng đến sự điều chỉnh của pháp luật.
Bởi hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh về vấn đề này như Pháp lệnh bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng, BLDS 2005, Luật thương mại năm 2005 chưa chú
trọng. Vì vậy, những thuận lợi và khó khăn trong q trình thực hiện cũng như khi

có tranh chấp xảy ra sẽ giúp khắc phục được những khoản trống mà văn bản quy
phạm pháp luật chưa quy định.
Bên cạnh đó, việc quy định một số loại HĐTM phải được phê chuẩn trước khi
giao dịch sẽ tạo điều kiện và là cơ sở để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giám
sát quá trình thực hiện pháp luật về hợp đồng ngay từ khi hợp đồng chưa được giao
kết, do đó sẽ hạn chế các vi phạm có thể xảy ra nhằm xây dựng môi trường kinh
doanh lành mạnh.
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng theo mẫu
Từ định nghĩa nêu trên, có thể thấy rằng so với các hợp đồng thơng thường,
HĐTM có một số đặc điểm nổi bật sau:
Một là, về chủ thể tham gia giao kết HĐTM: Giữa các bên thường tồn tại một
khoảng cách về địa vị, vị thế thương lượng rất lớn.
Theo quy định chung của pháp luật hợp đồng, cụ thể tại Điều 407 BLDS năm
2005 cho thấy:

HĐTM – Những vấn đề lý luận và thực tiễn


15
Trong quan hệ hợp đồng nói chung và HĐTM nói riêng thường có từ hai hoặc
nhiều hơn hai bên tham gia, gọi là các bên chủ thể hợp đồng. Các bên tham gia hợp
đồng rất đa dạng, bao gồm cá nhân, pháp nhân, và hộ gia đình, tổ hợp tác. Nhằm tạo
điều kiện cho các chủ thể thỏa mãn được nhu cầu về đời sống vật chất cũng như tinh
thần, BLDS cho phép mọi chủ thể được quyền tự do giao kết hợp đồng. Quyền này
được thể hiện ở các khía cạnh sau: đó là quyền được tự do bình đẳng, tự nguyện
giao kết hợp đồng, các chủ thể đều được tự do về mặt ý chí; quyền được tự do lựa
chọn đối tác, thỏa thuận nội dung giao kết hợp đồng, hay quyền được tự do thỏa
thuận cơ quan tài phán và luật giải quyết tranh chấp hợp đồng… miễn là không vi
phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội (Điều 389 BLDS 2005).
Tuy nhiên, thực tế xã hội luôn tồn tại các thành phần chủ thể đại diện cho các

lợi ích khác nhau, với tiềm lực và vị thế kinh tế - xã hội khác nhau. Bên cạnh đó,
trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường đã làm xuất hiện quan hệ giữa một bên là
các nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và một bên là người tiêu dùng. Mối quan hệ này
đã được điều chỉnh tại khoản 5 Điều 3 của LBVQLNTD năm 2010, theo đó, chủ thể
tham gia HĐTM gồm một bên là tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ với
một bên là người tiêu dùng. Trong mối quan hệ này, người tiêu dùng theo quy định
của LBVQLNTD năm 2010 không chỉ là cá nhân mà cịn bao gồm cả tổ chức, pháp
nhân, hộ gia đình khi thỏa điều kiện tham gia giao dịch khơng vì mục đích sinh lợi
mà nhằm mục đích sinh hoạt tiêu dùng (khoản 1 Điều 3).
Như vậy, một mặt thỏa các điều kiện chung về mặt chủ thể theo quy định
chung của pháp luật dân sự - vốn là đạo luật gốc, nền tảng của pháp luật hợp đồng,
mặt khác xuất phát từ tính chất xã hội của quan hệ tiêu dùng mà giữa các chủ thể
tham gia giao kết HĐTM thường tồn tại một khoảng cách về địa vị, vị thế thương
lượng rất lớn. Thường thì bên đưa ra các điều khoản, điều kiện của hợp đồng là bên
có địa vị cao hơn, có khả năng về tài chính, về pháp lý và có đầy đủ thơng tin về
giao dịch. Ngược lại, bên phải chấp nhận vô điều kiện nội dung của hợp đồng lại
thường là người tiêu dùng, có một vị thế thấp hơn rất nhiều. Bởi một bên trong giao
dịch là các nhà kinh doanh có thế mạnh về kinh tế, hiểu biết rõ về lĩnh vực chuyên
môn mà mình kinh doanh, và hơn ai hết họ là người hiểu rõ, nắm bắt đầy đủ thông
tin về hàng hóa, dịch vụ mà mình cung cấp, trong một số trường hợp họ còn là nhà
cung cấp độc quyền, trong khi đó, mục đích của việc tham gia giao kết hợp đồng
của người tiêu dùng là thỏa mãn nhu cầu sử dụng hàng hóa, dịch vụ, đặc biệt là với
những nhu cầu thiết yếu như sử dụng điện, nước,… thì họ thường rơi vào trạng thái

HĐTM – Những vấn đề lý luận và thực tiễn


16
mất khả năng mặc cả. Trong mối quan hệ này, khả năng tự do và bình đẳng trong
quan hệ giữa người tiêu dùng và nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ đã không được thể

hiện rõ nét theo đúng tinh thần của pháp luật dân sự. Vì lẽ đó, pháp luật bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng như một công cụ hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi, bình
đẳng cho người tiêu dùng trong cơ chế điều chỉnh pháp luật quan hệ mua bán mà
một chủ thể pháp luật dân sự thơng thường sẽ khơng có được.
Mặc dù theo quy định của pháp luật dân sự thì mọi chủ thể đều được quyền
bình đẳng, tự do giao kết bất kỳ hợp đồng nào, tuy nhiên dưới tác động của các điều
kiện, kinh tế - xã hội dẫn đến sự xuất hiện của HĐTM đã tạo nên sự khác biệt về
chủ thể tham gia loại hợp đồng này với đặc tính là có sự chênh lệch về địa vị, vị thế
thương lượng trên thương trường.
Hai là, nội dung của HĐTM chứa đựng những điều khoản được soạn thảo sẵn
bởi một bên.
Với sự xuất hiện hàng loạt các doanh nghiệp với quy mô lớn cùng khả năng
sản xuất và cung cấp hàng hóa cho số lượng lớn khách hàng. Điều này đặt ra vấn đề
“tiêu chuẩn hóa” các điều khoản của hợp đồng. Trong bối cảnh đó, các doanh
nghiệp đã thiết lập cho mình những bản hợp đồng gồm những điều khoản đã được
soạn sẵn trước đó, và phần lớn các hợp đồng này đều được chuẩn bị bởi các chuyên
gia pháp luật.
Đây có thể coi là điểm nổi bật nhất của HĐTM. Nguồn gốc ra đời của những
điều khoản này được soạn thảo một cách đơn phương mà khơng có bất kỳ sự thỏa
thuận nào từ phía thương nhân và đối tác muốn giao kết hợp đồng. Vì vậy, những
điều kiện này thường chỉ thể hiện ý chí của bên soạn thảo với nội dung có lợi hơn,
vì mục tiêu giành phần ưu thế cũng như sự an toàn pháp lý hơn cho mình và đẩy
quả bóng bất lợi về phía chủ thể muốn gia nhập loại hợp đồng này.
Ba là, HĐTM được soạn thảo nhằm áp dụng nhiều lần đối với hàng loạt khách
hàng khác nhau.
Việc sử dụng rộng rãi hình thức HĐTM hiện nay đã phản ánh nhu cầu thực tế
của nền kinh tế và bằng chứng về sự cần thiết của dạng hợp đồng này của doanh
nghiệp trong việc giải quyết các cơng việc của mình một cách nhanh chóng, hiệu
quả, đặc biệt đối với các doanh nghiệp có số lượng khách hàng lớn đã lựa chọn giải
pháp chung là đưa ra hợp đồng mẫu áp dụng cho tất cả khách hàng của mình. So với

phương thức cung cấp hàng hóa, dịch vụ truyền thống trước đây là dựa trên cơ sở
hợp đồng được giao kết với từng đối tượng theo cách thức khác nhau, quyền và

HĐTM – Những vấn đề lý luận và thực tiễn


17
nghĩa vụ cũng khác nhau tùy thuộc vào sự thương lượng, thỏa thuận giữa các bên.
Ngày nay, việc áp dụng HĐTM đã góp phần tiết kiệm thời gian và cơng sức trong
việc đàm phán và thỏa thuận điều chỉnh hành vi của người tiêu dùng trên diện rộng,
chúng được áp dụng nhiều lần cho những đối tượng khách hàng tương tự nhau và
được sử dụng một cách lâu dài mà không phải lặp lại công việc soạn thỏa hợp đồng
với từng khách hàng.
Chính vì vậy, là sản phẩm của cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra từ cuối thế
kỷ XIX, xuất phát từ tính lặp đi lặp lại của các giao dịch cùng loại, các doanh
nghiệp đã soạn thảo ra loại hợp đồng này để áp dụng cho tất cả khách hàng của
mình. Đây là những điều khoản, điều kiện mang tính mặc định dành cho bất kì ai
mua hoặc sử dụng hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp. Khách hàng khi giao dịch
với doanh nghiệp sẽ không được đàm phán riêng lẻ về các nội dung của hợp đồng
mà chỉ có thể chấp nhận tồn bộ hoặc từ bỏ giao kết hợp đồng này.
1.1.3. Hình thức của hợp đồng theo mẫu
Từ điển Luật học định nghĩa hình thức hợp đồng là “cách thức thể hiện sự
thỏa thuận giữa các bên11. Hình thức và nội dung là một cặp phạm trù có mối liên
hệ biện chứng12. Hình thức hợp đồng là cách thức thể hiện ý chí ra bên ngồi của
các bên giao kết hợp đồng, ln gắn bó chặt chẽ với nhau trong một thể thống nhất.
Khơng có hình thức nào tồn tại thuần túy không chứa đựng nội dung, ngược lại
cũng khơng có nội dung nào lại khơng tồn tại trong một hình thức xác định. Để đảm
bảo được tính thống nhất, là nền tảng chung cho pháp luật về hợp đồng, có hiệu lực
điều chỉnh đối với tất cả các quan hệ hợp đồng trong mọi lĩnh vực. Về hình thức
hợp đồng dân sự nói chung, Điều 401 BLDS 2005 quy định:

“1. Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc
bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định đối với loại hợp đồng đó phải
được giao kết bằng một hình thức nhất định.
2. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng
văn bản có cơng chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc phải xin phép thì phải
tuân theo các quy định đó.

11

Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, NXB Khoa học pháp lý – NXB từ điển Bách
khoa, tr.363.
12
Nguyễn Hữu Vui và Nguyễn Ngọc Long (chủ biên), Giáo trình triết học Mác – Lênin (Dùng trong các
trường đại học và cao đẳng), Tái bản lần thứ hai, Nxb. CTQG, H. 2005, tr. 244.

HĐTM – Những vấn đề lý luận và thực tiễn


18
Hợp đồng khơng bị vơ hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ
trường hợp có quy định khác”.
Ngoài ra, cũng là một dạng giao dịch dân sự nên theo quy định tại Điều 124
BLDS 2005 thì thơng điệp dữ liệu (hợp đồng điện tử) cũng được xem là một trong
những hình thức của hợp đồng dân sự.
Là một dạng đặc biệt của hợp đồng dân sự, theo quy định tại khoản 1 Điều
407 BLDS 2005 thì đây là hợp đồng được một bên đưa ra “theo mẫu” để bên kia trả
lời trong một thời gian hợp lý thì thể thức thể hiện thích hợp nhất của loại hợp đồng
này chỉ có thể là văn bản mà khơng thể tồn tại dưới dạng giao kết bằng lời nói bởi
cách thức thể hiện của hình thức giao kết này là trao đổi bằng lời nói, trực tiếp hoặc
qua điện thoại,…để diễn đạt ý muốn của mình hay cũng khơng thể thể hiện theo thể

thức là hành vi cụ thể khác – đó là một hành động thuần túy, thường được sử dụng
khi bên thực hiện hành vi giao kết hợp đồng đã biết rõ nội dung và chấp nhận tất cả
điều kiện mà bên kia đưa ra và bên kia cũng chấp nhận cách thức giao dịch bằng
hành vi cụ thể đó, ví dụ như hành vi mua nước tại các máy bán nước tự động, hợp
đồng được coi là ký kết khi người tiêu dùng thả tiền vào máy tự động và thực hiện
một số các động tác cần thiết để nhận chai nước. Những hình thức này khơng thể
hiện ý chí của các bên giao kết theo một mẫu thống nhất. Vì vậy, HĐTM thường
được thể hiện dưới các hình thức sau:
Thứ nhất, hợp đồng bằng văn bản giấy:
Là hợp đồng mà nội dung của nó là các điều khoản do các tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đưa ra được thể hiện trên một bản in cụ thể, người
tiêu dùng chỉ bổ sung thông tin cá nhân, thông tin về đối tượng hợp đồng và chấp
nhận những nội dung còn lại bằng cách ký tên, điển hình như hợp đồng cung cấp
dịch vụ internet, hợp đồng cung cấp dịch vụ viễn thông, hợp đồng mua bán điện
sinh hoạt,…
Thứ hai, hợp đồng giao kết qua phương tiện điện tử:
Trước sự phát triển rất nhanh của công nghệ thông tin và xu thế hội nhập vào
nền kinh tế toàn cầu, trước nhu cầu xây dựng “nền kinh tế số”, việc phát triển và
ứng dụng công nghệ thơng tin ở Việt Nam đã khơng cịn xa lạ với người dân.
Thương mại điện tử cho phép các doanh nghiệp và khách hàng tìm thấy nhau nhanh
chóng hơn trên cả phạm vi toàn cầu, cũng như làm giảm độ phức tạp trong việc tìm
và hồn tất thủ tục giấy tờ chỉ bằng việc nhấp chuột và sử dụng bàn phím. Hợp đồng

HĐTM – Những vấn đề lý luận và thực tiễn


19
điện tử đã trở thành một hình thức kinh doanh hồn tồn mới trong dịng chảy cơng
nghệ hiện đại và được áp dụng thường xuyên hơn cả “hợp đồng giấy” truyền thống.
Điều 33 Luật Giao dịch điện tử 2005 quy định: “Hợp đồng điện tử là hợp

đồng được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu” và được thừa nhận có giá trị
pháp lý như hợp đồng bằng văn bản. Đặc điểm của giao dịch này là thực hiện trên
mạng, không giấy tờ, mua bán qua “cửa hàng ảo”, khách hàng khơng trực tiếp tiếp
xúc với hàng hóa.
Hình thức hợp đồng điện tử phổ biến hiện nay được biết đến với tên gọi là hợp
đồng kích hoạt (Click-wrap), hợp đồng trình duyệt (Browse Wrap) hay hợp đồng
gói bọc (Shrink Wrap). Đây là các dạng hợp đồng thường được sử dụng đối với các
khách hàng mua bản quyền phần mềm hoặc các khách hàng truy cập internet.
Trong đó, hợp đồng kích hoạt (Click-wrap) là một hợp đồng điện tử mà các
điều khoản được một bên thiết lập sẵn và người tham gia có thể đồng ý bằng cách
nhấp chuột vào nút “đồng ý” (Accept) hoặc nút khác đặt phía dưới các điều khoản
của hợp đồng13.
Phân biệt với hợp đồng kích hoạt, hợp đồng trình duyệt khơng thể hiện u
cầu một cách rõ ràng về sự đồng ý của người tham gia đối với nội dung hợp đồng
mà chỉ đăng tải đường dẫn để chuyển đổi sang trang web chứa các điều khoản đó.
Người sử dụng web được giả định là chấp nhận các điều khoản của hợp đồng khi họ
duyệt web14.
Một hình thức khác của hợp đồng điện tử - hợp đồng gói bọc (Shrink wrap),
thường là một thỏa thuận bằng văn bản cho phép người dùng sử dụng phần mềm và
có hiệu lực ngay khi khách hàng mở gói giao dịch này15.
1.1.4. Điều kiện để hợp đồng theo mẫu có hiệu lực
Nhằm thực hiện chức năng điều chỉnh và bảo vệ các quan hệ xã hội, tạo điều
kiện cho các quan hệ xã hội phát triển phù hợp với quy luật vận động khách quan,
cũng như xuất phát từ bản chất của quan hệ hợp đồng, pháp luật đã quy định hợp
đồng phải tuân thủ các điều kiện bắt buộc: Chủ thể hợp đồng phải có năng lực hành
13

Christina L. Kunz, Maureen F. Duca, Heather Thayer & Jennifer Debrow (2002), ClickThrough
Agreement: Strategies for Avoiding Disputes on Validity of Assent, pp.401.
14

Christina L. Kunz, John E. Ottaviani, Elaine D. Ziff, Juliet M. Moringillo, Kathleen M. Porter, & Jennifer
C. Debrow (2003), Browse-Wrap Agreements: Validity of Implied Assent in Electronic Form Agreements,
pp.279.
15
Batya Goodman, Honey (2000), I Shrink-Wrapped the Customers: The Shrink-Wrap Agreements as an
Adhesion Contract, pp. 329.

HĐTM – Những vấn đề lý luận và thực tiễn


20
vi dân sự, nội dung, mục đích của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật,
không trái đạo đức xã hội, các bên hoàn toàn tự nguyện.
Là chế định đặc biệt của hợp đồng dân sự nên các quy định chung về hợp
đồng dân sự cũng được áp dụng đối với HĐTM.
Thứ nhất, chủ thể tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng: Các hệ thống pháp
luật đều quy định chủ thể phải có năng lực chủ thể nhất định. Theo đó, yêu cầu về
chủ thể tham gia hợp đồng “có năng lực hành vi dân sự” là một trong những điều
kiện tiên quyết để hợp đồng có hiệu lực. Pháp luật dân sự qui định chủ thể tham gia
giao dịch dân sự (hợp đồng) phải “có năng lực hành vi dân sự” (điểm a khoản 1
Điều 122 BLDS năm 2005).
Thứ hai, mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của
pháp luật, không trái đạo đức xã hội (điểm b khoản 1 Điều 122 BLDS năm 2005).
Nói chung lại, mục đích cuối cùng của việc giao kết hợp đồng là những lợi ích hợp
pháp mà các bên mong muốn đạt được khi giao kết hợp đồng. Nội dung của hợp
đồng bao gồm các điều khoản mà các bên đã thỏa thuận, thống nhất. Để hợp đồng
có hiệu lực và có khả năng thực hiện, pháp luật quy định mục đích, nội dung của
hợp đồng không được trái pháp luật và đạo đức xã hội. Mặc dù khái niệm “đạo đức
xã hội” đã được định nghĩa cụ thể, rõ ràng trong BLDS 2005, nhưng phạm trù “đạo
đức” khá trừu tượng và không phải là bất biến, đôi khi phụ thuộc rất lớn vào nhận

thức chủ quan của mỗi người. Như một Giáo sư người Đức đã từng nhận định:
“Câu hỏi cái gì làm cho hợp đồng trái đạo đức và trái pháp luật là một câu hỏi có
thể nhận được nhiều câu trả lời khác nhau từ những hệ thống pháp luật khác
nhau16”.
Vì vậy, việc xác định thế nào là “trái đạo đức xã hội” rất khó định lượng chính
xác phạm vi của khái niệm này mà tùy thuộc vào sự đánh giá của các Thẩm phán.
Và hệ quả của nó được pháp luật dân sự quy định: Hợp đồng (giao dịch dân sự) “có
mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì vơ
hiệu” (Điều 128 BLDS).
Đối với HĐTM, cơ chế kiểm soát điều khoản vô hiệu theo pháp luật thế giới
được xem xét là những điều khoản khơng cơng bằng dưới góc độ tiếp cận HĐTM là
một hình thức của những điều kiện giao dịch chung theo pháp luật về bảo vệ người
tiêu dùng. Từ những năm 70 của thế kỷ XX, các nhà làm luật Đức và Anh đã ban
16

Zweigert, Konrard & Hein Kotz, An Introduction to Comparative Law (Translater from German: Tony
Weir), 3rd ed, Clarendon, Oxford 1998, tr.382.

HĐTM – Những vấn đề lý luận và thực tiễn


21
hành Luật về kiểm soát đối với những điều kiện giao dịch chung năm 1997 (AGB
gest) của Đức, Luật về những điều khoản hợp đồng không công bằng năm 1977
(Unfair Contract Terms Act) của Anh). Cùng với đó là Chỉ thị của Ủy ban châu Âu
số 93/13/EEC ngày 05/4/1993 về những điều khoản không công bằng trong hợp
đồng với người tiêu dùng17. Pháp luật nước ta cũng khơng nằm ngồi xu hướng này.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 407 BLDS năm 2005 thì: “Trong trường hợp
HĐTM có điều khoản miễn trách nhiệm của bên đưa ra HĐTM, tăng trách nhiệm
hoặc loại bỏ quyền lợi chính đáng của bên kia thì điều khoản này khơng có hiệu

lực, trừ trường hợp có thoả thuận khác”.
Có thể thấy tinh thần chung của luật chung và luật chuyên ngành, đó là quan
niệm về sự cơng bằng xã hội. Theo đó, dù hợp đồng đã được ký kết, hay các điều
kiện giao dịch chung đã được xác lập, nhưng nếu các hợp đồng, điều kiện đó khơng
cơng bằng giữa các bên, đặc biệt là cho người tiêu dùng thì hợp đồng, điều kiện đó
có thể bị tuyên bố vô hiệu bất kỳ lúc nào. Do đó, LBVQLNTD năm 2010 đã cụ thể
hóa các trường hợp nêu tại khoản 3 Điều 407 BLDS bằng cách liệt kê thành chín
loại điều khoản của HĐTM khơng có hiệu lực ràng buộc về mặt pháp lý đối với bên
kia. Theo nhiều nhà nghiên cứu, những điều khoản này được gọi là “những điều
khoản lạm dụng” - abusive clause (Điều 1437 Bộ luật Dân sự Québec năm 1991)
với đặc điểm nổi bật nhất là chúng loại trừ trách nhiệm của thương nhân bằng
những điều khoản có lợi cho mình và bất lợi đối với bên kia.
Thứ ba, điều kiện về “tự do ý chí” trong giao kết hợp đồng. Để bắt kịp sự mở
rộng nhanh chóng của thị trường khi số lượng các giao dịch điển hình trong kinh
doanh khơng ngừng tăng lên, trong khi đó pháp luật khơng thể dự liệu tất cả nội
dung của hợp đồng mà người tiêu dùng có thể tham gia. Do đó, để thực hiện chức
năng điều chỉnh phù hợp với nhu cầu xã hội, pháp luật đã trao cho các bên quyền tự
do thỏa thuận trong hợp đồng trên cơ sở đảm bảo duy trì sự phù hợp với các quy
định chung của pháp luật về hợp đồng. Nguyên tắc tự do thỏa thuận này đã được
xuất hiện từ thời kỳ La mã18 và cho đến nay bản chất của sự thỏa thuận này trong
hợp đồng vẫn không thay đổi.
Hợp đồng được xây dựng trên cơ sở thỏa thuận được xem là kết quả của sự
thống nhất ý chí tự nguyện của cả hai bên, là nguồn làm phát sinh quyền và nghĩa
vụ của các bên. Là một trong những nguyên tắc cơ bản và được thể hiện xuyên suốt
17

TS. Nguyễn Thị Vân Anh (chủ biên), Giáo trình Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng,Trường Đại học
Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân năm (2012), tr.32.
18
Corinne Renault, Branhinsky (1994), Droit des Cortract - Litec p.8.


HĐTM – Những vấn đề lý luận và thực tiễn


×