VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
KHOA LUẬT
CHUYÊN ĐỀ
THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Đề tài: “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về trách
nhiệm hình sự của người chưa thành niên trong luật
hình sự Việt Nam”
Họ và tên sinh viên : Đặng Duy Linh
Lớp : Luật Quốc tế 12-01
Mã số SV : 12A52010015
Cơ quan thực tập: Tịa án nhân dân quận Hồn Kiếm – Hà Nội
Năm 2015
MỤC LỤC
PHẦN I GIỚI THIỆU VỀ CHUYÊN ĐỀ...............................................................................1
PHẦN II NỘI DUNG................................................................................................................3
CHƯƠNG I KHÁI NIỆM TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH
NIÊN...........................................................................................................................................3
1 Khái niệm trách nhiệm hình sự................................................................................................3
1.1 Trách nhiệm hình sự.........................................................................................................3
1.2 Tuổi chịu trách nhiệm hình sự..........................................................................................4
2 Khái niệm người chưa thành niên............................................................................................6
2.1 Người chưa thành niên.....................................................................................................6
2.2 Đặc điểm tâm lý của người chưa thành niên....................................................................7
3 Khái niệm trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên.....................................................8
4 Miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên.........................................8
4.1 Khái niệm miễn trách nhiệm hình sự...............................................................................8
4.2 Điều kiện miễn trách nhiệm hình sự................................................................................8
CHƯƠNG II Q TRÌNH TÌM HIỂU VÀ THU THẬP THÔNG TIN...........................10
CHƯƠNG III LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.........................................................................12
1 Một số quy định của pháp luật về việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa
thành niên phạm tội...................................................................................................................12
1.1 Nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội........................................................12
1.2 Các biện pháp tư pháp được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội.............13
1.3 Hệ thống hình phạt được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội..................13
2 Thực tiễn tình hình truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
trên địa bàn quận Hoàn Kiếm...................................................................................................14
3 Một số nhận xét về việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm
tội trên địa bàn quận Hoàn Kiếm..............................................................................................15
4 Một số giải pháp nhằm giảm việc vi phạm pháp luật hình sự của người chưa thành niên....16
4.1 Từ phía gia đình.............................................................................................................16
4.2 Từ phía nhà trường.........................................................................................................16
4.3 Từ chính bản thân người chưa thành niên......................................................................16
PHẦN III NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ..............................................................................17
1 Một vài nhận xét....................................................................................................................17
2 Kiến nghị................................................................................................................................18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................19
1
PHẦN I GIỚI THIỆU VỀ CHUYÊN ĐỀ
Con người là vốn quý của xã hội, là đối tượng hàng đầu được nhà nước quan tâm
và pháp luật bảo vệ. Pháp luật với tư cách là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Pháp luật tác động và ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến các mối quan hệ xã hội nói chung
và tới các đối tượng mà nó điều chỉnh nói riêng, vì vậy để pháp luật phát huy được vai
trị, tác dụng và giá trị to lớn của nó thì phải xây dựng một hệ thống pháp luật có tính
khoa học đảm bảo tác động có hiệu quả đến các đối tượng mà pháp luật cần điều
chỉnh.
Trong những năm gần đây, vấn đề người chưa thành niên phạm tội đã gióng lên
những hồi chng cảnh tỉnh đáng báo động. Chắc hẳn trong mỗi chúng ta khơng ai có
thể qn được vụ án cướp tiệm vàng Ngọc Bích của Lê Văn Luyện. Một vụ án mang
tính chất man rợ, tàn bạo mà khơng ai có thể ngờ kẻ phạm tội chưa đủ 18 tuổi. Tình
trạng người chưa thành niên phạm tội có xu hướng gia tăng trên khắp cả nước. Điều
đáng báo động là những tội phạm mà người chưa thành niên thực hiện khơng chỉ dừng
lại ở những tội ít nghiêm trọng mà mức độ đã lên tới những loại tội phạm hết sức
nghiêm trọng. Đây là vấn đề gây bức xúc và nhiều tranh cãi trong dư luận cả nước.
Bên cạnh sự phát triển của nền kinh tế đất nước, thì những tệ nạn xã hội cũng đã xuất
hiện rất nhiều nhất là sự tha hóa về đạo đức, lối sống ở một bộ phận thanh thiếu niên.
Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội là một vấn đề khá phức tạp bởi người chưa
thành niên còn yếu về mặt nhận thức, hành vi của họ thường mang tính chất bột phát
do bị lơi kéo, thách thức hoặc kích động, họ chưa đủ khả năng làm chủ hành động của
bản thân mình, càng khơng đủ tỉnh táo để nhận ra hậu quả từ những hành vi sai lầm đó.
Đứng trước tình hình trên đã đặt ra khơng ít câu hỏi lớn cho Đảng, nhà nước,
các cấp chính quyền và nhân dân cả nước để dần loại trừ những hành vi phạm tội ra
khỏi đời sống xã hội nhằm giữ gìn trật tự kỷ cương. Cách giải quyết đặt ra ở đây là cần
phải nghiên cứu, xem xét đặc điểm, hành vi của từng đối tượng phạm tội, nắm rõ tính
chất của tội phạm để đề ra những giải pháp đấu tranh, phòng ngừa thật phù hợp nhằm
hạn chế một cách tốt nhất tình hình tội phạm.
Hiện nay, trong hệ thống pháp luật của nước ta đã có những quy định xử lý riêng
đối với những người chưa thành niên phạm tội. Những quy định này đã đem lại những
lợi ích cho những người chưa thành niên phạm tội, nhưng để giảm thiểu triệt để số
2
lượng người chưa thành niên phạm tội thì cịn cần phải nghiên cứu, đánh giá chính xác
hiệu quả của pháp luật trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự của người chưa thành
niên để đề ra những quy định phù hợp làm giảm được vi phạm của người chưa thành
niên.
Từ những vấn đề đã nêu trên nhận thấy vai trò, tính cấp thiết và tầm quan trọng
của việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về trách nhiệm hình sự của
người chưa thành niên. Chính vì thế em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Những vấn đề lý
luận và thực tiễn về trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên tong luật hình sự
Việt Nam” làm nội dung cho bài báo cáo thực tập của mình. Với lượng kiến thức cịn
hạn chế và kinh nghiệm thực tiễn chưa nhiều nên không tránh khỏi những thiếu sót.
Em rất mong nhận được những đóng góp ý kiến của Thầy, Cơ để đề tài của em được
hồn thiện hơn.
3
PHẦN II NỘI DUNG
CHƯƠNG I KHÁI NIỆM TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN.
1 Khái niệm trách nhiệm hình sự.
1.1 Trách nhiệm hình sự.
Trách niệm hình sự (TNHS) là một trong những vấn đề lý luận phức tạp, là
một thuật ngữ pháp lý được sử dụng dối với người có hành vi vi phạm pháp luật hình
sự (PLHS). Từ trước tới nay xung quanh khái niệm TNHS vẫn còn tồn tại nhiều quan
điểm khác nhau. Hiện nay trong khoa học luật Hình sự Việt Nam tồn tại những quan
điểm sau về TNHS:
Quan điểm thứ nhất: Trách nhiệm hình sự là một loại quan hệ pháp luật
giữa Nhà nước và người phạm tội. Trách nhiệm hình sự là nghĩa vụ phải chịu các biện
pháp cưỡng chế nhà nước của người phạm tội do việc người đó thực hiện tội phạm.
Thời điểm người phạm tội thực hiện tội phạm là thời điểm bắt đầu trách nhiệm hình
sự.
Quan điểm thứ hai: Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý,
là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của Nhà nước và người phạm tội, được thể hiện ở
các biện pháp tác động có tính chất pháp lý hình sự mà luật hình sự quy định, áp dụng
đối với người thực hiện tội phạm, bao gồm hình phạt và các biện pháp tác động có
tính chất pháp lý hình sự khác khơng phải hình phạt và được bắt đầu từ khi truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với một người.
Quan điểm thứ ba: Trách nhiệm hình sự là việc thực hiện chế tài pháp lý
hình sự, phát sinh từ khi áp dụng hình phạt đối với người phạm tội.
Quan điểm thứ tư: Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc phạm
tội, kết quả của việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự và được thể hiện trước
hết ở việc kết án của Tòa án, nhân danh Nhà nước, đối với người phạm tội
Như vậy dưới góc độ khái quát và chung nhất, trách nhiệm hình sự là một
dạng của trách nhiệm pháp lý và là hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội
phạm, được thể hiên bằng việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà
nước do Luật hình sự quy định đối với người phạm tội. Là hậu quả pháp lý của việc
thực hiện tội phạm, TNHS chỉ phát sinh khi có sự việc phạm tội. Cho nên, TNHS là
dạng trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất so với bất kỳ một dạng trách nhiệm pháp
4
lý nào khác. Nó chỉ được thực hiện trong phạm vi của quan hệ PLHS giữa hai bên với
tính chất là hai chủ thể có các quyền và nghĩa vụ nhất định. Trong đó, một bên chủ
thể là Nhà nước với chủ thể còn lại là người phạm tội. Nhà nước mà đại diện là cơ
quan tư pháp hình sự có thẩm quyền thì có quyền truy cứu nười phạm tội, nhưng phải
có nghĩa vụ chỉ được xử lý dựa trên các căn cứ, cịn người phạm tội thì có nghĩa vụ
phải chịu tước bỏ hoặc hạn chế quyền, tự do nhất định. Từ các khái niệm và phân tích
khái niệm TNHS đã nêu trên có thể rút ra một số đặc điểm của TNHS:
-
TNHS là hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi phạm tội. Hậu quả
này chỉ phát sinh khi có người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
bị PLHS cấm hoặc không thực hiện những nghĩa vụ mà PLHS yêu cầu
phải thực hiện.
-
TNHS chỉ có thể được xác định bằng trình tự đặc biệt theo quy định của
pháp luật mà các cơ quan tiến hành tó tụng có nghĩa vụ phải thực hiện.
-
TNHS được biểu hiện cụ thể ở việc người phạm tội phải chịu biện pháp
cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước là hình phạt, biện pháp tước bỏ hoặc hạn
chế ở họ một số quyền hoặc lợi ích hợp pháp.
-
TNHS mà người phạm tội phải gánh chịu là trách nhiệm đối với Nhà
nước chứ không phải đối với người mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị hành vi
phạm tội trực tiếp xâm hại.
-
TNHS phải được phản ánh trong bản án hay quyết định có hiệu lực pháp
luật của tịa án.
1.2 Tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Khơng phải ngay từ khi sinh ra con người đã có năng lực TNHS. Trước hết,
năng lực trách nhiệm hình sự là điều kiện cần thiết để có thể xác định con người có
lỗi khi họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Chỉ có người có năng lực trách
nhiệm hình sự mới có thể là chủ thể của tội phạm. Người có năng lực trách nhiệm
hình sự là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức
được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển
được hành vi ấy. Năng lực TNHS là năng lực của tự ý thức được hình thành trong quá
trình phát triển của cá thể về mặt tự nhiên và mặt xã hội. Phải trải qua quá trình hoạt
động và giáo dục trong điều kiện xã hội thì khả năng hình thành và phát triển ý thức,
tự ý thức của mỗi người mới có thể trở thành hiện thực.
5
Như vậy năng lực TNHS chỉ hình thành khi con người đã đạt đến một độ tuổi
nhất định và năng lực đó sẽ tiếp tục hồn thiện cũng như phát triển trong những giai
đoạn về sau. Khi đạt đến độ tuổi đó, con người nói chung sẽ có năng lực TNHS, trừ
những trường hợp mà bộ luật hình sự coi là trong tình trạng khơng có năng lực
TNHS.
Điều 13: Tình trạng khơng có năng lực trách nhiệm hình sự
1. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh
tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển
hành vi của mình, thì khơng phải chịu trách nhiệm hình sự; đối với người này, phải áp
dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
2. Người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự, nhưng đã lâm
vào tình trạng quy định tại khoản 1 Điều này trước khi bị kết án, thì cũng được áp
dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu
trách nhiệm hình sự.
Người chưa đạt độ tuổi bắt đầu có năng lực TNHS thì chưa phải chịu sẽ ln
ln được coi là khơng có lỗi. Trên cơ sở tham khảo của các nước trên thế giới cùng
với thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm, Nhà nước ta đã xác định trong BLHS
tuổi 14 là tuổi bắt đầu có năng lực TNHS và tuổi 16 là tuổi có năng lực TNHS đầy đủ.
Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Để xác định tuổi của người phạm tội ta căn cứ vào ngày tháng năm sinh được
ghi trên giấy khai sinh, tuy nhiên trên thực tế có rất nhiều trường hợp khơng có căn cứ
gì để xác định chính xác ngày tháng năm sinh, từ đó xác định độ tuổi của người có
hành vi gây nguy hiểm cho xã hội. Chính vì lý do này và cũng để đảm bảo cho nguyên
tắc có lợi cho người phạm tội nên tại công văn số 81 ngày 10 tháng 6 năm 2002 Tòa án
nhân dân tối cao cụ thể hóa cách xác định tuổi trong từng trường hợp cụ thể.
“ Nếu xác định được tháng cụ thể, nhưng khơng xác định được ngày nào
trong tháng đó thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo để
xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo;
6
Nếu xác định được quý cụ thể của năm, nhưng khơng xác định được ngày,
tháng nào trong q đó thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng của quý đó làm
ngày sinh của bị can, bị cáo để xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo;
Nếu xác định được cụ thể nửa đầu năm hay nửa cuối năm, nhưng không xác
định được ngày, tháng nào trong nửa đầu năm hay nửa cuối năm thì lấy ngày 30 tháng
6 hoặc ngày 31 tháng 12 tương ứng của năm đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo để
xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo;
Nếu
không xác định được nửa năm nào, quý nào, tháng nào trong năm thì
lấy ngày 31 tháng 12 của năm đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo để xem xét trách
nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo”.
Nhìn chung các quy định của pháp luật nước ta trong việc xác định tuổi của
người phạm tội đề mang tính có lợi cho bị cáo. Điều này thể hiện tinh thần nhân đạo
của Nhà nước ta đối với người chưa thành niên phạm tội.
2 Khái niệm người chưa thành niên.
2.1 Người chưa thành niên.
Cho đến nay, trong các văn bản pháp luật Việt Nam cũng chưa có một quy
định hay định nghĩa cụ thể về người chưa thành niên. Tuy vậy, trong thực tiễn đời
sống, chúng ta đều hiểu rằng: người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ
về thể chất, tinh thần, chưa có khả năng nhận thức, kiểm soát được suy nghĩ, hành vi
của mình. Pháp luật ở mỗi quốc gia khác nhau quy định độ tuổi của người chưa thành
niên là khác nhau. Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định trong
Hiến pháp năm 1992, Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003,
Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động và một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Tất cả
các văn bản pháp luật đó đều quy định độ tuổi của người chưa thành niên là dưới 18
tuổi.
Khái niệm người chưa thành niên khác với khái niệm trẻ em, nếu người chưa
thành niên là người dưới 18 tuổi thì trẻ em là người dưới 16 tuổi.
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm người chưa thành niên là người chưa đủ 18
tuổi. Họ có thể tự mình hoặc thơng qua người đại diện hợp pháp theo pháp luật hoặc
người giám hộ để tham gia tố tụng tại các cơ quan tiến hành tố tụng. Ở mỗi lứa tuổi
7
người chưa thành niên được Nhà nước và xã hội quan tâm bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục để phát triển tốt nhất về thể chất và nhân cách, trở thành người có ích cho xã hội.
2.2 Đặc điểm tâm lý của người chưa thành niên.
Trong cuộc đời mỗi con người, giai đoạn tuổi vị thành niên là vô cùng quan
trọng. Bởi vì trong giai đoạn này lối sống, đạo đức và nhân cách của mỗi người sẽ
được hình thành. Đặc trưng cơ bản của nhóm vị thành niên có thể được xác định bởi
những biến đổi về các mặt cơ bản sau:
Thứ nhất, về mặt trạng thái cảm xúc: người chưa thành niên là người đang
trong quá trình phát triển cả về sinh lí, tâm lí và ý thức. Đây là giai đoạn diễn ra những
biến cố rất đặc biệt, đó là sự phát triển cơ thể mất cân bằng nên đã dẫn đến tình trạng
mất cân bằng tạm thời trong cảm xúc của người chưa thành niên. Trên thực tế, trạng
thái thần kinh, trạng thái cảm xúc không cân bằng có thể là yếu tố gây nên các hành vi
lệch chuẩn. Có khơng ít trường hợp, do xuất phát từ những mâu thuẫn nhỏ, nhưng
không kiềm chế được sự nóng giận q khích mà người chưa thành niên đã phạm phải
hành động sai lầm, thậm chí là thực hiện hành vi phạm tội.
Thứ hai, về mặt nhận thức pháp luật: lứa tuổi chưa thành niên là giai đoạn
phát triển nhanh nhất về mặt sinh học nhưng lại thiếu cân đối về mặt trí tuệ. Đó là lứa
tuổi mà kinh nghiệm trong cuộc sống cịn q ít ỏi, đặc biệt là khả năng nhận thức về
pháp luật còn nhiều hạn chế. Một phần không nhỏ người chưa thành niên thực hiện
hành vi phạm tội chỉ để thỏa mãn nhu cầu, hứng thú không đúng đắn của cá nhân,
không quan tâm đến hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Chỉ khi được giải thích, phân tích
thì họ mới hiểu rằng hành vi của mình là phạm tội.
Thứ ba, về mặt nhu cầu độc lập: tức là việc cá nhân tự hành động và tự ra
quyết định theo ý kiến riêng mà không muốn bị ảnh hưởng của người khác. Nhưng
chúng ta cũng cần lưu ý rằng, nhu cầu độc lập khơng chỉ có mặt tích cực mà cịn có
mặt tiêu cực nếu một khi nó phát triển theo hướng thái quá. Đặc biệt, ở lứa tuổi chưa
thành niên, nhu cầu độc lập thái quá thường biểu hiện ra bên ngoài dưới dạng các hành
vi như ngang bướng, cố chấp, dễ tự ái, gây gổ, phô trương. Tất cả những hành vi này
của người chưa thành niên đều mang tính chất của hành vi lệch chuẩn, dễ dẫn tới các
hành vi phạm tội.
Thứ tư, về mặt ưa thích khám phá cái mới: khám phá cái mới là một trong
những nhu cầu của người chưa thành niên. Tuy vậy, sự tò mò và khám phá cái mới
8
cũng có thể trở thành một trong những nguyên nhân dẫn tới hành vi phạm tội của họ,
nếu họ thiếu sự hướng dẫn, kiểm tra, giám sát của gia đình, xã hội, không tự chủ được
bản thân và không phân biệt được phải trái, đúng sai.
3 Khái niệm trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên.
Qua phân tích khái niệm về trách nhiệm hình sự và khái niệm về người chưa
thành niên, có thể rút ra khái niệm trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên như
sau:
“Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên là trách nhiệm mà người
chưa thành niên phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi về hành vi phạm tội
của mình”.
4 Miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên.
4.1 Khái niệm miễn trách nhiệm hình sự.
Miễn TNHS là một chế định được quy định trong Luật hình sự Việt Nam. Miễn
TNHS thể hiện chính sách nhân đạo và khoan hồng của Nhà nước ta đối với người
phạm tội. Qua đó nhằm động viên, khuyến khích người phạm tội để người phạm tội
tham gia vào giáo dục cải tạo, tích cực phấn đấu sửa sai, nhanh chóng hịa nhập vào
cuộc sống cộng đồng, trở thành con người có ích cho xã hội. Nói cách khác, có thể
định nghĩa khái niệm miễn TNHS như sau:
“Miễn trách nhiệm hình sự được hiểu là việc khơng buộc một người đáp ứng
những điều kiện nhất định phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi do người đó đã thực
hiện hành vi phạm tội, mà vẫn bảo đảm yêu cầu đấu tranh phịng và chống tội phạm,
cũng như cơng tác giáo dục, cải tạo người phạm tội”.
4.2 Điều kiện miễn trách nhiệm hình sự.
Theo Điều 29 Bộ luật Hình sự 2015 được ban hành vào ngày 27 tháng 11
năm 2015 thì việc miễn TNHS được thực hiện trong các điều kiện sau đây:
“1. Người phạm tội được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự khi có một trong
những căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do có sự thay đổi chính sách, pháp
luật làm cho hành vi phạm tội khơng cịn nguy hiểm cho xã hội nữa;
b) Khi có quyết định đại xá;
2. Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong
các căn cứ sau đây:
9
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà
người phạm tội khơng còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
b) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử người phạm tội mắc bệnh hiểm
nghèo dẫn đến khơng cịn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa;
c) Người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát
hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và
lập cơng lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận;
3. Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do
vơ ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người
khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và
đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự”.
10
CHƯƠNG II Q TRÌNH TÌM HIỂU VÀ THU THẬP THƠNG TIN
Từ thực tế những yêu cầu của đề tài thực tập, ngay từ những ngày đầu về Tòa
án nhân dân quận Hoàn Kiếm thực tập em đã rất may mắn được bác Phó Chánh án
phân cơng vào làm việc tại phịng Thụ lý hồ sơ hình sự. Tại đây, em đã được tiếp xúc
với rất nhiều hồ sơ hình sự, bản án và cáo trạng. Em đã tích cực thu thập các thông tin,
bản án và cáo trạng liên quan đến các vụ vi phạm hình sự của người chưa thành niên.
Với khoảng thời gian từ ngày 1/12/2015 đến ngày 22/1/2016 thực tập tại Tịa
án nhân dân quận Hồn Kiếm đã mang lại cho em rất nhiều thơng tin chính xác về đề
tài thực tập mà em chọn lựa. Tuy khoảng thời gian thực tập khơng được lâu, nhưng đã
góp phần nào cho em cái nhìn khách quan nhất, chân thực nhất về những kiến thức em
đã được giảng dạy.
Để có được những thơng tin, những ví dụ thực tế và những con số cụ thể về
các vụ vi phạm của người chưa thành niên nhằm phục vụ cho việc hoàn thành tốt đề tài
thực tập, trong bài viết của mình em đã sử dụng một số phương pháp cơ bản như:
nghiên cứu lý thuyết, thống kê, tổng hợp để các thông tin được đầy đủ và bao quát mọi
vấn đề cần nêu.
Đối với phương pháp nghiên cứu lý thuyết: từ ngày 1/12/2015 đến ngày
26/12/2015 em được chị Thẩm tra viên hướng dẫn và giao việc vào sổ thụ lý hồ sơ thi
hành án hình sự. Chính cơng việc này đã giúp em tiếp xúc trực tiếp với hồ sơ, cáo
trạng và bản án các vụ vi phạm của người chưa thành niên. Em được xem lại sổ thụ lý
án hình sự năm 2013, 2014, 2015, từ đó đã giúp em nắm bắt được bản chất của tình
hình tội phạm là người chưa thành niên trên địa bàn quận Hoàn Kiếm. Đây là một
phương pháp quan trọng giúp em nhanh chóng hồn thành đề tài của mình.
Đối với phương pháp thống kê: từ ngày 28/12/2015 đến ngày 08/01/2016 em
được giao cơng việc phân loại và lưu trữ bản án hình sự. Thông qua công việc này đã
giúp em thống kê một cách cụ thể từng vụ việc. Từ đó em có thể dễ dàng thu thập tài
liệu cần thiết về loại tội phạm xảy ra để phân loại các dấu hiệu đặc điểm, nhân thân
người phạm tội. Với cách làm như vậy giúp em nhận biết rõ diễn biến và tính chất của
từng vụ án do người chưa thành niên gây ra, nắm bắt được thời gian phạm tội, đặc
điểm phạm tội và phương thức phạm tội.
11
Đối với phương pháp tổng hợp: trong khoảng thời gian còn lại, từ ngày
11/01/2016 đến ngày 22/01/2016 em tiếp tục làm các công việc như vào sổ thụ lý hồ
sơ thi hành án hình sự, làm các quyết định giam, lệnh trích xuất bị cáo và nhập báo cáo
hình sự. Cơng việc nhập báo cáo hình sự đã giúp em tổng hợp được một cách chính
xác nhất các số liệu cần thiết như số vụ vi phạm của người chưa thành niên hay hình
phạt dành cho họ.
Trong quá trình thực tập tại Tịa án nhân dân quận Hồn Kiếm, được sự
hướng dẫn của các cơ, các chú Cán bộ Tịa án em đã được tiếp cận với nguồn tư liệu
thực tế để phục vụ cho đề tài thực tập của mình trong một số hồ sơ, sổ sách tại cơ quan
như:
- Sổ thụ lý sơ thẩm các vụ án hình sự của Tịa án nhân dân quận Hồn Kiếm
trong các năm 2013, 2014, 2015.
- Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Hồ sơ các vụ án đã có hiệu lực pháp luật.
- Sổ kết quả giải quyết vụ án hình sự trong các năm 2013, 2014, 2105.
- Các báo cáo công tác của Tịa án nhân dân quận Hồn Kiếm trong các năm
2013, 2014, 2015.
12
CHƯƠNG III LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.
1 Một số quy định của pháp luật về việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người chưa thành niên phạm tội.
1.1 Nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội.
Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, răn đe,
giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành cơng dân có ích cho xã
hội, chứ không nhằm mục đích trừng trị. Đối với người chưa thành niên, nếu hành vi
mà họ thực hiện bị luật pháp coi là tội phạm nhưng việc có đưa ra truy tố xét xử hay
khơng là việc mà các cơ quan chức năng có thẩm quyền phải xem xét, cân nhắc. Chính
trong giai đoạn xem xét và cân nhắc này cần đặt mục tiêu giáo dục, khuyên răn người
chưa thành niên lên hàng đầu. Để thực hiện được nguyên tắc này, khi người chưa
thành niên phạm tội, các cơ quan tư pháp phải xác định tính chất và mức độ nguy hiểm
của hành vi phạm tội. Việc làm này khơng những mang mục đích xét xử đúng người,
đúng tội mà cịn nhằm mục đích giúp người chưa thành niên phạm tội nhận thức một
cách đúng đắn và đầy đủ về hành vi sai trái của mình như vậy mới có thể giúp họ hiểu
để sửa chữa lỗi lầm, phấn đấu trở thành người có ích cho xã hội.
Theo khoản 3 Điều 91 Bộ luật hình sự 2015:
“Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ trong
trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào những đặc điểm về nhân thân của họ, tính chất
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm”.
Đây là nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội mang tính nhân đạo
sâu sắc của Nhà nước ta. Việc đưa ra truy cứu đối với người chưa thành niên chỉ thật
sự cần thiết và xuất phát từ yêu cầu phòng ngừa tội phạm. Ngay cả khi bị truy cứu
TNHS thì người chưa thành niên vẫn có khả năng khơng bị áp dụng hình phạt.
Bộ luật hình sự của nước ta quy định hai biện pháp nghiêm khắc nhất trong
hệ thống hình phạt là tử hình và chung thân. Người phạm tội bị áp dụng hình phạt này
trong trường hợp đặc biệt nhiêm trọng và khơng cịn khả năng giáo dục được nữa. Đối
với người chưa thành niên phạm tội, khi mục đích truy cứu TNHS là nhằm giáo dục
cải tạo, Nhà nước ta không áp dụng hai biện pháp trên.
“Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội” – theo khoản 5 Điều 91 Bộ luật hình sự 2015.
13
Khi người chưa thành niên phạm tội thì mức độ truy cứu TNHS sẽ được giảm nhẹ hơn
so với người thành niên phạm tội. đây là nguyên tắc được quy định tại khoản 6 Điều
91 Bộ luật hình sự 2015:
“Tịa án chỉ áp dụng hình phạt từ có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện ohasp giáo dục khác khơng có tác dụng răn
đe, phịng ngừa.
Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được
hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội
tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất.
Khơng áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội”.
Nguyên tắc xét xử cuối cùng được quy định tại khoản 7 Điều 91 Bộ luật hình
sư 2015:
“Án đã tuyên đối với người chưa đủ 16 tuổi phạm tội, thì khơng tính để xác
định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm”.
1.2 Các biện pháp tư pháp được áp dụng đối với người chưa thành niên
phạm tội.
Bộ luật hình sự có các quy định về các biện pháp tư pháp theo hướng giảm
nhẹ TNHS cho người chưa thành niên phạm tội như biện pháp khiển trách, hòa giải tại
cộng đồng hoặc biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn và đưa vào trại giáo dưỡng.
1.3 Hệ thống hình phạt được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm
tội.
Căn cứ vào đặc điểm của người chưa thành niên, yêu cầu của việc phòng
chống tội phạm và nguyên tắc nhân đạo của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, luật hình sự quy định các hình phạt được áp dụng đối với người chưa thành niên
phạm tội bao gồm:
- Cảnh cáo;
- Phạt tiền;
- Cải tạo không giam giữ;
- Tù có thời hạn.
14
2 Thực tiễn tình hình truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa
thành niên phạm tội trên địa bàn quận Hoàn Kiếm.
Quận Hoàn Kiếm là một quận ở trung tâm thủ đô Hà Nội bao gồm nhiều
trung tâm mua bán, thương mại lớn. Cũng chính bởi vị trí và các hoạt động kinh tế
nhộn nhịp nên trên địa bàn quận Hồn Kiếm xảy ra khơng ít những vụ vi phạm của
người chưa thành niên. Số vụ án tập trung chủ yếu vào các tội: Vi phạm quy định về
điều khiển phương tiện giao thông đường bộ; Tội cố ý gây thương tích; Tội cướp giật
tài sản; Tội trộm cắp tài sản; Tội mua bán trái phép chất ma túy; Tội tàng trữ trái phép
chất ma túy.
Tại sổ thụ lý sơ thẩm các vụ án hình sự trong 3 năm 2013, 2014, 2015 của
Tịa án nhân dân quận Hồn Kiếm cho thấy:
- Đối với năm 2013: Tòa án đã thụ lý mới 14 vụ, 21 bị cáo trong đó Trộm
cắp tài sản là 7 vụ, 7 bị cáo; Cố ý gây thương tích là 4 vụ, 6 bị cáo; Cướp giật tài sản là
3 vụ, 8 bị cáo.
Về mức hình phạt áp dụng đối với các bị cáo nhiều nhất là tù có thời hạn có
12 bị cáo, án treo có 6 bị cáo và cải tạo khơng giam giữ có 2 bị cáo.
- Đối với năm 2014: Tịa án đã thụ lý mới 7 vụ, 9 bị cáo trong đó Vi phạm
quy định về điều khiển giao thơng đường bộ là 1 vụ, 1 bị cáo; Cố ý gây thương tích là
2 vụ, 3 bị cáo; Trộm cắp tài sản là 3 vụ, 3 bị cáo; Cướp giật tài sản là 1 vụ, 2 bị cáo.
Về mức hình phạt áp dụng đối với các bị cáo nhiều nhất là tù có thời hạn có 6
bị cáo và án treo có 3 bị cáo.
- Đối với năm 2015: Tịa án đã thụ lý mới 9 vụ, 9 bị cáo trong đó Cố ý gây
thương tích là 1 vụ, 1 bị cáo; Trộm cắp tài sản là 5 vụ, 5 bị cáo; Cướp giật tài sản là 3
vụ, 3 bị cáo.
Về mức hình phạt áp dụng đối với các bị cáo trong năm này hồn tồn là tù
có thời hạn.
Trong q trình thu thập thơng tin em đã được tiếp cận với rất nhiều các bản
án thực tế đã có hiệu lực pháp luật, em xin phép được trích dẫn vào mục tư liệu thực
tiễn của phần Danh mục tài liệu tham khảo ở phần cuối của chuyên đề.
Dựa trên những số liệu thực tiễn mà bản thân em đã thu thập được, cùng với
công việc tiếp xúc với các bản án và cáo trạng có thể nhận thấy rằng số lượng các vụ
vi phạm do người chưa thành niên gây nên có sự chuyển biến tăng giảm trong 3 năm
15
trở lại đây. Năm 2013, số vụ vi phạm và số người vi phạm là cao nhất với 14 vụ, 21 bị
cáo. Sang năm 2014, số vụ vi phạm đã giảm đi một nửa, số người vi phạm cũng giảm
đi hơn một nủa, cụ thể là 7 vụ, 9 bị cáo. Đến năm 2015, số vụ vi phạm tăng thêm 2 vụ
nhưng số người vi phạm không tăng, với 9 vụ, 9 bị cáo. Tình hình người chưa thành
niên vi phạm có diễn biến tương đối phức tạp, lý do là một bộ phận thanh thiếu niên
tham gia vào các băng nhóm, hoạt động gây án có tổ chức, sử dụng bạo lực với tính
chất cơn đồ. Thực trạng cho thấy các vụ vi phạm chủ yếu là trộm cắp tài sản và cướp
giật tài sản. Hồ sơ của các vụ án có nói đến lý do, nguyên nhân người chưa thành niên
phạm tội là do ảnh hưởng của gia đình như cha mẹ nhân thân đều có tiền án, tiền sự
nên con vi phạm theo; do thiếu sự chỉ bảo, thiếu tình cảm của cha mẹ hay do bị đối xử
hà khắc. Có thể kết luận một điều rằng môi trường lành mạnh là yếu tố quyết định tạo
cho người chưa thành niên điều kiện để phát triển và hình thành nhân cách.
3 Một số nhận xét về việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa
thành niên phạm tội trên địa bàn quận Hoàn Kiếm.
Từ thực trạng nêu trên, nhận thấy trong những năm gần đây số vụ và số
lượng người chưa thành niên vi phạm diễn biến theo chiều hướng phức tạp. Nhưng
nhìn chung cơng tác xét xử của Tịa án nhân dân quận Hồn Kiếm đã có những thành
cơng nhất định. Qua số liệu trong các bản báo cáo tổng kết hàng năm của cơ quan Tòa
án năm 2013, 2014, 2015 cho thấy số vụ án do người chưa thành niên vi phạm mỗi
năm xét xử đạt từ 98,9% đến 100%.
Sở dĩ tỷ lệ giải quyết các vụ án của Tòa án nhân dân quận Hồn Kiếm đạt tỷ
lệ cao là do có sự tập trung, chỉ đạo giải quyết nhanh chóng các vụ án và là kết quả của
sự sáng suốt, đoàn kết, cố gắng của Hội đồng xét xử. Với mỗi vụ án họ luôn xem xét
mọi vấn đề, đưa ra những đánh giá khách quan, xét xử công khai và áp dụng hình phạt
đúng người đúng tội, tuân theo pháp luật.
Qua sự tìm hiểu thực tế tại Tịa án nhân dân quận Hoàn Kiếm nhận thấy tất
cả các vụ án do người chưa thành niên vi phạm khi đưa ra xét xử đều được tiến hành
khá chặt chẽ kể từ khâu bắt đầu phiên tòa cho đến khâu tuyên án. Phần lớn các án đã
xét xử sơ thẩm khơng có kháng cáo và kháng nghị.
16
4 Một số giải pháp nhằm giảm việc vi phạm pháp luật hình sự của người
chưa thành niên.
Dựa trên thực tế q trình thực tập tại Tịa án nhân dân quận Hoàn Kiếm
cùng với những kiến thức đã được giảng dạy em xin phép được đề xuất một số giải
pháp nhằm giảm việc vi phạm pháp luật hình sự của người chưa thành niên như sau:
4.1 Từ phía gia đình.
Em cho rằng đây là yếu tố quan trọng nhất. Bởi mơi trường sống trong gia
đình có tác động đầu tiên và ảnh hưởng sâu sắc tới quá trình phát triển nhân cách của
trẻ em. Gia đình cần phải lựa chọn phương pháp giáo dục đúng, tăng cường trách
nhiệm trong việc quản lý con cái, kiểm tra các hoạt động hàng ngày để kịp thời sửa
chữa những lệch lạc trong suy nghĩ và hành động của người chưa thành niên. Các bậc
cha mẹ cần được nâng cao tri thức về phòng chống vi phạm, tội phạm, tệ nạn xã hội từ
đó có định hướng để quản lý và giáo dục người chưa thành niên. Vì đặc điểm tâm lý
của người chưa thành niên là dễ bị tổn thương nên việc giáo dục các bậc cha mẹ biết
cách thông cảm, thấu hiểu tâm lý của họ cũng rất cần thiết.
4.2 Từ phía nhà trường.
Cần đẩy mạnh các chương trình giáo dục pháp luật trong nhà trường. Chú
trọng sự phối hợp. trao đổi thơng tin giữa gia đình và nhà trường một cách chặt chẽ
hơn. Tăng cường sự phối hợp giữa nhà trường và các cơ quan chức năng khác trong
việc quản lý, giáo dục người chưa thành niên. Các cơ sở đào tạo cần đưa nội dung giáo
dục pháp luật vào chương trình giáo dục chính khóa ở các cấp học nhằm nâng cao hiểu
biết cho người chưa thành niên.
4.3 Từ chính bản thân người chưa thành niên.
Ở độ tuổi người chưa thành niên, họ chưa hoàn thiện về thể chất và tinh thần.
Họ hiếu động, tò mò với những thứ mới lạ, thích thể hiện bản thân nên dễ bị kích động
và lơi kéo vào con đường sai trái. Vì vậy cần tăng cường tuyên truyền, sắp xếp nhiều
buổi học, buổi gặp gỡ, nói chuyện để hiểu rõ về tâm lý người chưa thành niên. Việc
làm này sẽ dần đưa những chuẩn mực đạo đức vào sâu trong nhận thức của người chưa
thành niên.
17
PHẦN III NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ
1 Một vài nhận xét
Như chúng ta đã biết Tòa án là một cơ quan nhà nước, đại diện cho Nhà
nước thực hiện hoạt động thực thi pháp luật, là cán cân công lý duy trì và đảm bảo sự
cơng bằng xã hội. Bằng hoạt động của mình Tịa án góp phần giáo dục công dân trung
thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những quy tắc của
cuộc sống xã hội, nâng cao ý thức đấu tranh, phòng chống tội phạm và các vi phạm
pháp luật khác. Thực hiện đúng chức năng của mình, trong những năm qua Tịa án
nhân dân quận Hồn Kiếm ln đóng vai trị quan trọng trong các hoạt động phịng
ngừa tội phạm.
Nhìn chung cơng tác giải quyết án của Tịa án nhân dân quận Hồn Kiếm
trong những năm gần đây đạt kết quả tốt, số lượng án tồn đọng khơng nhiều, hàng năm
chỉ có 1 đến 2 vụ trả hồ sơ điều tra bổ sung. Để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ như vậy,
đầu tiên phải kể đến nỗ lực của đội ngũ Thẩm phán và Thư ký tịa án ln nêu cao tinh
thần trách nhiệm trong quá trình thụ lý, giải quyết án và tham gia tố tụng tại phiên tịa.
Các Thẩm phán ln dành thời gian nghiên cứu kỹ lưỡng hồ sơ các vụ án do
người chưa thành niên phạm tội về các đặc điểm, tính chất và tình tiết tội phạm, để từ
đó nắm bắt được tồn bộ hành vi của tội phạm nhằm xét xử đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật. Tại phiên tòa xét xử, Thẩm phán đã tuyên các hình phạt nhiêm khắc,
đúng pháp luật nhưng vẫn dựa trên đặc điểm nhân thân người phạm tội cùng các tình
tiết tăng nặng giảm nhẹ, sự khai báo thành khẩn và quá trình hợp tác tốt trong giai
đoạn lấy lời khai để nhằm răn đe, giáo dục người chưa thành niên phạm tội, cho họ cơ
hội sửa sai.
Sau khi bản án đã có hiệu lực pháp luật, Tịa án ra quyết thi hành án với mỗi
vụ án và đồng thời luôn luôn giám sát để án được thực hiện đầy đủ, chính xác. Nhìn
chung việc ra quyết định thi hành án đều tuân thủ đúng trình tự theo quy định của Bộ
luật hình sự.
Đối với Tịa án nhân quận Hồn Kiếm sau mỗi năm xét xử luôn thực hiện
tổng kết thực tiễn về tình hình người chưa thành niên phạm tội, số lượng các vụ vi
phạm mà Tòa án đã xét xử. Thơng qua việc làm này nhằm tìm ra ngun nhân và điều
18
kiện phát sinh tội phạm, để từ đó phối hợp chặt chẽ với các cơ quan bảo vệ pháp luật
loại trừ chúng ra khỏi đời sống xã hội.
2 Kiến nghị
Để nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm trên địa bàn trước hết Tịa án
nhân dân quận Hồn Kiếm cần có biện pháp nâng cao trình độ và năng lực cho đội ngũ
cán bộ, cơng chức Tịa án, nhất là đội ngũ các Thẩm phán, Thư ký. Tổ chức các đợt tập
huấn về chun mơn cho cán bộ Tịa án, tạo điều kiện cho họ được học và tìm hiểu
thêm về những kiến thức chuyên ngành.
Vấn đề đánh giá tâm lý, ý chí tội phạm của người chưa thành niên trước khi
đưa ra hình phạt là một vấn đề khó khăn và không hề đơn giản. Bởi mỗi cá nhân có
mơi trường sống khác nhau dẫn đến cách nhìn nhận của họ về cuộc sống, xã hội là
khác nhau. Điều quan trọng là Hội đồng xét xử phải thấu hiểu và có cái nhìn đúng về
mỗi cá nhân để đánh giá chứng cứ, xác định hình phạt một cách chính xác. Vậy nên
trong Tòa án cần tổ chức các lớp tập huấn về tâm lý người chưa thành niên
Trong quá trình thực hiện một vụ án, Tịa án nhân dân quận Hoàn Kiếm phải
tăng cường hơn nữa sự phối hợp chặt chẽ với các ngành Công an, cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát ngay từ giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố và thống nhất kế hoạch xét
xử, đảm bảo việc xét xử diễn ra nhanh chóng, an tồn và thực thi theo đúng pháp luật.
Vì tình hình phạm tội của người chưa thành niên diễn biến một cách phức
tạp, để khắc phục tình trạng đó em đã đưa ra một sơ biện pháp và kiến nghị mong rằng
nó sẽ hữu ích trong cơng tác đấu tranh, phịng chống tội phạm trên địa bàn quận Hoàn
Kiếm.
Với vốn kiến thức cịn hạn hẹp, trong chun đề khơng tránh khỏi những sai
sót, vậy em kính mong nhận được sự đánh giá, góp ý của q Thầy, Cơ để chun đề
của em được hoàn thành một cách suất sắc hơn. Em xin chân thành cảm ơn!