Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Gián án Nghiên cứu Trung Quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (868.43 KB, 69 trang )

LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian nghiên cứu và làm việc, đề tài của em đã hoàn thành. Em
xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới thầy giáo Thạc sĩ Nguyễn Đăng Chúng
người đã trực tiếp hướng dẫn em hoàn thành đề tài này.
Em xin tỏ lòng biết ơn tới các thầy, cô giáo trong tổ bộ môn kinh tế – xã hội,
khoa Địa lý, trường Đại học sư phạm Hà Nội đã giúp đỡ em trong quá trình hoàn
thành đề tài.
Trong quá trình nghiên cứu do những hạn chế nhất định về kiến thức, tài liệu
về thông tin nên không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự chỉ
bảo, góp ý của các thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn.
Hà nội tháng 3 năm 2005
SV thực hiện: Hà Quang Thích
PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Trung Quốc – người bạn láng giềng lớn của nước ta ở phía Bắc, có nhiều nét
tương đồng về các điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội.
Trước đây Trung Quốc là một nước chậm phát triển, nhưng từ khi đổi mới đến
nay nền kinh tế Trung Quốc đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Việc hiện đại hoá
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế- xã hội, Trung Quốc đã cất cánh vươn
lên và trở thành một con rồng đầy triển vọng của châu Á, một hiện tượng mới của
thế giới. Đặc biệt từ sau 2001, Trung Quốc gia nhập WTO, là cơ hội để phát huy
tiềm năng và những khả năng sẵn có của mình, vươn lên giành vị trí cao hơn trên
trường quốc tế. Không chỉ là đất nước khổng lồ về dân số về dân số và diện tích, vị
trí của Trung Quốc đang dần nâng cao xứng đáng với tầm vóc của mình. Thế kỷ
XXI với Trung Quốc sẽ còn nhiều triển vọng hơn nữa, vì vậy nhiều người đã lạc
quan cho rằng thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ của Trung Quốc.
Việt Nam đang phấn đấu hết mình để gia nhập WTO, dự kiến T12/2005 này
Việt Nam sẽ gia nhập WTO. Đây là một cơ hội phát triển lớn cho Việt Nam song
cũng đặt ra nhiều thách thức, khó khăn mới. Chính vì vậy học hỏi kinh nghiệm từ
các nước đi trước là rất cần thiết. Những thành công lớn Trung Quốc đạt được trong


tăng trưởng kinh tế và những vấn đề trong gia nhập tổ chức thương mại thế giới
(WTO) để lại cho chúng ta rất nhiều bài học kinh nghiệm. Do đó việc nghiên cứu về
nền kinh tế Trung Quốc và những vấn đề trong gia nhập tổ chức thương mại thế giới
(WTO) là việc làm có ý nghĩa cho việc chuẩn bị cho việc gia nhập tổ chức thương
mại thế giới ở Việt Nam.
Đây cũng là cơ hội để tôi tìm hiểu sâu hơn về đất nước Trung Quốc – một
đất nước nhiều tiềm lực phát triển kinh tế, qua đó có suy nghĩ mới về sự phát
triển và những biến động về vị thế của các nước trên thế giới trong thế kỷ XXI.
II. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài
2
Đề tài tập trung làm rõ các nội dung sau:
+ Những nét chung về nền kinh tế Trung Quốc: sự phát triển của các ngành,
lãnh thổ từ đó thấy được thực trạng phát triển của nền kinh tế Trung Quốc và dự
đoán triển vọng phát triển của Trung Quốc trong những năm tới.
+ Những vấn đề trong việc gia nhập WTO của Trung Quốc: cơ sở gia nhập, quá
trình gia nhập, sự thay đổi nền kinh tế xã hội Trung Quốc sau khi gia nhập WTO, từ đó
rút ra những bài học kinh nghiệm xương máu với Việt Nam.
Đây là một đề tài rộng do đó báo cáo chỉ dừng lại ở những khía cạnh khái quát
nhất của từng nội dung để thấy được những nét chung nhất về sự phát triển của nền
kinh tế Trung Quốc và những vấn đề trong quá trình gia nhập WTO của Trung
Quốc, để Việt Nam có thể học hỏi và rút ra những kinh nghiệm cần thiết, đẩy nhanh
quá trình gia nhập tổ chức thương mại thế giới của nước ta.
III. Các phương pháp nghiên cứu
1. Phương pháp làm việc trong phòng:
Là việc thu thập các số liệu và tài liệu liên quan. Các tài liệu, số liệu thống kê là
cơ sở để đưa ra những nhận xét đúng đắn nhất về thực trạng của vấn đề. Do vậy
người nghiên cứu đã phải có quá trình tìm tòi, quan tâm đến những vấn đề có liên
quan: sách báo, luận văn, tài liệu thống kê. Yêu cầu đặt ra với các số liệu, tài liệu thu
thập này phải chính xác, cập nhật để thấy được sự phát triển của kinh tế Trung Quốc
trong giai đoạn gần đây nhất.

2. Phương pháp thống kê:
Trên cơ sở những số liệu và đề tài đã thu thập được, cần phải sử dụng các
phương pháp thống kê để có hệ thống số liệu phục vụ cho nghiên cứu. Những số liệu
được thu thập ở nhiều nguồn khác nhau nên có sự sai lệch nhau ở một mức độ nhất
3
định. Các biện pháp xử lý số liệu sẽ giúp cho người nghiên cứu tìm ra được số liệu
phản ánh chính xác nhất bản chất của vấn đề. Việc xử lý số liệu thường thể hiện
trong việc hệ thống hoá các số liệu thành bảng để dễ dàng hơn cho việc phân tích, so
sánh hay trực quan hoá thành các bản đồ, biểu đồ.
3. Phương pháp so sánh, phân tích, đánh giá tổng hợp:
Điều cần thiết và quan trọng nhất trong nghiên cứu là người nghiên cứu phải
đưa ra được những nhận định, đánh giá của mình. Ở đề tài này phương pháp trên
được thể hiện ở việc phân tích, đánh giá các nhân tố ảnh hưởng và sự phát triển của
nền kinh tế Trung Quốc, những thành công và hạn chế trong quá trình gia nhập
WTO, đồng thời đưa ra những nhận định về triển vọng tăng trưởng kinh tế của
Trung Quốc và những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
4. Phương pháp bản đồ, biểu đồ: Là sự trực quan và tổng hợp kết quả của quá
trình nghiên cứu.
4
PHẦN HAI: PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU CHUNG
Cộng hoà nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) thành lập ngày 1/10/ 1949. Sau
khi giành được độc lập, đất nước đã trải qua nhiều bước thăng trầm về chính trị và
kinh tế trong thập kỷ 60 và 70. Từ 1978 nhờ thực hiện những cải cách sâu sắc của
bước đi chiến lược thứ nhất Trung Quốc đã được nhiều thành công trên con đường
phát triển đất nước, đời sống nhân dân được cải thiện, bộ mặt đất nước thay đổi
nhiều. Đây là cố gắng to lớn với một đất nước có trên 1 tỷ người. Những năm cuối
của thập kỷ 90 với bước đi chiến lược thứ hai Trung Quốc đã thực hiện được hiện
đại hoá về căn bản và vươn lên trở thành một nền kinh tế năng động, để lại nhiều bài
học kinh nghiệm quý báu về sự mạnh dạn, tìm tòi và năng động trong cơ chế mới

cho nhiều quốc gia có hoàn cảnh tương tự, trong đó có cả Việt Nam.
I. Vị trí địa lí – hình dạng lãnh thổ của Trung Quốc
Trung Quốc, có diện tích lãnh thổ rộng 9,6 triệu km
2
, đứng thứ ba thế giới (Sau
LB Nga, Canada), chiếm 6,5% diện tích thế giới, dân số 1,3 tỷ người (6 – 1 – 2005).
Nằm ở giữa và phía Đông châu Á, Trung Quốc nhìn ra Thái Bình Dương ở phía
Đông, còn ba mặt Bắc, Tây, Nam giáp 13 nước láng giềng: LB Nga, CHND Triều
Tiên, Mông Cổ, Cadăctan, Cưdơgưxtan, ấn Độ Tatgikixtan, Apganitxtan, Nê Pan,
Butan, Mianma, Lào, Việt Nam.
Với vị trí trên, Trung Quốc có cả hai bộ phận: Vùng biển và đất liền.
Ở phía Đông, đường bờ biển dài khoảng 18000 km, bộ phận đất liền tiếp giáp
với ba biển ven bờ: Bột Hải, Hoàng Hải, Đông Hải.
Bột Hải là biển kín, nông (25 m), nhỏ chỉ như một vịnh biển ăn sâu vào đất
liền, thuộc Hoàng Hải. Ở cửa vịnh (nhỏ hơn 100 km) có hai bán đảo án ngữ: Liêu
Đông ở phía Bắc, Sơn Đông ở phía Nam. Do nằm ở đới ôn đới lại có độ sâu nhỏ nên
về mùa đông Bột Hải bị đóng băng dày 50 – 60 cm, gây trở ngại cho tàu bè đi lại.
5
Hoàng Hải là một biển kín, ngăn cách với Thái Bình Dương, ở phía Đông có bán
đảo Triều Tiên và đảo Kiuxiu của Nhật Bản, rộng gấp 5 lần Bột Hải, sâu 44m, chỉ
đóng băng về mùa đông ở phần cực Bắc của biển.
Phía nam Hoàng Hải là biển Hoa Đông, có các quần đảo: Kiuxiu (Nhật Bản),
đảo Đài Loan và các đảo phía Bắc của quần đảo Philippin án ngữ, sâu 200m, nằm ở
vĩ độ thấp quanh năm không đóng băng thuận tiện cho tàu bè đi lại ở các cảng biển.
Phần đất liền của Trung Quốc kéo dài hơn 35
0
23’ từ Bắc xuống Nam, từ vĩ độ
53
0
33’B ở một địa điểm giữa lòng Hắc Long Giang gần thị trấn Hán Hà đến vĩ độ

18
0
10’B ở mũi cực Nam đảo Hải Nam gần thị trấn An Du. Từ Đông sang Tây dài
61
0
22’ từ kinh độ 73
0
40’Đ ở một địa điểm thuộc khu tự trị Tân Cương, trên sơn
nguyên Pamia đến kinh độ 135
0
2’Đ ở nơi sông Utxuri đổ vào dòng Hắc Long Giang.
Lãnh thổ Trung Quốc nằm ở bờ Đông lục địa Âu - Á, hoàn toàn ở nửa cầu Bắc,
cách xích đạo khoảng 2000 km, cách cực Bắc 4000 km. Vị trí này rất thuận lợi cho
6
Bản đồ h nh chính Trung à
Quốc
giao lưu văn hoá - kinh tế với các nước trên thế giới.
Hiện nay còn một số khu vực của Trung Quốc không nằm dưới sự kiểm soát
của lãnh thổ Trung Quốc:Hồng Công (thuộc địa của Anh đã trao trả Trung Quốc từ
1997), Ma Cao (thuộc địa của Bồ Đào Nha), Đài Loan tách khỏi Trung Quốc năm
1949 nay phát triển như một quốc gia độc lập.
II. Điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên:
1. Địa hình:
Lãnh thổ Trung Quốc về mặt địa hình khá phức tạp và đa dạng, ở đây có hầu
hết các loại địa hình: núi (chiếm 33%),cao nguyên (26%), bồn địa (19%), đồi (10%),
bình nguyên (12%), núi và cao nguyên chiếm phần lớn diện tích.
Nhìn chung địa hình thấp dần theo hướng Tây - Đông. Trên bản đồ thế giới nếu
kẻ một đường theo hướng Đông Bắc – Tây Nam bắt đầu từ sườn Đông dãy Đại
Hưng An ở phía Đông Bắc qua các tỉnh Sơn Tây, Thiểm Tây, Cam Túc, Tứ Xuyên
đến đường phân giới giữa tỉnh Vân Nam và cao nguyên Tây Tạng (giáp Lào –

Campuchia) thì đường này chia lãnh thổ Trung Quốc ra 2 phần có sự khác nhau rõ
nét: phần Tây chủ yếu là núi và cao nguyên cao, phần Đông ngoài các vùng núi, cao
nguyên trung bình và thấp: Vân Quý, dãy Tần Lĩnh - Đại Ba Sơn, Nam Lĩnh,…còn
có những gò đồi và các bình nguyên rộng lớn tương đối bằng phẳng. Nếu ta kẻ tiếp
một đường hướng Tây - Đông bắt đầu từ sơn nguyên Pamia kéo dài theo các dãy:
Côn Luân, AntinTắc, Tần Lĩnh ra biển ở phía Bắc sông Trường Giang thì đường này
lại phân hai phần Đông Tây nói trên ra hai nửa Bắc và Nam.
7
1.Phần Tây:
Ở nửa Bắc là bồn địa Tân Cương và cao nguyên Nội Mông, bao gồm nhiều bồn
địa rộng, bằng phẳng cao 1000- 2000 m. Phía Đông Bồn địa Tân Cương là cao
nguyên Nội Mông với nhiều hoang mạc lớn và một dải đồng cỏ hình cung quay lưng
về phía Nam kéo dài gần 3000km. Vùng này có nhiều dãy núi cao: An Tai (hơn
3000m), dãy Côn Luân đồ sộ cao 6000 – 7000 m, đổ xuống phía Nam là các dãy
thấp hơn từ 2000 – 3000 m: Antin Tắc, Kì Liên Sơn, Tần Lĩnh,…
Cắt ngang vùng Tân Cương là dãy Thiên Sơn, cao nhất thế giới, hơn 7000m,
diện tích 20.000km
2
, gồm nhiều dãy núi song song và các thung lũng, bồn địa rộng
(bồn địa Tuốc Phan thấp dưới mực nước biển – 155 m), dãy này chia cắt Tân Cương
làm 2 bồn địa lớn: bồn địa Iugua ở phía Bắc đón gió ẩm từ Thái Bình Dương nên cỏ
8
Lược đồ tự nhiên Trung Quốc
mọc tốt tươi là vùng chăn nuôi gia súc nổi tiếng. Phía Nam là bồn địa Tarim khô hạn
với hoang mạc Taclamacan và hồ nước mặn Lơpno.
Ở nửa Nam là cao nguyên Thanh Hải – Tây Tạng, diện tích bằng 1/4 lãnh thổ
Trung Quốc, cao 4500m. Phía Nam là dãy núi trẻ Himalaya hùng vĩ gồm nhiều dãy
chạy song song và các thung lũng sâu giữa núi cao trung bình hơn 6000 m, vài chục
ngọn cao hơn 7000m, trong đó nổi tiếng nhất là đỉnh Chômôlungma (tiếng Tây Tạng
là “Nữ thần địa phương”) cao nhất thế giới: 8848 m, với ba mặt Đông, Tây, Nam

dốc đứng và những lưỡi băng hà dày.
Cao nguyên Tây Tạng thấp dần từ Tây - Đông, khí hậu khắc nghiệt, mưa ít, tuyết
phủ bề mặt trên 6 tháng, sản xuất kém phát triển, thủ phủ là Laxa, một thành phố
nằm giữa hai dãy núi song song hướng Đông -Tây trong thung lũng sông
Yaruxanpô.
Miền Tây có phong cảnh đẹp hùng vĩ là nguồn tài nguyên du lịch có ý nghĩa.
2. Phần Đông:
Là địa hình chuyển tiếp thấp dần từ Tây sang Đông, phía Tây là cao nguyên
hoàng thổ, các dãy núi trung bình và thấp hướng Đông Bắc – Tây Nam hoặc Bắc –
Nam: Lã Hương Sơn,Thái Hàng Sơn, Hoành Đoạn Sơn,…
Phía Đông chủ yếu là đồng bằng và đồi cao dưới 400m. Có 4 đồng bằng lớn:
Đông Bắc, Hoa Bắc, Hoa Trung, Hoa Nam, tổng diện tích là 1,1 triệu km
2
, đất phù
sa (do các con sông Tùng Hoa, Liêu Hà, Hoàng Hà, Trường Giang, Tây Giang bồi
9
Vạn lý trường Đỉnh Everest
đắp) và vùng đất hoàng thổ có giá trị kinh tế lớn nằm ở trung lưu sông Hoàng Hà,
tạo thành vùng nông nghiệp trù phú.
Phía Đông có đường bờ biển dài 18.000km có nhiều hải cảng lớn rải từ Bắc đến
Nam có giá trị kinh tế lớn, với nông nghiệp, với sự giao lưu khoa học công nghệ,
học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với các nước,đây là nơi tập trung đông dân cư và cơ
sở kinh tế lớn của Trung Quốc.
2. Khí hậu:
Phần lớn lãnh thổ Trung Quốc nằm trong khu vực gió mùa Đông á, khí hậu có
sự phân chia 2 mùa rõ rệt:
Mùa đông: Tháng 9 – tháng 4, gió Bắc và Đông Bắc thổi từ cao áp Xibia và cao
nguyên Mông Cổ gây ra sự khô khan, lạnh lẽo, xuống phía Nam ảnh hưởng của gió
yếu dần, nhiệt độ trung bình là 5 – 18
0

C, nhưng giữa miền Bắc và miền Nam có sự
chênh nhau đến 40
0
C, ví dụ: thành phố Xixica (Hắc Long Giang) tháng 1 là - 21
0
C
trong khi đó Thành phố Quảng Châu là 15
0
C, nguyên nhân do sự khác biệt về vĩ độ
(49
0
B và 23
0
B) và vị trí so với cao áp Xibia. Mỗi lần đợt lạnh tràn qua, nhiệt độ hạ
xuống nhanh, ở Xixica có lúc xuống – 44,2
0
C.
Mùa hạ: tháng 3– tháng 10, gió Tây Nam và Đông Nam thổi từ ấn Độ Dương
và Thái Bình Dương vào, khí hậu trở nên nóng, ẩm, mưa nhiều. Lượng mưa trên
toàn quốc rất khác nhau: ở duyên hải phía Đông Nam mưa đến 1500 mm/năm, ở
hoang mạc phía Tây Bắc mưa dưới 50 mm/năm.
Do phạm vi lãnh thổ rộng, biển chỉ có ở phía Đông, địa hình phức tạp nên khí
hậu Trung Quốc khác nhau từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây, từ đồng bằng đến
núi cao. Ngay trên các cao nguyên núi cao cũng có sự khác biệt tương tự về khí hậu:
cao nguyên Thanh Tạng có băng tuyết quanh năm, cao nguyên Vân Quý bốn mùa
luôn ấm áp.
Vị trí địa lí và địa hình đã tạo ra nhiều kiểu khí hậu khác nhau trên lãnh thổ
Trung Quốc (kiểu khí hậu ôn đới gió mùa, ôn đới lục địa, khí hậu hoang mạc, cận
10
nhiệt gió mùa) là cơ sở để phát triển một nền nông nghiệp toàn diện về ngành, phong

phú đa dạng về sản phẩm.
Trên toàn lãnh thổ Trung Quốc do diện tích rộng, địa hình phức tạp, nên có sự
phân hóa sâu sắc về khí hậu:
Phần Đông: gồm các đồng bằng nằm rải rác từ Bắc đến Nam chịu ảnh hưởng
của biển nên khí hậu ôn hoà, mang tính chất gió mùa với các sắc thái khác nhau (gió
mùa ôn đới , gió mùa cận nhiệt, miền duyên hải có tính chất ôn hòa hơn). Mùa hạ
gió mùa cung cấp lượng mưa dồi dào (750 –2000 mm) thuận lợi cho sản xuất nông
nghiệp. Đồng bằng châu thổ sông Trường Giang trong ba tháng 6,7,8 mưa hơn
500mm gây lụt lội ở vùng hạ lưu, làm thiệt hại mùa màng cả về người và của.
Nhiệt độ có sự khác nhaugiữa Hoa Bắc và Hoa Nam (mùa hạ chênh nhau
30
0
C, mùa đông chênh 4 – 6
0
C) tạo nên sự khác nhau về nông nghiệp giữa hai vùng
với nhiều loại cây trồng khác nhau.
Phần Tây: do nằm sâu trong lục địa, chịu ảnh hưởng của địa hình nên khí hậu
mang tính lục địa, nhiệt độ chênh lệch lớn giữa ngày và đêm, giữa mùa đông và mùa
hạ(ví dụ:Zungari tháng 1 là - 20
0
C, tháng 7 là 28
0
C) nhiều nơi lượng mưa dưới 100
mm/năm, trở thành sa mạc, hầu như không trồng trọt được do quá khô hạn, chỉ có
thể chăn thả một số loại gia súc lớn, chịu hạn: cừu, dê, ngựa, lạc đà,…
Có thể nói khí hậu quy định hướng phát triển của ngành nông nghiệp ở hai
vùng Đông – Tây của Trung Quốc: phía Đông thì rất phát triển, phong phú về sản
phẩm, phía Tây bị hạn chế nhiều và kém phát triển.
Khí hậu có sự phân hoá giữa khu vực phía Bắc và phía Nam theo các đới khí
hậu: ôn đới, cận nhiệt, nhiệt đới, từ đó tạo ra sự phân bố cây lương thực, chăn nuôi

khác nhau: miền Bắc: Lúa mì, cây ôn đới (thông, táo, lê,…), miền Nam: lúa gạo, cây
nhiệt đới (chuối, chè,…), nuôi trâu.
3. Nước:
Trung Quốc rất giàu tài nguyên nước với nhiều con sông lớn: Hoàng Hà,
Trường Giang, Tây Giang, Vân Hà, Hắc Long Giang, Liêu Hà, Hoài Hà, Hải Hà,…
11
hầu hết sông của Trung Quốc đều bắt nguồn từ cao nguyên phía Tây, chảy theo
hướng Đông, Đông Bắc hay Đông Nam, đổ ra Thái Bình Dương. Các sông thường
đầy nước về mùa hạ và ít nước về mùa đông. Lưu lượng thay đổi theo mùa. Các
sông phía Bắc về mùa đông bị đóng băng 5 – 6 tháng / năm, các sông phía Nam
quanh năm không bị đóng băng, đây là nguồn thuỷ năng lớn, tổng thuỷ năng là 540
triệu KW (có thể khai thác 380 triệu KW) phần lớn nằm ở những vùng thưa dân:
Tây Tạng và Tây Nam. Đây cũng là điều kiện cho giao thông Bắc – Nam (dòng Vân
Hà), Tây - Đông (Hoàng Hà: 4.845 km) và phục vụ tưới tiêu cho sản xuất nông
nghiệp, bồi đắp phù sa tạo nên những đồng bằng màu mỡ ở hạ lưu. Đường bờ biển
dài phía Đông là cơ sở cho ngành khai thác thuỷ sản phát triển.
Nhìn chung nguồn nước có giá trị rất lớn đối với Trung Quốc. Tuy nhiên nó
cũng gây ra nhiều khó khăn đáng nói: lũ lụt phá hoại mùa màng hay khó khăn trong
thời gian đóng băng vào mùa đông.
4.Tài nguyên đất:
Đồng bằng ở Trung Quốc chiếm 1/6 diện tích tự nhiên, cao dưới 500m, diện
tích đất trồng khoảng 96 triệu ha, tỉ lệ đất nông nghiệp thấp do điều kiện tự nhiên và
sự phát triển của lịch sử. Hiện nay đất trồng chỉ chiếm 10 – 12 % diện tích lãnh thổ.
Nguồn dự trữ đất hoang của Trung Quốc còn rất lớn: 100 triệu ha nhưng chất lượng
kém và còn phải cải tạo (cần số vốn khoảng 70 triệu Nhân dân tệ) trong tương lai
không xa Trung Quốc cũng chỉ khai thác được 1/3 số đất hoang.
Hiện nay Trung Quốc có khoảng 96 triệu ha đất canh tác, trong đó 25% đất
ruộng ngập nước, 74,5% đất ruộng khô, bình quân 0,6 ha/người.
Phân bố đất canh tác không đều: 90% tập trung ở miền gió mùa phía Đông
(45% diện tích lãnh thổ). Đây cũng là vùng đất tốt, thu hoạch cao ở Trung Quốc:

vùng đất đen phía Đông Bắc, những vùng đất hạ du phía Bắc, các vùng đất đen ven
sông, đất màu hạt dẻ phía Tây Bắc. Còn lại là một phần lãnh thổ rộng bị xói mòn
(1/4 diện tích đất này tập trung ở lưu vực sông Hoài); vùng Tây Bắc và Nội Mông có
6 triệu ha đất cát, phần lớn bị thiếu nước nghiêm trọng.
Xét về độ phì đất và nhu cầu làm phì đất, đất canh tác của Trung Quốc chia 3
12
loại:
+ Độ phì cao: 33 triệu ha (31% diện tích đất canh tác)
+ Độ phì trung bình: 45 triệu ha (40%)
+ Độ phì thấp: 31 triệu ha (29%)
Vì địa hình nhiều đồi núi, khí hậu nhiều nơi khô nên đất đai thích hợp với nông
nghiệp không nhiều. Tuy vậy do có nhiều vùng đất phù sa với nhiều điều kiện tự
nhiên khác nhau nên Trung Quốc là nước sản xuất nhiều loại nông sản nhất.
5. Khoáng sản:
Trung Quốc giàu tài nguyên khoáng sản vào bậc nhất thế giới, với trữ lượng lớn,
phong phú về loại, phân bố rộng khắp đất nước, tập trung thành những mỏ lớn, dễ khai
thác. Trung Quốc có những loại khoáng sản chủ yếu sau:
•Than: trữ lượng lớn nhất thế giới, 1500 tỉ tấn, phần lớn là than đá, chất lượng
cao, hàm lượng từ 7000 – 7500 cal, trữ lượng than phân loại là 325 tỉ tấn. Than nâu
chiếm 4%. Mỏ than lớn nằm ở phía Bắc Trung Quốc, ở tỉnh Sơn Tây chiếm 1/2 trữ
lượng.
•Đá phiến dầu: trữ lượng 18 tỉ tấn, tập trung ở Đông Bắc, đặc biệt là mỏ Mao
Danh (tỉnh Liên Ninh).
•Dầu mỏ và khí thiên nhiên: trữ lượng 10 tỉ tấn, tập trung ở Tây Bắc, khu tự trị
Tân Cương, mỏ Ugua (2,1 tỉ tấn). Khí tự nhiên có 700 tỉ m
3
.
• Thuỷ năng: công suất 540 triệu KW (công suất 380 triệu KW): Tây Tạng,
Tây Nam, phía Bắc và ven biển Trung Quốc nguồn thuỷ năng kém hơn.
• Quặng sắt: 19,5 tỉ tấn, trữ lượng công nghiệp 5 – 6 tỉ tấn: Đông Bắc 60%,

Quảng Đông, cơ sở quặng sắt có nhiều triển vọng: Tứ Xuyên, Quế Châu, Bao Đầu,
Hà Bắc, An Huy,…
• Quặng Mangan: 211 triệu tấn.
• Vônfram: 1,2 triệu tấn, chíêm 90% trữ lượng thế giới, tập trung ở phía
Nam.
• Molipđen: đứng thứ hai thế giới (sau Hoa Kì): ở Liêu Ninh.
• Thiếc:2,5 tỉ tấn (mỏ Ghe lớn nhất, ở Vân Nam)
13
• Angtimoan: ở Hồ Nam.
• Thuỷ ngân:trữ lượng 0,45 triệu tấn ở Hồ Nam.
• Đồng: 25 triệu tấn.
• Nhôm: 45 triệu tấn ở Sơn Đông.
Ngoài ra còn có: Kẽm, Chì, …
Các khoáng sản phi kim loại: (triệu tấn)
Khoáng sản Trữ lượng
Amiăng 719
Graphit 10
Huỳnh thạch 2,62
Pirit 90
Muối Kali 25
(Nguồn: Kinh tế cộng hoà nhân dân Trung Hoa, khả năng và hiện thực- Petrov)
Với nguồn khoáng sản phong phú, đa dạng trên là điều kiện thuận lợi để phát
triển nền công nghiệp đa dạng về ngành, phong phú về sản phẩm.
III. Nguồn lực kinh tế – xã hội:
1. Nguồn nhân lực:
Trung Quốc, với số dân 1,3 tỉ người (2005), một tiềm năng lao động lớn, một
cái nôi của nền văn minh nhân loại. Dân số Trung Quốc đông nhất thế giới, mỗi năm
tăng hơn 7 triệu người.
Hiện nay do chính sách dân số được thực hiện có hiệu quả nên mức sinh trung
bình ở Trung Quốc là 1,7 – 1,8. Tỉ lệ tăng dân số thấp: 0,6% nhưng hàng năm vẫn

tạo ra một lực lượng lao động khổng lồ, số người trong độ tuổi lao động chiếm tới
68% dân số (1999), dân số hoạt động trong công nghiệp chiếm 20% dân số. Nguồn
lao động lớn, rẻ này là một thuận lợi lớn cho sự phát triển kinh tế của Trung Quốc.
Hiện nay dân số Trung Quốc đang già đi, quy mô dân số giảm, nhưng tiềm
năng về lao động thì vẫn còn rất lớn. Kết cấu dân số ở Trung Quốc có sự mất cân
đối, số nam nhiều hơn số nữ (52%/48% dân số), nhưng điều này cũng là sự thuận lợi
khi phát triển một số ngành công nghiệp nặng.
Trung Quốc là cái nôi của nền văn minh nhân loại, hiện nay còn lưu lại nhiều
14
công trình kiến trúc, lâu đài, cung miếu đồ sộ, nhiều tác phẩm nghệ thuật, công trình
khoa học lớn: Vạn lý trường thành, Cấm Thành, Cố Cung, Điếu Ngư Đài, Sơn Hải
quan, Gia Dục quan,…thu hút khách du lịch, thu ngoại tệ lớn.
Thực tế chứng minh người Trung Quốc lao động rất cần cù, khéo léo, năng
động và có tài kinh doanh. Trong cơ chế mới người Trung Quốc đang phát huy
những phẩm chất đó để phát triển kinh tế, coi trọng chất xám, có chính sách thỏa
đáng với lao động phức tạp, triệt để xoá mù chữ , nâng cao dân trí, tạo cơ sở thiết
yếu để hòa nhập vào xu thế của thời đại ngày nay.
Nguồn lao động dồi dào với nhiều nét văn hoá độc đáo, truyền thống lao động,
tinh thần vươn lên, sự cầu thị, và sức mua ngày càng lớn của mỗi người dân đang trở
thành một thế mạnh mới của Trung Quốc trong việc cạnh tranh với các nước khác
trong cơ chế mới.
Tuy nhiên, dân số đông đã làm nảy sinh nhiều vấn đề bức bách trong việc sử
dụng nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, vấn đề lương thực, sự phân hoá chất
lượng cuộc sống, chất lượng lao động, tính chất lao động,…
Nguồn lao động dồi dào nhưng phân bố không đều, trung bình 87 người
/km
2
,nhưng tập trung chủ yếu ở phía Đông, từ 400 – 600 người /km
2
, khoảng 9/10

dân số tập trung ở hạ lưu sông Trường Giang, Hoàng Hà, Châu Giang, nhiều nơi từ
1000 – 1500 người /km
2
. Trong khi đó ở Tây Tạng rất thưa thớt 1,5 người/km
2
.
Điều này gây nên nhiều vấn đề phức tạp, nảy sinh sự chênh lệch về mức sống, và
trong thu nhập giữa các vùng trong nước, từ đó dẫn đến mâu thuẫn sắc tộc, khó khai
thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Hiện nay quá trình đô thị hoá của Trung Quốc đang diễn ra nhanh chóng, dân
số thành thị là 36%, có 30 thành phố triệu dân, trong đó 3 thành phố lớn nhất là: Bắc
Kinh, Thượng Hải, Thiên Tân.
Quá trình đô thị hóa đang diễn ra nhanh cùng quá trình phát triển đất nước,
Trung Quốc thành lập nhiều xí nghiệp công nghiệp trong nhiều thành phố lớn và
nhỏ. Trong những năm thực hiện 4 hiên đại hoá và cải cách kinh tế, mở rộng đầu tư
15
nước ngoài, Trung Quốc đã xây dựng được nhiều thành phố mới, những đặc khu
kinh tế lớn: Thẩm Quyến, Chu Hải, Sán Đầu, Hạ Môn,…Việc công nghiệp hoá nông
thôn đã làm thay đổi đáng kể bộ mặt của các làng xã, phát triển thị trường hàng hoá,
với 4500 thị trấn lớn( 50000 – 100000 dân) và 54000 thị trấn nhỏ (dưới 50000 dân).
Cơ sở hạ tầng đang từng bước được hoàn thiện, nhằm thu hút mạnh mẽ đầu tư
nước ngoài nhằm phát triển đất nước.
2. Trình độ khoa học – kĩ thuật:
Sau khi giành độc lập, Trung Quốc rất chú trọng phát triển khoa học – kĩ thuật
và đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ cao. Cuối 1949 ở Trung Quốc chỉ có 200 nhà
địa chất. Với chiến lược ưu tiên phát triển công nghiệp hiện nay có khoảng hơn 10
triệu cán bộ khoa học, hơn 5000 cơ quan nghiên cứu khoa học độc lập, Trung Quốc
đã cử hàng ngàn chuyên gia ra nước ngoài học tập, kí hàng trăm hạng mục nghiên
cứu khoa học kĩ thuật, hợp tác với nước ngoài trong các ngành: công nghiệp thép,
công nghiệp điện tử, công nghiệp hoá dầu, phát điện, mưa nhân tạo, dự báo mưa

bằng vệ tinh, địa chất, khai mỏ, khí tượng, thuỷ văn, lâm nghiệp, làm vườn, y tế, bảo
vệ sức khoẻ,… nhằm tiếp cận và nâng cao tay nghề cho người lao động ở những
ngành sản xuất mới, hàm lượng kĩ thuật cao: công nghiệp vũ trụ, máy tính, cơ khí
chính xác, điện tử, hoá dầu…
3. Các chính sách của nhà nước
a. Trong công nghiệp:
Sau một thời gian suy sụp (cuối những năm 70), Trung Quốc có nhiều chính
sách đưa nền kinh tế đi lên bằng việc lợi dụng triệt để có kế hoạch vốn đầu tư nước
ngoài , sử dụng có trọng điểm và kiên trì đúng cơ chế thị trường, nhập các kĩ thuật
cần thiết, cải tạo xí nghiệp, nâng cấp và thay đổi các thế hệ sản phẩm, nâng cao khả
năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế:
+ Khoán, kí hợp đồng, chế độ cổ phần,…
16
+ Khuyến khích phát triển các xí nghiệp vừa và nhỏ, đẩy mạnh công nghiệp
nhẹ, công nghiệp nông thôn, công nghiệp truyền thống: dệt, gốm sứ, tiểu thủ công
nghiệp nhằm tạo việc làm cho người dân.
+ Tạo nhiều cơ hội mới, hấp dẫn đầu tư nước ngoài.
Quá trình phát triển công nghiệp nhanh chóng sau này đã chứng minh những
chính sách này là đúng.
b. Trong nông nghiệp:
Từ 1978 đến nay, Trung Quốc thực hiện ba bước đi chiến lược nhằm chấn
hưng kinh tế, hiện đại hoá đất nước,trong đó coi trọng hiện đại hoá nông nghiệp
nhằm áp dụng rộng rãi khoa học kĩ thuật trong sản xuất nông nghiệp, đầu tư thích
đáng để phát triển. Từ những năm 80 Trung Quốc đã tạo dựng được cơ sở vật chất
hùng mạnh cho nền kinh tế, khuyến khích phát triển khoa học kĩ thuật trong nước,
nhập khoa học kĩ thuật của nước ngoài, thay thế thiêt bị cũ trong nông nghiệp, đội
ngũ kĩ sư nông nghiệp được chú ý đào tạo. Đầu những năm 90 điều kiện sản xuất
được cải thiện , cuối những năm 90 tổng công suất máy móc nông nghiệp đạt 285,4
tỉ W, số máy kéo lớn, trung bình là 820000 chiếc, công suất các loại thiết bị tưới tiêu
đạt 70,6 tỉ W, khối lượng phân hoá học là 26,07 triệu tấn, lượng điện dùng ở nông

thôn là 83,5 tỉ KW...diện tích gieo trồng tăng.
Việc hiện đại hoáđã đưa nông nghiệp Trung Quốc lên hàng đầu, áp dụng khoa
học kĩ thuật có hiệu quả và thu được nhiều thành tựu rực rỡ.
Mở rộng quan hệ kinh tế với các nước, góp phần quan trọng phát triển kinh tế
đất nước.
4. Quan hệ quốc tế:
Trung Quốc đã tham gia nhiều tổ chức quốc tế lớn: AfDB, APEC, AsDB, BIS,
ESCAP, FAO, G7, UN, UNCTAD, UNESCO, UNIDO, UPU, WHO, WTO, WIPO.
Những mối quan hệ này có tác dụng thúc đẩy rất tích cực tới nền kinh tế Trung
17
Quốc.
18
CHƯƠNG II: TÌM HIỂU CHUNG VỀ
NỀN KINH TẾ TRUNG QUỐC
Trung Quốc là nước láng giềng lớn ở phía Bắc nước ta, có tiềm năng lớn phát
triển kinh tế. Trong nhiều năm của thế kỉ XX Trung Quốc là một quốc gia chậm phát
triển nhưng những năm gần đây đã đạt được những thành tựu to lớn, vươn lên trở
thành đối thủ nặng kí của Nhật, và trong tương lai có thể vươn lên cạnh tranh với
Hoa Kì. Trước sự phát triển thần kì đó nhiều người còn lạc quan cho rằng thế kỉ
XXI là thế kỉ của Trung Quốc.
I. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRUNG QUỐC TỪ 1949 ĐẾN NAY:
Từ khi thành lập (1/10/1949) đến nay, kinh tế Trung Quốc đã trải qua nhiều
bước thăng trầm, song cho đến hiện nay đã đi vào ổn định và phát triển vững mạnh,
liên tục.
1. Sau khi thành lập, Trung Quốc đã tiến hành cải cách ruộng đất, xoá bỏ sự
bóc lột của địa chủ và chia ruộng đất cho dân nghèo. Sự ra đời của các hợp tác xã
nông nghiệp đã thúc đẩy sản xuất phát triển và góp phần xoá đói giảm nghèo ở nông
thôn.Trong công nghiệp với sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc đã khôi phục và
xây dựng mới hơn 700 nhà máy tại các thành phố lớn: Vũ Hán, Thượng Hải, Quảng
Châu và gần vùng mỏ than, dầu, quặng sắt như Cáp Nhĩ Tân, Bao Đầu, Thái

Nguyên.
2. Từ 1958, trong vòng 20năm Trung Quốc tiến hành”công cuộc đại nhảy vọt”
và sau đó là “cách mạng văn hóa”.ở nông thôn, các hợp tác xã được hợp nhất thành
các công xã nhân dân với quy mô lớn tới hàng chục ngàn ha và hàng chục vạn dân.
Công xã thực hiện kế hoạch 5 năm do nhà nước giao. Mặc dù một số điều kiện sản
xuất cho nông dân được cải thiện: tăng diện tích đất được tưới tiêu, xây dựng khu
chăn nuôi gia súc, thêm máy nông nghiệp, trẻ em được đến trường, người dân có
trạm xá chăm sóc. Song cách tổ chức gò bó của công xã không phát huy được tiềm
năng của từng hộ gia đình, từng địa phương. Mức sống của người dân thấp khiến họ
19
không hài lòng với công xã nhân dân.
Trong công nghiệp, Trung Quốc muốn tự lực cánh sinh phát triển đất nước
nhưng lại đi theo đường lối sai lầm: ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, xây dựng
các nhà máy luyện gang thép ở khắp nơi, các xưởng chế biến nông phẩm nhằm đảm
bảo tự cung tự cấp,…Các khu công nghiệp chỉ sản xuất cầm chừng, sản xuất trong
tất cả các ngành đều bị đình trệ nghiêm trọng.
Quan hệ sản xuất: chế độ công hữu tư liệu sản xuất dưới 2 hình thức nhà nước
và tập thể nhưng nội dung sở hữu bị phá hoại nghiêm trọng.
Trung Quốc tiến hành chính sách bế quan toả cảng không giao lưu buôn bán
với nước ngoài…
Những chính sách đó đã làm cho nền kinh tế Trung Quốc xuống cấp nghiêm
trọng, nông nghiệp trì trệ, công nghiệp không phát triển được, đời sống nhân dân
khó khăn.
3.Từ 1978 nhận thức rõ được sự trì trệ của nền kinh tế, dưới sự lãnh đạo của
Chủ tịch Đặng Tiểu Bình, Trung Quốc đã có đã đề ra đường lối đổi mới tiếp tục xây
dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa mang màu sắc Trung Quốc, đề ra
nhiệm vụ hiện đại hoá nông nghiệp, công nghiệp, khoa học- kĩ thuật, quốc phòng,
phát huy thế mạnh của đất nước: giàu tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động lớn,
thị trường tiêu thụ rộng, Trung Quốc đã thực hiện các bịên pháp:
+Tăng cường vốn đầu tư, hiện đại hoá trang thiết bị ngành công nghiệp để sản

xuất nhiều hàng phục vụ nhu cầu trong nước và xuấtkhẩu.
+Mở rộng quan hệ với nước ngoài thu hút vốn đầu tư và công nghệ của các
nước phát triển đang bị khủng hoảng thừa,học tập kinh nghiệm quản lí, trao đổi hàng
hoá và thông tin với các nước.
+Đổi mới trong sản xuất kinh doanh tạo điều kiện cho người sản xuất quyết
định đầu tư,sản xuất, tiêu thụ sản phẩm,…
Năm 2001 Trung Quốc gia nhập WTO là cơ hội để Trung Quốc vươn lên trở thành đối
20
1953 1955
1958 1963
1973 1978
1981
1983 1988
1998
1995
2001 2003
1968
thủ cạnh tranh mạnh mẽ của Nhật Bản và Hoa Kì, vươn lên trở thành một người khổng lồ
đáng sợ của cả thế giới.II. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ:
1. Tình hình phát triển kinh tế:
Công cuộc đổi mới từ 1978 đến nay đã mang lại những thay đổi quan trọng
trong nền kinh tế Trung Quốc: xã hội ổn định và mở rộng giao lưu buôn bán với
nước ngoài thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Những năm qua kinh tế Trung Quốc tăng
trưởng cao nhất thế giới, trung bình đạt 8%. Cơ cấu kinh tế cũng có những thay đổi
đáng kể. Năm 2003 tổng GDP là 11670 tỉ Nhân dân tệ, tăng 8,5% so với 2002 vượt
xa dự kiến 7%.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc:
Năm Tăng trưởng(%) Năm Tăng trưởng(%)
1953 14,3 1981 8,9
1955 6,5 1983 12,5

1958 21,6 1988 2,7
1963 - 30,1 1995 10,5
1968 17,3 1998 7,8
1973 -9,1 2001 7,3
1978 11,5 2003 8,5
%
-40
-30
-20
-10
0
10
20
30
N¨m
Biểu đồ thể hiện tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc
Năm 2003 sản xuất công nghiệp tăng 18,4% trong khi sản lượng lương thực
tiếp tục giảm, công nghiệp có vai trò to lớn trong nền kinh tế, nền kinh tế có sự
21
Khu vực I
chuyển dịch nhanh chóng:
Tỉ lệ đóng góp của các khu vực kinh tế (%) theo các năm:
Khu vực 1980 1990 2000 2001
I 32 28,4 21 14,9
II 48 44,3 48 52,2
III 20 27,3 31 32,9
Biểu đồ thể hiện sự thay đổi cơ cấu kinh tế Trung Quốc
Cũng trong năm 2003 giá trị hàng xuất khẩu của Trung Quốc đạt 266 tỉ USD,
hàng nhập khẩu 243 tỉ USD, điều kiện sống của nhân dân được cải thiện. Thu nhập
bình quân đầu người tăng 3 lần trong gần 20 năm qua: 294 USD (1983) lên 1000

USD (2003).
Từ khi thực hiện cải cách mở cửa 1978 kinh tế Trung Quốc đã có mức tăng
trưởng kỉ lục: 8- 9%. Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc cao hơn tất cả các nước
trong hơn hai thập kỉ qua, nếu tính theo phương pháp sức mua tương đương (PPP) từ
1980-2000 mức đóng góp tăng trưởng kinh tế Trung Quốc 14%, chỉ sau Mỹ (20%),
tốc độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc gấp 3 lần mức độ trung bình của thế giới
trong từng thời kì, cao hơn các nước đang phát triển khác: Indonesia, ấn Độ, Hàn
22
0%
20%
40%
60%
80%
100%
1980 1990 2000 2001
Khu vực I
Khu vực II
Khu vực III
Quốc, Đài loan,…
Trong hai năm đầu của thế kỉ mới tăng trưởng GDP của Trung Quốc cũng hết
sức ngoạn mục: 8%(2002), 8,5%(2003), tham gia vào “câu lạc bộ các nước có GDP
đạt 1000 tỉ USD”. Tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm nhưng vẫn ở mức cao nhất thế
giới.
So với Hoa Kì và Nhật Bản, hiện nay tổng sản phẩm trong nước của Trung
Quốc còn thấp hơn nhưng với tốc độ tăng trưởng như hiện nay chỉ trong một vài
năm nữa kinh tế Trung Quốc sẽ có sự vượt bậc so với Nhật Bản và Hoa Kì.
*Các vùng kinh tế của Trung Quốc:
Trung Quốc chia thành 6 vùng kinh tế , đây là cơ sở để quy hoạch phân bố lực
lượng sản xuất đất nước, song các vùng này không đồng đều về tiềm năng kinh tế,
trình độ phát triển và dân số.

1.Vùng Đông Bắc:diện tích 803 nghìn km
2
, dân số hơn 100 triệu người, giàu tài
nguyên: dầu, than, thuỷ điên, kim loại đen, kim loại màu, đất màu mỡ. Mức độ đô
thị hoá cao:2/5 dân thành thị, 8 thành phố hơn 1 triệu dân. Công nghiệp: khai thác
chế biến dầu và năng lượng, luyện kim( các trung tâm lớn: An Sơn, Phú Thuận),
công nghiệp gỗ, hoá chất, điện tử và công nghiệp thực phẩm. Nông nghiệp sản xuất
lúa gạo, lúa mì , ngô, cao lương, cây công nghiệp (bông, thuốc lá). Giao thông phát
triển. Những thành phố lớn: Thẩm Dương- trung tâm công nghiệp vùng, Cáp Nhĩ
Tân-trung tâm khoa học,giáo dục, văn hoá, Đại Liênvà Trường Xuân là các trung
tâm công nghiệp.
2.Vùng Bắc: diện tích 1,6 triệu km
2
, dân số 130 triệu người, cao nguyên Hoàng
thổ chiếm diện tích lớn. Phía Bắc và Tây Bắc là khu tự trị Nội Mông(hoang mạc); giàu
than, sắt, kim loại màu, dầu, rừng, đồng cỏ chăn nuôi, đất phì nhiêu. Công nghiệp: khai
thác mỏ, may mặc, da, điện, luyện kim, hoá chất, điện tử, chế biến dầu, dệt. Nông
nghiệp lúa gạo, bông, trồng rau cung cấp cho thành phố, chăn nuôi gia súc lấy thịt, sữa.
Thủ đô Bắc Kinh: 11 triệu dân, là thành phố cổ, trung tâm công nghiệp, văn hóa, khoa
học, Thiên Tân - trung tâm công nghiệp (cơ khí, điện tử, hoá chất, chế biến dầu, dệt),
23
Thái Nguyên, Thanh Đảo. Khu tự trị Nội Mông là vùng chăn nuôi chủ yếu của Trung
Quốc.
3.Vùng Đông: diện tích 793 nghìn km
2
, dân số 320 triệu người, 2/3 lãnh thổ
nằm trong đồng bằng sông Hoài Hà, Trường Giang, khí hậu ôn hoà. Tài nguyên: sắt,
than, dầu, đồng, bôxit, muối mỏ. Mật độ dân số cao. Vùng đứng đầu về khối lượng
công nông nghiệp , tập trung nhiều xí nghiệp lớn: luyện kim, cơ khí, điện tử, dệt,…
Nông nghiệp chiếm 1/3 sản lượng toàn quốc: lúa gạo, bông, mía, hoa quả. Nhiều

thành phố được nước ngoài đầu tư, lớn nhất là Thượng Hải, 15 triệu dân, trung tâm
công nghiệp thương mại và vận tải, phát triển nhất trong cả nước.
4.Vùng Trung – Nam: diện tích 990 km
2
, dân số290 triệu người, có sản lượng
nông nghiệp lớn thứ hai cả nước. Giàu tài nguyên:than, thuỷ điện, kim loại màu, đất
màu mỡ. Công nghiệp:luyện kim đen, màu, cơ khí, hoá chất, vật liệu xây dựng.
Nông nghiệp: gạo, ngô, sắn, bông, chè. Thành phố lớn: Vũ Hán, hơn 4 triệu dân,
trung tâm công nghiệp, Hàng Châu- trung tâm dệt lụa.
5.Vùng Tây Nam: diện tích 2,3 triệu Km
2
, dân số 170 triệu người, địa hình núi,
cao nguyên, khí hậu cận nhiệt, ẩm. Tài nguyên: kim loại màu, thiếc, đồng, chì , kẽm,
thuỷ điện. Nông nghiệp: lúa, mía, chè, thuốc lá. Thành phố lớn: Trùng Khánh, Côn
Minh.
6.Vùng Tây Bắc: diện tích 3.2 triệu Km
2
, dân số 74 triệu người, kinh tế chậm
phát triển. Địa hình chủ yếu là núi và hoang mạc. Tài nguyên: dầu, than, kim loại
màu và hiếm, hoá mỏ, đồng cỏ chăn nuôi. Công nghiệp khai thác mỏ, dầu, hoá chất.
Thành phố lớn:Tây An – trung tâm kinh tế, Lan Châu -đầu mối giao thông.
2. Nền nông nghiệp hiện đại hoá:
Trung Quốc là trung tâm nông nghiệp, phát sinh cây trồng cổ lớn nhất và phong
phú nhất thế giới, tập trung ở các vùng đồng bằng miền Đông Trung Quốc, với các
loài cây trồng cận nhiệt, ôn đới và một số cây nhiệt đới, đây là nơi và rất giàu các
loài cây thực phẩm ( cải thìa, cải cúc, mồng tơi, đậu tương,…) cây ăn quả (táo, lê,
đào, mận, hồng, vải, nhãn, dẻ Trùng Khánh,…).
24
Nền nông nghiệp Trung Quốc đã có một thời kì phát triển với nhiều bước thăng
trầm, sau khi thành lập Trung Quốc có nhiều chính sách phát triển nền nông nghiệp

tự cung tự cấp, nên lương thực không đủ cho nhu cầu của người dân. Thời kì trước
1978 nông nghiệp Trung Quốc đã có những chính sách đầu tư cho phát triển nông
nghiệp, áp dụng những tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất một cách toàn diện:
khai hoang phục hoá, cải tạo đất, công tác thuỷ lợi, cơ khí hoá, điện khí hoá,… Điều
này mặc dù đã thực sự đưa nền nông nghiệp Trung Quốc thoát khỏi tình trạng độc
canh, yếu kém, sản xuất phụ thuộc vào tự nhiên như thời kì sau 1949, song tình
trạng coi nhẹ các yêu cầu của nông nghiệp vẫn còn chiếm lĩnh nên hiệu quả thấp.
Mặc dù lãnh thổ rộng nhưng Trung Quốc chỉ có khoảng 95 triệu ha đất canh tác, trên
diện tích đất chỉ chiếm khoảng 7%đất canh tác toàn thế giới, Trung Quốc phải nuôi
sống số dân bằng 1/5 dân số toàn cầu. Trong một thời gian dài Trung Quốc luôn
phải nhập lương thực do nông nghiệp trong nước không cung cấp đủ nhu cầu.
Từ 1978 Trung Quốc áp dụng nhiều biện pháp mới với đường lối hiện đại hoá
nông nghiệp: giao quyền sử dụng đất cho nông dân, cải thiện cơ sở hạ tầng ở nông
thôn, xây dựng mới đường giao thông, hệ thống thuỷ lợi, phòng chống hạn hán, lũ
lụt, đưa kĩ thuật mới vào sản xuất, phổ biến giống mới, giảm thuế nông nghiệp. Các
biện pháp hành chính và kĩ thuật đã tạo những điều kiện quan trọng trong việc khai
thác tài nguyên thiên nhiên sẵn có, lao động, thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp.
Đến những năm 90 nông nghiệp đã có bước phát triển cao làm sống động thị
trường thế giới, bình quân lương thực là 400kg/ người / năm, sản lượng lương thực
là 435 triệu, giải quyết cơ bản tình trạng thiếu lương thực. Hiện nay sản phẩm nông
nghiệp Trung Quốc đứng hàng đầu thế giới.
I. Ngành trồng trọt:
1. Sản xuất lương thực:
Từ 1978 đến nay tình trạng sản xuất độc canh đã giảm , khoa học kĩ thuật áp
dụng đã giải quyết về căn bản vấn đề lương thực. Năm 1990 sản lượng lương thực
25

×