Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Nội dung thuyết trình: Truyện cổ tích và truyện cười

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.94 KB, 16 trang )

Nội dung thuyết trình: Truyện cổ tích và
truyện cười

Nội dung chính:
1.

Truyện cổ tích

1.1. Định nghĩa và cơ sở hình thành
1.1.1.

Định nghĩa

1.1.2.

Cơ sở hình thành

1.2. Phân loại
1.3. Nội dung
1.4. Ý nghĩa
1.5. Đặc điểm nghệ thuật
2.

Truyện cười

2.1. Định nghĩa
2.2. Phân loại
2.3. Nội dung
2.4. Ý nghĩa
2.5. Đặc điểm nghệ thuật
2.6. Kết luận



Page 1


1. Truyện cổ tích
1.1. Định nghĩa và cơ sở hình thành
1.1.1.

Định nghĩa
Truyện cổ tích là những truyện truyền miệng dân gian, kể lại những câu
chuyện tưởng tượng xoay quanh một số nhân vật quen thuộc như: nhân vật
tài giỏi, nhân vật dũngg sĩ, người mồ côi, người em út, người con riêng,
người nghèo khổ, người có hình dạng xấu xí, người thông minh, người ngốc
nghếch, và cả những câu chuyện kể về các con vật nói năng và hoạt động
như người bình thường nó cịn là những chuyện ngày xưa chưa biết có thật
hay khơng.

1.1.2.

Cơ sở hình thành
Xuất hiện vào lúc con người đã lợi dụng được ít nhiều năng lượng của tự
nhiên nhưng lại vấp phải mâu thuẫn giữa người với người trong sản xuất.
Nói một cách khác, những truyện cổ tích dân gian được sáng tác sau thời kỳ
nguyên thủy, có nội dung xã hội khác biệt rõ với những truyện ra đời từ
trước thời kỳ đó.

1.2. Phân loại
Căn cứ vào nhân vật và tính chất của sự việc được kể lại truyện cổ tích được
phân thành 3 loại như sau:
1.2.1.


Truyện cổ tích về loại vật
Nhóm đề tài nói về con vật ni trong nhà. Loại truyện này khi miêu tả đặc
điểm các con vật thường nói đến nguồn gốc các đặc điểm đó (Trâu và ngựa,
Chó ba cẳng ...).

Page 2


Nhóm đề tài nói về con vật hoang dã, thường là các con vật sống trong rừng
Nổi bật trong nhóm này là hệ thống truyện về con vật thông minh, dùng
mẹo lừa để thắng các con vật mạnh hơn nó. Nhóm truyện này có ý nghĩa ca
ngợi trí thơng minh của người bình dân
Nhìn chung, truyện cổ tích lồi vật nêu lên những nhận thức, hiểu biết của
con người về thế giới các con vật Một bộ phận truyện cổ tích lồi vật có
nhân vật là con người tham gia, một bộ phận khác nhân vật trong truyện
hoàn toàn là các con vật. Những nhân vật chính thường là các con vật gần
gũi( trâu ,ngựa, bồ câu, sáo) các con vật trong rừng tuy hoang dã nhưng lại
quen thuộc( hổ, khỉ, thỏ ,rùa...) các con vật ở vùng sông nước( sấu, cá...),
Những con vật nầy ít nhiều có ảnh hưởng đến đời sống con người.
Truyện dân gian về loài vật khơng chỉ có cổ tích mà cịn có thần thoại và ngụ
ngôn. Với ba thể loại trên, con vật đều được nhân cách hóa. Nhưng nếu
nhân cách hóa trong thần thoại gắn với quan niệm vạn vật hữu linh, vạn vật
tương giao của người cổ đại thì trong truyện cổ tích sự kế thừa tư duy thần
thoại đó cịn nhằm phản ánh xã hội loài vật. Ðối với truyện ngụ ngơn, tác giả
dân gian đã có ý thức dùng câu chuyện để diễn đạt ý niệm trừu tượng. Tuy
nhiên , cũng cần lưu ý đến hiện tượng 2-3 mangcủa một số tác phẩm. Chẳng
hạn, truyện Cóc kiện Trờivừa là thần thoại vừa là cổ tích lồi vật, truyện
Cơng và quạvừa là thần thoại, cổ tích vừa là ngụ ngơn.
Trong kho tàng truyện dân gian Nam Bộ về lồi vật, có thể tìm thấy thể loại

truyền thuyết( Tại sao có địa danh Bến Nghé, Sự tích rạch Mồ Thị Cư, Sự tích
cù lao Ơng Hổ...). Ngồi ra, truyện lồi vật cịn bị hút vào chuỗi Truyện Bác
Ba Phi (Cọp xay lúa).
1.2.2.

Truyện cổ tích thần kỳ :
Kể lại những sự việc xảy ra trong đời sống gia đình và xã hội của con
người.Ðó có thể là những mâu thuẫn giữa các thành viên trong gia đình phụ
quyền, vấn đề tình u hơn nhân , những quan hệ xã hội ( Tấm Cám, Cây

Page 3


khế, Sự tích con khỉ...)Nói cách khác, nội dung chính của truyện cổ tích thần
kỳ là đời sống xã hội và số phận con người. Ðối tượng chính của sự miêu tả,
phản ánh là con người. Nhân vật thần kỳ khơng phải và khơng thê ølà đối
tượng chính ( Nếu vai trò của nhân vật thần kỳ lớn hơn con người thì truyện
kể sẽ trở thành thần thoại ) Tuy nhiên, cần nhớ rằng, lực lương thần kỳ
cũng giữ một vai trò quan trọng trong sự diễn biến và đi đến kết thúc của
câu chuyện.
Thế giới trong cổ tích thần kỳ là thế giới huyền ảo và thơ mộng ,có sự xâm
nhập lẫn nhau giữa thế giới trần tục và thế giới siêu nhiên. Ở đó, con người
có thể đi váo thế giới siêu nhiên, thần linh có thể xuất hiện trong thế giới
trần tục.
Do có sự giống nhau về cốt truyện nên có những kiểu truyện trong cổ tích
thần kỳ (kiểu truyện Tấm Cám, Thạch Sanh).
Nhóm truyện về các nhân vật tài giỏi, dũng sĩ: Nhân vật có tài đặc biệt, phi
thường về một lãnh vực nào đó (bắn cung, lặn, võ nghệ, chữa bệnh ...).
Nội dung kể lại những cuộc phiêu lưu ly kỳ của nhân vật chính. Cuối cùng
nhân vật chính lập chiến cơng, diệt cái ác, bảo vệ cái thiện, mưu cầu hạnh

phúc cho con người (Thạch Sanh, Người thợ săn và mụ chằng).
Nhóm truyện về các nhân vật bất hạnh: Nhân vật bất hạnh thường là người
mồ côi, người em út, người con riêng, người đi ở, người xấu xí. Về mặt xã ội,
họ bị ngược đãi, bị thiệt thòi về quyền lợi. Về mặt tính cách, họ trọn vẹn về
đạo đức nhưng thường chịu đựng (biểu hiện xu hướng hoài cổ) trừ nhân vật
xấu xí mà có tài ( Sọ Dừa, Lấy vợ Cóc ...). Nhân vật chính trải qua thử thách (
thử thách của các trở lực và có khi của nhân vật trợ thủ ) và đổi đời, được
hạnh phúc dài lâu.
Bên cạnh nhân vật chính cịn có nhân vật đế vương và lực lượng thần kỳ.
Nhân vật đế vương có liên quan tới phần thưởng dành cho nhân vật
chính Lực lượng thần kỳ ( bên thiện ) là nhân vật trợ thủ, có khi phải thử
thách nhân vật chính trước khi giúp đỡ.

Page 4


1.2.3.

Truyện cổ tích thế tục :
Truyện cũng kể lại những sự kiện khác thường ly kỳ, nhưng những sự kiện
này rút ra từ thế giới trần tục. Yếu tố thần kỳ, nếu có, thì khơng có vai trị
quan trọng đối với sự phát triển câu chuyện như trong cổ tích thần kỳ.
Nhân vật trung tâm trong cổ tích thế tục thường chủ động và tích cực hơn
so với nhân vật trung tâm trong cổ tích thần kỳ cho dù một số nhân vật bất
hạnh thường gặp bế tắc và kết cục bi thảm . Bế tắc ở đây là bế tắc của hiện
thực khác với cái đổi đờicủa mơ ước, ảo tưởng trong cổ tích thần kỳ.Nếu
xung đột trong cổ tích thần kỳ được giải quyết trong cõi huyền ảo thì xung
đột trong cổ tích thế tục được giải quyết theo logic của hiện thực. Chính vì
vậy mà chàng Trương Chi phải ơm mối sầu xuống mộ cịn anh Sọ Dừa hạnh
phúc d lâu .

Nhóm truyện có đề tài nói về nhân vật bất hạnh: Ðây là nhóm truyện kế
thừa truyện cổ tích thần kỳ về nhân vật bất hạnh nhưng khơng kết thúc có
hậu (Trương Chi , Sự tích chim hít cơ , Sự tích chim quốc...).
Nhóm truyện có nội dung phê phán những thói xấu, những hành vi độc ác
của con người : bất hiếu, khoe giàu, hách dịch...( Ðứa con trời đánh , Gái
ngoan dạy chồng ...)
Nhóm truyện về người thông minh: Nhân vật dùng sự thông minh của mình
để phân xử, ứng xử (Xử kiện tài tình , Em bé thơng minh ...) Nhân vật dùng
mẹo lừa để thể hiện trí thơng minh (Cái chết của bốn ơng sư, Nói dối như
Cuội...).
Nhóm truyện về người ngốc nghếch: Nhân vật chính ngốc nghếch thực sự,
hành động máy móc, đơi khi gặp may mắn nên thành cơng, nhưng thông
thường phải trả giá đắc cho hành vi ngu xuẩn của mình ( Chàng ngốc được
kiện , Làm theo vợ dặn...)

Page 5


Nhân vật giả vờ ngốc để đạt được mục tiêu nào đó. Ðây là dạng đặc biệt của
nhân vật thơng minh Nhân vật chẳng những khơng ngốc mà cịn đóng vai
chàng ngốc thành cơng (Làm cho cơng chúa nói được).
1.3. Nội dung truyện cổ tích
1.3.1. Những xung đột cơ bản trong gia đình và xã hội.
Phản ánh và lí giải những xung đột, mâu thuẫn trong gia đình. Nhưng mâu
thuẫn này mang tính chất riêng tư, nhưng lại phổ biến trong tồn xã hội có
giai cấp, như xung đột giữa anh em trai, xung đột giữa anh chị em gái, xung
đột có tính bi kịch về hơn nhân gia đình.
Nhưng xung đột diễn ra bên ngồi gia đình được phản ánh muộn hơn, ít tập
trung hơn.
Dù gắn với đề tài nào thì ý nghĩa xã hội của truyện cổ tích cũng rất sâu sắc.

Nó phản ánh được những xung đột mâu thuẫn giữa cái thiện và cái ác, xung
đột giữa các tầng lớp trong một xã hội phân chia giai cấp. Mâu thuẫn giai
cấp trong xã hội phụ quyền thể hiện qua xung đột giữa nhân vật bề trên và
bề dưới, đàn anh và đàn em.
1.3.2. Lý tưởng xã hội thẩm mỹ của nhân dân
Truyện cổ tích cho thấy sự bế tắc của tầng lớp nghèo khổ trong xã hội cũ,
nhân vật đàn em, bề dưới càng có đạo đức bao nhiêu thì càng thiệt thịi bấy
nhiêu
Đây là thực trạng của xã hội có giai cấp và có áp bức giai cấp. Lực lượng thần
kỳ là phương tiện nghệ thuật giúp tác giả dân gian đạt tới một xã hội lý
tưởng, một xã hội có đạo đức và cơng lý. Lực lượng thần kỳ đứng về phía
thiện trợ giúp cho nhân vật đau khổ, đưa họ tới hạnh phúc.
1.3.3. Triết lí sống, đạo lí làm người và ước mơ cơng lí của nhân dân

Page 6


Triết lí sống của tác giả dân gian trong truyện cổ tích trước hết là chủ nghĩa
lạc quan, tinh thần lạc quan trong truyện cổ tích chính là lịng u thương,
quý trọng con người, từ đó yêu đời, tin vào cuộc sống.
Kết thúc có hậu là biểu hiện dễ thấy của tinh thần lạc quan nhưng không
phải là biểu hiện duy nhất.
Kết thúc bi thảm vẫn chứa đựng tinh thần lạc quan. Nhân vật chết hoặc ra đi
biệt tích, nhưng nó để lại niềm tin vào phẩm giá con người, niềm tin vào
cuộc đời.
1.4. Ý nghĩa
1.4.1. Cốt truyện:
Đặc điểm nổi bật của cốt truyện cổ tích là tính chất bịa đặt của câu chuyện.
Cốt truyện cổ tích thường được xây dựng theo một vài sơ đồ chung, có thể
tìm thấy các kiểu cốt truyện quen thuộc như kiểu dũng sĩ diệt đại bàng cứu

người đẹp.
1.4.2. Nhân vật:
Nhân vật trong truyện cổ tích là hành động của nó. Từ hành động của nhân
vật ta có thể rút ra tính cách. Nhân vật cổ tích chưa được cá thể hóa, tâm lí
hóa.
1.4.3. Các yếu tố quyết định:
Đó là những mơ típ trong truyện cổ tích, những chi tiết nghệ thuật có mặt
trong nhiều truyện cổ tích của nhiều dân tộc. Các mơ típ này là những đơn
vị hợp thành của cốt truyện.
1.4.4. Thế giới cổ tích:
Có những yếu tố của thực tế hòa lẫn với yếu tố hư cấu tạo thành thế giới
huyền ảo, thơ mộng.

Page 7


Để giải mã thế giới cổ tích thường người ta dựa vào dân tộc học.
Truyện cổ tích:
LÀM THEO VỢ DẶN
Ngày xưa có một anh chàng ngốc nghếch đần độn. Từ ngày có vợ, vợ anh
thấy chồng ăn khơng ngồi rồi ngày này sang tháng khác, thì khơng được vui
lịng. Cho nên một hôm, nàng thủ thỉ:
- Ngồi ăn núi lở. Anh phải đi làm một nghề gì ni thân, nếu khơng thì khó
mà ăn ở với nhau được lâu dài.
Ngốc ta đáp: - "Tơi chữ nghĩa đã khơng có, đi cày thì dở, làm thợ thì dốt, biết
làm nghề gì đây?". - "Đi buôn vậy!" - người vợ trả lời. - "Tôi sẽ đưa tiền cho
anh để anh đi buôn". - "Bn gì?". - "Cái gì có lãi thì bn. Đầu thì bn vịt
bn gà, sau thì bn gỗ làm nhà cũng nên".
Mấy hôm sau Ngốc ta cầm tiền ra đi. Nhớ tới câu dặn của vợ, nên anh có ý
đi bn vịt. Qua một thơi đường, anh nhìn thấy có một bầy vịt độ một chục

con đang kiếm ăn trên mặt đầm. Khơng biết đó là vịt trời, anh quyết tâm đi
tìm chủ bầy vịt để hịi mua. Gặp một đám trẻ chăn trâu đang chơi trên bờ
đầm, anh ghé lại hỏi: - "Vịt của ai đó?".
Bọn chúng hỏi lại: - "Ơng hỏi làm gì?" - "Ta muốn mua bn". Thấy có người
hỏi trớ trêu, bọn chúng đáp liều: - "Vịt ấy là của chúng tôi. Nếu ông mua
được cả, chúng tôi bán rẻ mỗi con năm tiền, mười con vị chi là năm quan".
Nghe chúng cho biết giá rẻ, Ngốc ta khơng ngại ngần gì nữa ngồi xuống xỉa
tiền ra trả. Biết là gặp phải anh ngốc, bọn chúng nhận lấy tiền, chia nhau, rồi
bảo anh: - "Đó, bầy vịt bây giờ là của ơng. Ơng ngồi đây mà canh, đến chiều
lại lùa chúng về". Đoạn chúng mỗi đứa cưỡi trâu đi một ngả. Ngốc ta ngồi
lại bờ đầm canh chừng vịt. Chưa quá trưa, anh định lội xuống nước để lùa
vịt về thì bầy vịt nhác thấy hóng người, bay vụt lên trời một chốc mất biến.
Ngốc ta tưng hửng, đành trở về kể lại với vợ.
Vợ tiếc của mắng cho chồng một trận nên thân rồi bảo:
- Đó là vịt trời giống hệt vịt nhà, nhưng nó biết bay. Sau này trước khi mua
muốn biết vịt biết bay hay không, anh cứ giơ gậy lên dứ vào chúng là biết
ngay!
Mấy ngày sau chàng Ngốc lại cầm tiền ra đi. Đến chợ thấy có người bán ba
con lợn con. Lợn được thả trong một cái rặc quây thành vịng trịn, bờ thành
khơng cao lắm. Anh sà vào hỏi mua. Nhớ lại lời vợ dặn, nên trước khi trả
tiền, anh giơ gậy lên dứ vào mấy con lợn. Mấy con lợn thấy vậy sợ q nhảy
tót ra ngồi rặc, rồi chạy vào bụi mất cả. Người hàng lợn bèn nắm lấy áo anh
bắt vạ. Có bao nhiều liền vốn mang đi, anh phải lấy ra đền. Xót của, anh mếu
máo về kể chuyện lại cho vợ nghe. Vợ lắc đầu:
- Khốn nạn! Mấy con lợn thì làm gì biết bay mà phải dứ. Anh cứ mua đưa về
đàng hồng chả phải thử làm gì mất cơng.

Page 8



Ít ngày sau anh lại mang tiền đi. Lần này anh mua được một gánh nồi đất.
Nhớ lời vợ dặn anh cứ gánh nồi đi nghênh ngang giữa đường. Người đi
đường gặp anh đều phải tránh xuống ruộng. Không ngờ hơm ấy có một bầy
trâu đến mấy chục con được chủ lùa đi ăn. Đường hẹp, trâu không biết
tránh nên va vào gánh nồi của anh vỡ gần hết. Anh về kể lại với vợ. Vợ bảo:
- Chết nỗi. Nồi là vật dễ vỡ, gặp trâu bò hay con vật nào khác thì ta phải
tránh đi lối khác, hoặc cho cho chúng đi qua sẽ gánh về cũng khơng muộn.
Ít lâu sau nữa, anh lại đi buôn. Lần này anh mua được một gánh vôi đá mới
nung. Gánh về dọc đường anh thấy có một con chuột chết nằm chính giữa
mặt đường. Nhớ lời vợ dặn, anh lẩm bẩm: - "Chà chà, có con vật này nằm
cản đường ta phải tránh nó mới được!". Nghĩ vậy anh khơng dám bước qua
con chuột, bên lội xuống ruộng nước để tránh.
Nhưng không ngờ nước ở đấy hơi sâu, vôi đá chạm phải nước tự nhiên sôi
lên ầm ầm, anh hoảng quá vứt cả gánh mà chạy. Về nhà anh khóc lóc kể lại
cho vợ hay. Người vợ giẫm chân kêu trời, đoạn bảo anh:
- Quả là không ai ngu ngốc bằng anh. Thơi bây giờ tiền trong nhà chẳng cịn
một đồng để bn với bán nữa rồi. Ngày mai anh tìm cách gì kiếm lấy ít
quan mà tiêu.

Hơm khác, Ngốc ta bỏ nghề buôn, quyết định làm nghề ăn trộm. Chờ tối
đến, anh lẻn vào nhà một người nọ trong lúc họ cịn ngủ say. Cuối cùng anh
cũng lần mị lục tìm được một số tiền. Nhân trong nhà đèn chưa tắt, anh
đưa đến gần để đếm và nhờ tinh mắt anh phân biệt được mấy đồng
"xoèng"[1]. Anh liền tìm đến chỗ chủ nhà ngủ, lay họ dậy và nói:
- Dậy! Dậy mà đổi tiền xấu!
Chủ nhà đang ngủ ngon giấc sực tỉnh, thấy trong nhà có kẻ lạ mặt bèn hơ
hốn lên: - "Bắt, bắt lấy nó!". Ngốc ta hoảng hồn bỏ cả tiền mà chạy, may
thoát được. Về được đến nhà, anh kể lại cho vợ nghe. Vợ bảo:
- Trời ơi! cịn đổi mấy chác mà làm gì. Thơi mai đi kiếm ít gạo, về ăn, nhà
chẳng cịn hột nào nữa.

Tối hôm sau Ngốc ta lại đi ăn trộm. Anh cũng đào ngạch vào được nhà nọ
một cách dễ dàng. Nhớ lời vợ dặn nên anh không chú ý đến những cái khác
mà chỉ đi tìm gạo. Nhưng những chỗ mà anh sờ soạng đều chứa thóc là
thóc, chẳng có hạt gạo nào. Sẵn có cối xay gần đó, anh bèn đổ thóc vào xay.
Tiếng xay lúa ầm ầm làm cho nhà chủ tỉnh dậy. Khi họ xông tới toan bắt, anh
may mắn lại chạy thoát. Về kể lại với vợ, vợ kêu lên: - "Ngốc ơi là ngốc! Thôi
mai thì thấy gì lấy nấy, cứ đưa về đây, chằng cần phân biệt gì nữa".
Tối hơm sau, Ngốc lại lọt vào một nhà khác. Anh vừa vào đến sân đã thấy
nhiều thứ đồ đạc nhắm chừng có thể lấy được. - "Hừ, vợ ta dặn có gì lấy nấy
chẳng cần phải đào ngạch vào nhà làm gì cho mất cơng".

Page 9


Nghĩ vậy anh nhặt nhạnh đủ thứ chất một gánh nặng quảy về nhà. Vợ thắp
đèn lên xem thì hóa ra tồn là chổi cùn, rế rách, địn ghế, gỗ vụn, cào tre,
cuốc gãy, lại có cả một nồi nước giải. Vợ chắt lưỡi hồi lâu rồi bảo chồng:
- Thôi! Mai đừng đi ăn trộm nữa mà có ngày chết oan. Anh cứ chịu nhục làm
nghề ăn xin, may ra được miếng gì bỏ vào miệng ni lấy tấm thân là được
rồi.

Mấy hôm sau, anh nghe lời vợ làm nghề nghiệp mới. Gặp một ông quan ăn
mặc sang trọng đang đi dạo anh bước đến ngửa tay xin ăn. Nhưng vừa mở
miệng nói mấy câu học được: - "Lạy ơng đi qua, lạy bà đi lại..." thì có hai tên
lính theo hầu quan đã bước tới quất roi vào đít.
Để khỏi ăn thêm đòn, anh ba chân bốn cẳng bỏ chạy. Về kể lại với vợ, vợ bảo
anh:
- Đó là ông quan, đừng có đụng đến mà chết. Đi xin thì tìm chỗ đơng người,
khơng xin được người này thì cịn người khác thế nào cũng được ăn.
Hơm sau anh đi xin gặp một đám ma. Nhớ lời vợ dặn anh sà vào chỗ đơng

người đang xúm xít khóc than ở sau linh cữu rồi ngửa tay xin hết người này
đến người khác. Nhưng anh đã chẳng được gì mà lại còn bị mắng chửi đuổi
đánh. Anh về kể lại với vợ. Vợ bảo:
- Đó là đám ma, anh cứ đi theo "ơ hơ" ít câu là sẽ được người ta cho ăn.
Ít hơm sau, anh ra đi lại gặp một đám đông người khác. Không biết là đám
rước dâu, anh làm theo lời vợ dặn, đuổi theo đám đông vừa đi vừa bụm
mặt nấc lên mấy tiếng "ô hô!". Những người trong đám rước dâu cho là anh
cố ý làm cho họ xui xẻo, liền hò nhau đánh đập tới tấp.
Bị đòn đau, nhưng anh cũng cố giật ra được chạy về. Sau khi kể cho vợ nghe,
vợ bảo:
- Đó là đám cưới. Anh chỉ cần đi theo nói mấy câu "tốt đơi, tốt đơi" là có ăn
rồi.
Ít hơm sau anh lại đi. Gặp một đám đông người đang chữa cháy. Nhớ lời vợ
dặn anh đến gần, mồm nói lia lịa: "Tốt đôi! Tốt đôi!". Thiên hạ cho anh là thủ
phạm đốt nhà vì "tốt đơi"' nói lái là "tơi đốt", liền bắt anh trói lại nện cho
một trận, lại định giải lên quan. Anh phải vất vả lắm mới lạy lục xin thả cho
về. Về nhà anh kể lại cho vợ nghe. Vợ bảo:
- Đó là đám cháy. Thấy vậy anh cứ múc nước dội vào rồi người ta sẽ thưởng
công cho.
Mấy hôm sau anh lại đi. Gặp mấy người thợ rèn đang hì hục đập trên đe
một thanh sắt nung đỏ. Anh bèn múc một vò nước đến dội vào sắt, vào bể
lửa nhà thợ rèn. Thấy chuyện trớ trêu, cả mấy người thợ quăng búa xúm lại
giã cho một trận nhừ đòn rồi mới cho về. Về nhà anh mếu máo kể cho vợ
hay. Vợ bảo:
- Đó là những người thợ rèn sắt. Anh cứ xơng vào quai búa với họ là họ sẽ
cho ăn.
Page
10



Ít lâu sau nữa anh lại đi. Lần này Ngốc cũng tìm đến một đám dơng người.
Thấy có mấy người đánh nhau, chẳng nói chẳng rằng anh hùng hổ xơng vào
giơ tay thụi người này, co cẳng đá người nọ. Mấy người đánh nhau tuy đang
la hét giận dữ, nhưng thấy một người lạ vơ cứ đánh đá mình, bèn bỏ đánh
nhau, quây lại thụi cho anh những quả bằng trời giáng. Anh đau điếng chạy
về kể lại về vợ. Vợ bảo:
- Đó là đám đánh nhau. Anh hãy can người ta ra miệng nói "dĩ hịa vi q"
khơng khéo được người ta rủ rê chè chén cũng nên.
Ít lâu sau anh lại đi, gặp một đám đông người khác. Thì ra họ đang xem hai
con trâu húc nhau chí tử. Ngốc ta nhớ lời vợ dặn, chạy vào cố sức vỗ về can
hai con vật, miệng nói: - "Thơi thơi dĩ hịa vi q, đừng báng nhau nữa".
Nhưng khơng may cho anh, trong lúc đổi thế, một con đã húc nhằm vào
người anh làm anh thủng bụng chết.
Thế là hết đời anh chàng ngốc.

2. Truyện cười.
2.1. Định nghĩa.
Truyện cười là những truyện kể về những hiện tượng đáng cười trong cuộc
sống, trong hành vi của người đời nhằm gây ra tiếng cười. Có thể là tiếng
cười mỉm, nhưng thường là tiếng cười giịn giã, có thể là cười mà phẫn nộ,
mà khinh ghét.
Truyện cười là truyện để cười, tức là để gây ra tiếng cười. Vì thế, muốn hiểu
được cặn kẽ phải hiểu rõ hai khái niệm: cái đáng cười và cái cười.
Cái đáng cười là cái gây ra cái cười. Đó là những hiện tượng mang một loại
mâu thuẫn đặc biệt: hình thức bên ngồi có vẻ hợp lẽ tự nhiên nhưng thực
chất bên trong lại trái tự nhiên; hình thức bên ngồi có vẻ phù hợp với nội
dung bên trong, nhưng lại để lộ ra sự không phù hợp. Tóm lại ở đó có một
cái gì đó ngược đời.
Cái cười là hành động cười, do cái đáng cười và do trí óc ta phát hiện cái
đáng cười. Như vậy tất nhiên, phải có cái đáng cười thì mới có cái cười.


Page
11


Nhưng có cái đáng cười mà trí óc ta khơng phát hiện ra nó, tức cái ngược
đời khơng phát hiện ra ở hiện tượng thì cũng khơng có cái cười.
2.2. Phân loại:
Truyện cười chia thành hai loại chính:
2.2.1. Truyện cười kết chuỗi: là những mẫu giai thoại hài hước xoay quyanh một
nhân vật có thực hoặc được coi là có thực.
2.2.2. Truyện cười khơng kết chuỗi: là truyện cười có kết cấu hồn chỉnh tồn tại độc
lập mang tính phiếm chỉ (chỉ chung, khơng có tính xác định cụ thể về thời
gian, không gian, địa điểm, nhân vật). Truyện cười không kết chuỗi được
chia thành ba loại:
Truyện khôi hài (hài hước) là truyện có tiếng cười nhằm mục đích mua vui là
chủ yếu, khơng hoặc ít có tính chất phê phán đả kích. Ví dụ : truyện Tay ải
tay ai, Ba anh mê ngủ,…
Truyện trào phúng (hay châm biếm) chứa đựng tiếng cười và có nội dung
phê phán, đả kích mạnh mẽ. Ví dụ: truyện Lạy cụ đề ạ, Thà bị rang khô, Phú
hộ ngã sông,…
Truyện tiếu lâm (theo nghĩa hẹp) là những truyện cười dân gian mang yếu tố
tục, có tác dụng gây cười mạnh mẽ. Ví dụ: truyện Đỡ đẻ giỏi nhất đời, Trời
sinh ra thế, Thơm rồi lại thối,…
2.3. Nội dung truyện cười.

2.3.1. Tiếng cười mua vui giải trí :
Trong cuộc sống, nhiều khi người ta cần phải cười – đó như là một liều
thuốc tinh thần, một cách giải trí khơng tốn tiền mà đem lại hiệu quả rất cao
cho con người. Tiếng cười thoát ra giải tỏa mọi “stress”, tâm trạng u uất,

bực bội hay những phiền muộn trong lịng.Thay vào đó là cảm giác thoải
mái, sảng khối, tự tin vào chính mình, tin tưởng vào cuộc sống và sẵn sàng
đón nhận những nhiệm vụ mới, những khó khăn thách thức tiếp theo. Khi
Page
12


ấy con người có thể dễ dàng tha thứ cho nhau những sai sót, nhất là các mối
quan hệ xã hội được mở rộng, con người xích lại gần nhau thêm. Kết quả
mang lại là sự sáng tạo, nhanh nhạy, linh hoạt là sau khi con người được giải
tỏa tâm lí.
Tiếng cười trong truyện khơi hài nhằm mục đích giải trí là chủ yếu, song, nó
cũng có tính chất phê phán nhẹ nhàng. Truyện khôi hài phê phán cái ngược
đời, cái trái lẽ tự nhiên tập trung ở những thói xấu của người bình dân,
những lầm lẫn, hớ hênh (Tay ải tay ai, Thấy dễ mà thèm, Ăn vụng gặp
nhau ...).
Tác dụng giải trí của truyện khơi hài căn bản lành mạnh xét từ phía người
sáng tác cũng như người thưởng thức.

2.3.2. Tiếng cười phê bình giáo dục :
Tiếng cười trong truyện trào phúng (trào phúng bạn) phê bình thói hư tật
xấu trong nội bộ nhân dân. Nếu như bản chất cao quý của người nông dân
là sự thật (truyện cổ tích, ca dao ...) thì tính chất dễ phạm sai lầm của họ
cũng là một sự thật khác (truyện trào phúng). Chúng ta có thể đọc những
truyện như: Hội sợ vợ, lợn cưới áo mới, Sợ quá nói liều ...
2.3.3. Tiếng cười đả kích, châm biếm :
“Châm biếm mỉa mai mà một dạng thức của cái
hài” xây dựng hiện tượng mang tính ước lệ cao:
nó “bóp méo có chủ đích” những đường viền
thực của những hiện tượng bằng những biện

pháp như cường điệu, ngoa dụ, phóng đại,
nghịch dị,... để màu sắc tiêu cực được tô đậm.
Người sáng tạo ra tiếng cười phủ định càng
mạnh lý tưởng phổ quát, toàn dân, thì châm
biếm càng khỏe khoắn, năng lực phục sinh càng
mạnh.
Tiếng cười trong truyện trào phúng (trào phúng thù) vạch trần cái ác, cái xấu
có tính bản chất của giai cấp thống trị trong xã hội phong kiến.
Truyện trào phúng đả kích từ vua chúa, quan lại đến địa chủ cường hào ,
thầy đồ, thầy chùa, thầy pháp, thầy lang ... (Quan huyện thanh liêm, Thần
bia trả nghĩa, Nó phải bằng hai mày, Nam mô ... boong, Thầy đồ liếm mật,
Chỉ có một con ma ...).

Page
13


Hệ thống truyện trạng (tiêu biểu là truyện Trạng Quỳnh , Truyện ơng Ĩ ) có
tính phản phong cao, chĩa mũi nhọn thẳng vào tầng lớp chóp bu của chế độ
phong kiến (vua, chúa).
2.4. Ý nghĩa
2.4.1. Ý nghĩa xã hội:
Tiếng cười phản ánh thực trạng của xã hội phong kiến, thực dân nửa phong
kiến – xã hội đầy rẫy những cảnh bất cơng mà như Vũ Trọng Phụng đã nói là
“xã hội chó đểu”, một xã hội có phân chia giai cấp, có áp bức bóc lột, khắp
nơi trong xã hội cảnh “ kẻ ăn không hết, người lần không ra” và sự phân chia
giàu nghèo rất rõ rệt.
Trong cái xã hội ấy, tình cảnh khốn khó của người dân lao động đến mức thê
thảm. Họ bị bóc lột đến tận xương, tận tủy, đến manh áo mặc cũng vá chằng
chịt, cơm khơng đủ ăn,…

Đồng thời qua đó, họ bày tỏ lịng u nước, căm thù giặc cao độ. Nó phản
ánh quy luật phát triển tất yếu của lịch sử chế độ phong kiến ắt phải sụp đổ
để nhường cho xã hội mới tiến bộ hơn – xã hội không phân chia giai cấp xã
hội công bằng, dân chủ văn minh, hay còn gọi là xã hội chủ nghĩa.
2.4.2. Ý nghĩa nhân sinh:
Truyện cười có sức tố cáo mạnh mẽ tội ác của bọn thực dân phong kiến và
tay sai, bênh vực cho quyền lợi nhân dân.
Nó vạch trần bộ mặt thật của chế độ thực dân nửa phong kiến cùng với
những lễ giáo, hủ tục lạc hậu.
Nó cịn bênh vực cho những cái thiện, cái tốt, cái đẹp hay là những kẻ yếu
và tìm cách đấu tranh loại bỏ những gì xấu xa, rác rưởi, nhằm kích thích, làm
sống dậy cái trí nhớ vì những giá trị cao, sỉ nhục sự ngu dốt, thấp hèn.
Có thể nói, truyện cười trở thành một vũ khí lợi hại để cùng với phong trào
đấu tranh vũ trang, bạo lực chống lại mọi lực lượng đế quốc phong kiến, lạc
quan vào tương lai cuộc sống.
2.5. Đặc điểm nghệ thuật
Kết cấu:
Nhằm phơi bày cái đáng cười – một hiện tượng có mâu thuẫn nên truyện
cười thường được cấu tạo như một màn kịch có 3 lớp:
Lớp 1: giới thiệu hiện tượng chứa mâu thuẫn tiềm tàng
Page
14


Lớp 2: mâu thuẫn phát triển tới đỉnh điểm
Lớp 3: cái cười phơi bày
Nhân vật:
Nhân vật trong truyện cười không có một số bộ phận như trong truyện cổ
tích mà chỉ là hành vi ứng xử của nó trong một hồn cảnh nào đó.
Thơng thường nhân vật chính là đối tượng của tiếng cười.

2.6. Kết luận
Một truyện cười dân gian Việt Nam ln ln vận động phát triển và có vai
trị quan trọng trong việc đấu tranh, giữ gìn và phát triển những giá trị tinh
thần tốt đẹp của con người. Cùng với sự phát triển của lịch sử, kinh tế, xã
hội, truyện cười dân gian ngày càng phong phú cả về số lượng và chất
lượng, cả về nội dung cũng như hình thức. Nội dung của truyện cười ngày
càng được mở rộng và phát triển qua chiều sâu đời sống nội tâm của con
người. Nó phản ánh một cách hài hước, sâu sắc những vấn đề kinh tế, chính
trị, xã hội,... của cuộc sống.
Truyện cười dân gian Việt Nam mang nét độc đáo, giàu bản sắc văn hóa dân
tộc. Tiếng cười luôn đồng hành cùng cuộc sống con người cùng bao thăng
trầm của lịch sử, dù đau buồn hay cả lúc vui vẻ nhất tiếng cười cũng có thể
trào ra.
Truyện cười:
THƠM RỒI LẠI THỐI
Có hai tay nịnh hót ngồi hầu chuyện cụ lớn. Đang vui vẻ, bỗng dưng cụ lớn
cho ra một cái rắm. Một anh làm bộ lắng tai nghe rồi nghiêm trang nói:
- “Y hi quản thược chi âm” (nghĩa là: mường tượng như tiếng sáo).
Một anh hếch mũi lên hít, rồi nói:
- “Phảng phất chi lan chi vị” (nghĩa là: thoang thoảng như mùi hoa chi, hoa
lan).
Cụ lớn có ý khơng bằng lịng bảo:
- Ta nghe trung tiện là uế khí nó phì ra, vậy thì mùi nó thối mới phải. Chứ mà
thơm thì e rằng tuổi thọ của ta không được dài.
Một anh nghe vậy, vội đưa tay lên khơng khí như bắt hơi đưa vào mũi, hít
lấy hít để rồi bẩm:
- Bẩm cụ, bây giờ đã có mùi thối rồi ạ!
Page
15



Anh kia cũng vừa khịt mũi liền hai ba cái rồi tiếp:
- Bẩm cụ, bây giờ thì thối thật. Cụ lớn còn thọ chán!

Page
16



×