Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

Nu cuoi bi an cua nha tho Nguyen Nhuoc Phap

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.48 KB, 2 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Nụ cười bí ẩn của nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp</b>



Hồi Nam
<b>Có lẽ chăng, cái cười trong thơ Nguyễn Nhược Pháp là của một người đã nếm trải đủ sự ấm </b>
<b>lạnh của nhân gian và thấy rằng mọi việc trên cõi đời này đều nhẹ bẫng?</b>


Nguyễn Nhược Pháp là con trai của học giả, dịch giả văn học, nhà báo lừng danh Nguyễn Văn
Vĩnh. Ông sinh năm 1914, mất năm 1938, hưởng dương 24 tuổi. Nghĩa là còn vắn số hơn vài cây
bút cùng thời khác, cũng mệnh yểu và rất nổi tiếng (Vũ Trọng Phụng mất năm 27 tuổi, Hàn Mặc Tử
<i>mất năm 28 tuổi). Phần tiểu dẫn về Nguyễn Nhược Pháp trong Thi nhân Việt Nam cho biết: “Làm </i>
thơ từ năm 1932. Ngồi thơ có viết nhiều truyện ngắn và kịch”. Cho đến nay, độ lùi thời gian trên
70 năm, có thể khẳng định rằng truyện ngắn và kịch không phải là những thể loại làm nên tên tuổi
<i>của Nguyễn Nhược Pháp, mà đó là thơ. Và cũng chỉ là một tập Ngày xưa (1935) với vỏn vẹn 10 bài </i>
mà thôi. Quý hồ tinh bất quý hồ đa, 10 bài là đủ khiến Nguyễn Nhược Pháp trở thành một thi sĩ có
danh trong làng Thơ Mới.


<i> Ba năm sau cái chết của Nguyễn Nhược Pháp, tác giả của Thi nhân Việt Nam đã viết về tác giả của </i>
<i>tập Ngày xưa với những lời trân trọng: “Thơ in ra rất ít mà được người ta mến rất nhiều, tưởng </i>
không ai bằng Nguyễn Nhược Pháp. Không mến sao được? Với đôi ba nét đơn sơ, Nguyễn Nhược
Pháp đã làm sống lại cả một thời xưa. Không phải cái thời xưa nặng nề của nhà sử học, cũng không
phải cái thời xưa tráng lệ hay mơ màng của Huy Thông, mà là một thời xưa gồm những sắc màu
tươi vui, những hình dáng ngộ nghĩnh”. Dễ thấy, chữ “xưa” - phiếm chỉ một khoảng thời gian miên
viễn trong quá khứ làm nền cho câu chuyện - đã xuất hiện khá nhiều trong thơ Nguyễn Nhược
<i>Pháp: “Ngày xưa, khi rừng mây u ám / Sông núi còn vang um tiếng thần” (Sơn Tinh Thủy Tinh), </i>
<i>“Ta ngồi bên tảng đá / Mơ lều chiếu ngày xưa” (Tay ngà), “Tưởng lại cờ xưa vàng chói lọi / Nên </i>
<i>yêu người cũ hồn trên cao” (Đi cống), “Người xưa mơ nhìn mây / Đen, đỏ, vàng đua bay” (Mây)... </i>
<i>Trong bài thơ nổi tiếng Chùa Hương, ngay dưới nhan đề tác phẩm, tác giả chua dòng chữ: Thiên ký </i>


<i>sự của một cô bé ngày xưa. Trọng tâm cảm hứng của cả tập thơ rõ ràng được đặt ở thời đã qua, chứ </i>


không phải đặt vào cái “ở đây”, “bây giờ”. Ngoài ra, Nguyễn Nhược Pháp cho thấy ơng là một


người kể chuyện có tài, ông đã làm sống lại thời xưa bằng những câu chuyện đầy dun dáng của
<i>mình, dù đó là câu chuyện với cốt truyện rất đơn giản như trong Tay ngà và Một buổi chiều xuân, </i>
<i>hay những câu chuyện ít nhiều đã có biến cố, có cao trào, có thắt nút mở nút như trong Sơn Tinh </i>


<i>Thủy Tinh và Chùa Hương.</i>


<i>Tay ngà và Một buổi chiều xuân là hai bài thơ có chung một mơtip cốt truyện: nhân vật trữ tình mơ </i>


được gặp giai nhân. Điểm đáng chú ý ở đây là ở chỗ người mơ vào vai một nho sinh, chứ không
phải vào vai một công tử con nhà quyền quý hay một thanh niên trí thức xuất thân trường Tây nào
đó (khơng nên quên rằng Nguyễn Nhược Pháp từng học Albert Sarraut và ban Luật trường Cao
đẳng Hà Nội). “Ta ngồi bên tảng đá / Mơ lều chiếu ngày xưa / Mơ quan Nghè, quan Thám / Đi có
cờ lọng đưa” (Tay ngà), “Hơm đó buổi chiều xn / Trơng mây hồng bay vân / Liền gập pho kinh
<i>sử / Lững thững khỏi lầu văn” (Một buổi chiều xuân). Lều chiếu, quan Nghè, quan Thám, cờ lọng, </i>
kinh sử, lầu văn... một loạt từ như vậy xuất hiện trong văn bản, lập tức đem lại khơng khí “ngày
xưa” cổ kính, cái ngày mà Nho học ở điểm cực thịnh, chữ thánh hiền còn quý giá hơn vàng bạc
châu báu. Trong bầu khơng khí đặc thù được hình thành bởi giấc mơ như vậy, chàng nho sinh đã có
cuộc tao ngộ tài tử - giai nhân của mình, dù chỉ trong thoáng chốc nhưng để lại dư âm bất tận. Bài


<i>Tay ngà là giấc mơ quan Nghè vinh quy bái tổ, giữa đường gặp hội gieo cầu tìm chồng của tiểu thư </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

cho thấy thái độ khước từ thực tại tư sản nhàm chán và cái tâm thế xây dựng một thế giới lý tưởng
từ những dư ảnh của quá khứ. Nó cho người đọc quyền được mơ mộng một chút giữa đời thường.
<i>Nếu ở Tay ngà và Một buổi chiều xuân câu chuyện chỉ là cuộc gặp gỡ thoáng qua trong mộng, thì </i>
<i>trong Chùa Hương, đó đã là câu chuyện của đời thường. Vẫn những nhân vật ấy, chàng nho sinh và </i>
người con gái đẹp, nhưng vì là câu chuyện của đời thường nên nó thật sinh động và thú vị. Đọc


<i>Chùa Hương, ta sẽ thấy lại cái rối rắm “tình trong như đã mặt ngồi cịn e” của các cặp trai gái từ </i>


muôn đời nay mà Nguyễn Nhược Pháp đã khéo dựng lên thành các hoạt cảnh. Thoạt nhìn thấy một


văn nhân “Tướng mạo trơng phi thường / Lưng cao dài trán rộng”, cô gái đã đem lịng thương
(u). Vì thương nên cơ phải giữ ý giữ tứ, phải e lệ, phải “làm dáng” trước người mình thương:
“Em đi chàng theo sau / Em không dám đi mau / Sợ chàng chê hấp tấp / Số gian nan khơng giàu”.
Vì thương nên khi cha cơ nói đến việc ra về, nghĩa là phải xa người thương, thì cơ: “Em nghe bỗng
rụng rời / Nhìn ai luống nghẹn nhời / Giờ vui đời có vậy / Thống ngày vui qua rồi!”. Và rồi cô
khấn, rất mạnh dạn, quên sạch cả sự giữ ý: “Ngun ngút khói hương vàng / Say trong giấc mơ màng /
Em cầu xin Giời Phật / Sao cho em lấy chàng”. Chàng nho sinh cũng vậy: bị “tiếng sét ái tình” ngay
từ khi mới gặp, chàng đã nguyện trở thành cái bóng của người đẹp suốt hành trình trảy hội. Tất
nhiên là chàng có thừa khơn ngoan để khơng lộ ra mục đích thật của mình, chàng viện một lý do rất
dễ lọt tai: “Vì thương me quá mệt/ Săn sóc chàng đi theo”. Và rồi, trước người đẹp, dù sao thì chàng
cũng khơng thể tránh khỏi hành vi... “tỏ vẻ”: “Khi qua chùa Giải Oan / Trông thấy bức tường ngang
<i>/ Chàng đưa tay lẹ bút / Thảo bài thơ liên hoàn”. Kết bài thơ, tác giả chua thêm dòng chữ: “Thiên </i>
ký sự đến đây là hết. Tôi tin rồi hai người lấy nhau. Vì khơng lấy được nhau thì cơ bé cịn viết
<i>nhiều. Lấy nhau rồi là hết chuyện”. Bảy năm sau, trong tập Quê ngoại, Hồ Dzếnh viết: “Đời chỉ đẹp</i>
những khi cịn dang dở / Tình mất vui lúc đã vẹn câu thề”. Cùng một ý, nhưng câu thơ của Hồ
Dzếnh có cái vị cay đắng, chua chát, cịn câu văn xi khép lại bài thơ của Nguyễn Nhược Pháp thì
lạc quan, và rất hóm hỉnh. Chả trách Hồi Thanh phải bình luận: “Đọc thơ Nguyễn Nhược Pháp, lúc
nào hình như cũng thoảng thấy bóng một người đương khúc khích cười”, và: “Người nhìn đời như
một ông già nhìn đàn trẻ con rất ngộ nghĩnh mà cũng rất dễ yêu, mặc dầu người vẫn còn trẻ lắm”.
<i>Nụ cười hóm hỉnh của Nguyễn Nhược Pháp cịn được giữ mãi suốt bài Sơn Tinh Thủy Tinh. Nó thể </i>
hiện ở sự miêu tả thế giới loài vật vô cùng sống động. Này là cảnh bộ hạ của Thủy Tinh dâng sính
lễ: “Theo sau cua đỏ và tơm cá / Chia đội năm mươi hịm ngọc trai / Khập khiễng bò lê trên đất lạ /
<i>Trước thành tấp tểnh đi hàng hai”. Này là cảnh quân tướng của thần nước xung trận: “Cá voi quác </i>
mồm to muốn đớp / Cá mập quẫy đuôi cuồng nhe răng / Càng cua lởm chởm giơ như mác / Tơm
kềnh chạy quắp đi xơn xao”. Nụ cười hóm hỉnh ấy thể hiện cả ở việc nhà thơ đã “vui vẻ hóa” vua
Hùng Vương thứ mười tám: “Nhưng có một nàng mà hai rể / Vua cho rằng thế cũng hơi nhiều”.
Cuối bài, để lý giải việc cứ 5 năm Thủy Tinh lại một lần dâng nước, Nguyễn Nhược Pháp hạ bút:
“Trần gian đâu có người dai thế / Cũng bởi thần yêu nên khác thường”. Khi viết những câu này, hẳn
nhà thơ cũng đang khúc khích cười? Có lẽ chăng, đó là cái cười của một người đã nếm trải đủ sự
ấm lạnh của nhân gian và thấy rằng mọi việc trên cõi đời này đều nhẹ bẫng?


</div>

<!--links-->
Lời tri ân của nhà thơ trẻ
  • 4
  • 463
  • 1
  • ×