11
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm là trạng thái bệnh lý tâm thần có tỷ
lệ mắc bệnh khoảng từ 0,8 đến 1,7% dân số, chiếm từ 10 đến 20% người bệnh
nội trú tại các cơ sở chuyên khoa tâm thần [17]. Theo Tổ chức Y tế Thế giới
(TCYTTG): “Rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm thường hay gặp trong chăm
sóc sức khoẻ ban đầu, phần đông những người mắc chứng bệnh này hiện cịn
ít được ngành y tế nói chung và ngành tâm thần nói riêng chú ý đến” [9]. Biểu
hiện lâm sàng của rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm rất đa dạng, phức tạp,
vừa có triệu chứng của rối loạn lo âu, vừa có triệu chứng của rối loạn trầm
cảm, nhưng khơng có triệu chứng thuộc rối loạn nào đủ nặng để xác định
chẩn đốn. Bệnh thường có kèm theo triệu chứng suy giảm chức năng chung
[10],[51].
Trong bảng phân loại bệnh quốc tế lần thứ mười (ICD - 10) rối loạn hỗn
hợp lo âu và trầm cảm được xếp mã bệnh F41.2, thuộc các rối loạn bệnh tâm căn
có liên quan đến stress và dạng cơ thể. Tuy thuộc vào nhóm những loại rối loạn
có sự kết hợp ở một tỷ lệ quan trọng với nguyên nhân tâm lý nhưng rối loạn hỗn
hợp lo âu và trầm cảm có liên quan không rõ ràng với stress tâm lý [10].
Tiến triển của rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm phụ thuộc nhiều vào
nhận biết và thái độ can thiệp của thầy thuốc, của người dân và sự tuân thủ
điều trị của người bệnh. Tiên lượng ngắn hạn và dài hạn của rối loạn hỗn hợp
lo âu và trầm cảm còn nhiều ý kiến đánh giá khác nhau, phần lớn các tác giả
nhận thấy chỉ khoảng 50% bệnh nhân hồi phục hồn tồn, số cịn lại có
khuynh hướng thun giảm thành các triệu chứng tâm thần không đặc
hiệu[34]. Tuy rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm ít gây nguy hại đến tính
mạng người bệnh nhưng nếu khơng được chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời
1
22
sẽ để lại cho người bệnh các di chứng tâm thần, ảnh hưởng đến chất lượng
cuộc sống, hiệu suất công tác, kết quả học tập, quan hệ xã hội, khả năng tự túc
kinh tế và hạnh phúc gia đình.
Do chưa có sự rõ ràng về lâm sàng, nhiều triệu chứng về chức năng và
cơ thể trong bệnh cảnh lâm sàng, người bệnh thường đến với các chuyên khoa
khác trước khi đến với chuyên khoa tâm thần nên việc chẩn đoán kịp thời và
chính xác cịn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị, tiến triển và
tiên lượng bệnh. Cho đến nay ở Việt Nam chưa có nghiên cứu nào sâu về lâm
sàng và các yếu tố liên quan đến rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm. Chính vì
những lý do trên, chúng tơi thực hiện đề tài “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng
rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm ở bệnh nhân điều trị nội trú” với hai
mục tiêu nghiên cứu sau:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm ở
bệnh nhân điều trị nội trú.
2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến rối loạn hỗn hợp lo âu và
trầm cảm.
2
33
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. KHÁI QUÁT RỐI LOẠN LO ÂU (RLLA)
1.1.1. Các thuật ngữ khái niệm trong rối loạn lo âu:
- Lo: là một hiện tượng phản ứng cảm xúc tự nhiên tất yếu của con
người trước những khó khăn, thử thách hay đe doạ của tự nhiên hoặc xã hội
mà con người đã biết hoặc đốn được trước, từ đó tìm các giải pháp để vượt
qua và tồn tại [4].
- Lo âu: là trạng thái căng thẳng cảm xúc lan toả gây khó chịu và ít
nhiều có xung đột nội tâm. Lo âu được biểu hiện bằng nhiều rối loạn tâm thần
và cơ thể khác nhau. Lo âu cũng có thể là một thành tố của bệnh nào đó, thậm
chí có thể do thầy thuốc sinh ra (iatrogène) hoặc xuất phát từ nhận định tiêu
cực về tiên lượng bệnh của chính bản thân mình. Có hai trạng thái lo âu [7]:
+ Lo âu bình thường: có chủ đề, nội dung lo âu rõ ràng, ví dụ như ốm
đau, mất cơng ăn việc làm, diễn biến nhất thời khi có các sự kiện trong đời
sống tác động đến tâm lý cá nhân, cơ thể có thể tự điều chỉnh, trạng thái căng
thẳng cảm xúc có thể qua đi, hết tác động tâm lý thì lo âu dần mất đi mà
khơng để lại dấu vết bệnh lý nào, thường khơng có hoặc có rất ít triệu chứng
rối loạn thần kinh tự trị.
+ Lo âu bệnh lý (rối loạn lo âu): thường không có chủ đề và nội dung
cụ thể, mang tính chất vô lý, mơ hồ, thời gian thường kéo dài, lặp đi lặp lại
với nhiều rối loạn thần kinh tự trị. Trạng thái này để lại những triệu chứng
bệnh lý kéo dài, cần phải được can thiệp điều trị.
3
44
1.1.2. Phân loại rối loạn lo âu:
Hiện nay trên thế giới có hai hệ thống tiêu chuẩn chẩn đốn phân loại các
rối loạn lo âu được sử dụng phổ biến, đó là bảng phân loại bệnh quốc tế lần thứ
mười của Tổ chức Y tế Thế giới (International Classification of Diseases – 10th =
ICD-10) [10] và hướng dẫn chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần lần thứ
tư của hội Tâm thần học Mỹ (The American Psychiatric Association’s
Diagnostic and Statistical Manual of Mental disord`er - IV = DSM - IV) [15].
1.1.2.1 Phân loại theo ICD-10: Ra đời năm 1992, ICD-10 có các mã phân
loại bệnh rối loạn lo âu gồm như sau:
+ F40 Các rối loạn lo âu ám ảnh sợ, bao gồm:
• F40.0 Lo âu ám ảnh sợ khoảng trống:
• F40.1 Lo âu ám ảnh sợ xã hội.
• F40.2 Lo âu ám ảnh sợ đặc hiệu (riêng lẻ).
• F40.8 Các rối loạn lo âu ám ảnh sợ khác
• F40.9 Rối loạn lo âu ám ảnh sợ khơng biệt định
+ F41 Các rối loạn lo âu khác, bao gồm:
• F41.0 Rối loạn hoảng sợ (lo âu kịch phát từng giai đoạn).
• F41.1 Rối loạn lo âu lan toả.
• F41.2 Rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm
• F41.3 Các rối loạn lo âu hỗn hợp khác
• F41.8 Các rối loạn lo âu khơng biệt định khác
• F41.9 Rối loạn lo âu không biệt định
1.1.2.2 Phân loại theo DSM – IV và sự phóng chiếu với ICD-10:
300.00 (F41.9) Rối loạn lo âu không được định ở chỗ khác, bao gồm
rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm
300.01 (F41.0x) Rối loạn hoảng sợ không bao gồm ám ảnh sợ đám đông
4
55
300.02 (F41.1) Rối loạn lo âu lan toả
300.21 (F40.01) Rối loạn hoảng sợ bao gồm ám ảnh sợ đám đông
300.22 (F40.00) Ám ảnh sợ đám đơng khơng có tiền sử rối loạn hoảng sợ
300.23 (F40.1) Ám ảnh sợ xã hội (rối loạn lo âu xã hội = Social
Anxiety Disorder)
300.29 (F40.2) Ám ảnh sợ đặc hiệu
300.3 (F42.x) Rối loạn ám ảnh cưỡng bức
308.3 (F43.0) Rối loạn stress cấp
309.81 (F43.1) Rối loạn stress sau sang chấn
1.1.3 Triệu chứng lâm sàng rối loạn lo âu:
1.1.3.1 Theo ICD-10: triệu chứng của rối loạn lo âu bao gồm triệu chứng lo
âu và các triệu chứng kích thích thần kinh thực vật:
- Triệu chứng lo âu: Trạng thái lo âu, căng thẳng, cáu kỉnh, không thể
thư giãn, có hoặc khơng liên quan rõ rệt sau một thời gian ngấm sang chấn
sang chấn tâm lý, các rối loạn không mất đi khi sang chấn tâm lý không cịn
có ý nghĩa thơng tin
- Các triệu chứng kích thích thần kinh thực vật: Thường biểu hiện các
triệu chứng hồi hộp, tim đập mạnh, nhịp tim nhanh, vã mồ hôi, run, khô
miệng...
1.1.3.2 Theo DSM-IV: Một giai đoạn sợ hoặc lo lắng kèm theo nổi trội trong
10 phút 4 hoặc nhiều hơn trong các triệu chứng sau đây:
1) Hồi hộp đánh trống ngực, tim đập mạnh hoặc nhịp tim nhanh
2) Ra mồ hôi
3) Run hoặc lắc lư
4) Cảm giác thở nông hoặc bức thở
5
66
5) Cảm giác chống váng
6) Đau hoặc khó chịu vùng ngực
7) Nơn hoặc khó chịu vùng bụng
8) Cảm giác chóng mặt, loạng choạng, đầu trống rỗng hoặc bị ngất
9) Cảm giác không thực hoặc giải thể nhân cách
10) Sợ mất tự chủ hoặc bị điên
11) Sợ bị chết
12) Loạn cảm giác ( cảm giác tê cóng hoặc ngứa)
13) Ớn lạnh hoặc nóng bừng
1.2. RỐI LOẠN TRẦM CẢM (RLTC):
1.2.1. Lược sử quan niệm rối loạn trầm cảm:
Thuật ngữ “trầm cảm” mới xuất hiện vào thế kỷ XVIII nhưng bệnh
học về trầm cảm đã được nghiên cứu từ thời Hippocrate (năm 460-377 trước
cơng ngun). Q trình nghiên cứu về trầm cảm trên thế giới có nhiều quan
niệm khác nhau:
- Hippocrate: đã mơ tả trạng thái bệnh lý sầu uất (melancholie).
- Bonet (1686): mô tả bệnh hưng cảm- sầu uất.
- Đến thế kỷ XVIII: các tác giả đã mô tả hai trạng thái bệnh lý trầm
cảm và hưng cảm, bệnh có xu hướng tiến triển mạn tính và dễ tái phát, các tác
giả cho rằng hai trạng thái này xuất hiện xen kẽ nhau ở một bệnh nhân chỉ là
ngẫu nhiên[18].
- E. Kraepelin (1899): dựa trên biểu hiện lâm sàng và tính chất tiến
triển của những bệnh độc lập như “bệnh thao cuồng”, “bệnh sầu uất” do các
nhà tâm thần học trước đó mơ tả, Ơng đã thống nhất thành một bệnh chung là
"loạn thần hưng- trầm cảm” (psychose – maniaco - depressive).
6
77
- Từ những năm 60 – 70 của thế kỷ XX trở lại đây: Khái niệm về trầm
cảm được Tổ chức Y tế Thế giới tách thành mục riêng biệt trong Bảng phân
loại bệnh Quốc tế lần thứ 8, lần thứ 9 và lần thứ 10. Từ nhận thức đúng bản
chất về bệnh nguyên bệnh sinh của trầm cảm, cụm từ “bệnh trầm cảm” được
thay bằng cụm từ “rối loạn trầm cảm”
Rối loạn trầm cảm gặp khá phổ biến trong thực hành lâm sàng, tỷ lệ
mắc khác nhau ở từng nghiên cứu và từng quốc gia: Ở Hoa Kỳ, Anh, Đức, Ý,
Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha tần suất mắc điểm dao động từ 5- 6% dân số, tần
suất mắc bệnh cả đời từ 8% đến 12% dân số [59]; các nghiên cứu ở Việt Nam
cho thấy tỷ lệ hiện mắc rối loạn trầm cảm dao động từ 2,8% đến 8,35% dân
số [4],[6],[7].
Bệnh cảnh lâm sàng của rối loạn trầm cảm được biểu hiện dưới nhiều
hình thức rối loạn khác nhau. Trong những rối loạn này, biêủ hiện chủ yếu là
các quá trình hoạt động tâm thần bị ức chế, trong đó triệu chứng cơ bản là
cảm xúc bị ức chế, tư duy bị ức chế và hành vi bị ức chế, có thể có triệu
chứng rối loạn lo âu và triệu chứng cơ thể kèm theo. Kèm theo khí sắc trầm là
sự thay đổi tư duy và hoạt động, nhất là hoạt động có ya trí, như giảm khả
năng liên tưởng, phán đoán, suy luận, giảm hoạt động, giảm năng lượng dẫn
đến chóng mệt mỏi, v.v... Các triệu chứng cơ thể tiên phát hoặc thứ phát thể
hiện trong bối cảnh các thay đổi nói trên. Những rối loạn này có khuynh
hướng tái diễn và khởi đầu thường có liên quan đến các sự kiện hoặc hoàn
cảnh gây stress. Các triệu chứng cơ thể có thể tính đến hoặc bỏ đi mà vẫn
khơng làm mất thơng tin để chẩn đốn rối loạn trầm cảm[10].
1.2.2. Phân loại rối loạn trầm cảm:
Mặc dù trầm cảm được nghiên cứu từ thời Hippocrate, cho đến nay vẫn
cịn có những quan điểm khác nhau về cách phân loại các rối loạn trầm cảm,
nhiều tác giả cho rằng có một số vấn đề khó xác định tách biệt trong phân loại
7
88
rối loạn trầm cảm. Một số quan điểm phân loại rối loạn trầm cảm sau đây
được quan tâm hơn cả:
- Quan điểm phân loại của Kendell: Ông phân ra hai loại trầm cảm [48]:
+ Loại A: Trầm cảm có thay đổi khí sắc trong ngày
+ Loại B: Trầm cảm thay đổi khí sắc giữa các ngày
- Quan điểm phân loại của Hamilton: Ông đưa ra 5 phân lớp trầm cảm:
+ Phân lớp 1: trầm cảm trong rối loạn cảm xúc lưỡng cực, tiền sử có
giai đoạn hưng cảm
+ Phân lớp 2: trầm cảm trong rối loạn cảm xúc đơn cực, trong tiền sử
có các giai đoạn trầm cảm
+ Phân lớp 3: trầm cảm có hoang tưởng sầu uất
+ Phân lớp 4: giai đoạn trầm cảm điển hình, tiền sử khơng có rối loạn
cảm xúc.
+ Phân lớp 5: giai đoạn trầm cảm nhẹ, thường có bệnh lý cơ thể kèm theo.
- Quan điểm phân loại của Pinel và Kraepelin: hai Ông đã đưa ra ba
cách phân loại chính, hiện nay vẫn đang còn được sử dụng:
Cách một: dựa vào bệnh nguyên người ta chia trầm cảm làm ba loại:
trầm cảm nội sinh, trầm cảm tâm sinh, trầm cảm thực tổn.
Cách hai: dựa trên đặc điểm triệu chứng học chia ra trầm cảm khơng có
loạn thần và trầm cảm có loạn thần.
Cách ba: dựa trên giai đoạn, thời gian hiện diện, trầm cảm được phân
ra thành trầm cảm đơn cực và trầm cảm lưỡng cực.
- Phân loại theo ICD 10: Rối loạn trầm cảm được phân loại theo nhiều
khía cạnh khác nhau và có sự phối hợp các cách phân loại trong chẩn đoán:
8
99
+ Phân loại theo mức độ:
• Giai đoạn trầm cảm nhẹ
• Giai đoạn trầm cảm vừa
• Giai đoạn trầm cảm nặng
+ Phân loại theo sự hiện diện của triệu chứng loạn thần:
• Giai đoạn trầm cảm khơng có triệu chứng loạn thần
• Giai đoạn trầm cảm có triệu chứng loạn thần
+ Phân loại dựa vào triệu chứng và sự hiện diện theo thời gian:
• Giai đoạn trầm cảm trong rối loạn cảm xúc lưỡng cực
• Giai đoạn trầm cảm đơn cực: bao gồm rối loạn trầm cảm đơn độc
và rối loạn trầm cảm tái diễn
• Giai đoạn trầm cảm điển hình
• Giai đoạn trầm cảm khơng điển hình (trầm cảm ẩn)
+ Phân loại theo sự hiện diện của các triệu chứng cơ thể:
• Giai đoạn trầm cảm khơng có các triệu chứng cơ thể
• Giai đoạn trầm cảm có các triệu chứng cơ thể
+ Phân loại theo nguyên nhân:
• Rối loạn trầm cảm nội sinh
• Rối loạn trầm cảm thực tổn
• Rối loạn trầm cảm tâm căn
1.2.3. Triệu chứng lâm sàng rối loạn trầm cảm:
Theo ICD -10, rối loạn trầm cảm điển hình có mười triệu chứng, được
chia thành hai nhóm: nhóm các triệu chứng đặc trưng và nhóm các triệu
chứng phổ biến, trong đó có các triệu chứng về khí sắc, các triệu sinh học và
các triệu chứng cơ thể
9
1
10
0
- Nhóm các triệu chứng đặc trưng: Gồm ba triệu chứng :
• Khí sắc trầm
• Mất mọi quan tâm thích thú
• Giảm năng lượng dẫn đến tăng mệt mỏi và giảm hoạt động
- Nhóm các triệu chứng phổ biến: Gồm bảy triệu chứng thường có:
• Giảm sút sự tập trung và sự chú ý
• Giảm sút tính tự trọng và lịng tự tin
• Những ý tưởng bị tội và khơng xứng đáng
• Nhìn vào tương lai ảm đạm, bi quan
• Những ý tưởng và hành vi tự huỷ hoại hoặc tự sát
• Rối loạn giấc ngủ
• Ăn kém ngon miệng: đắng miệng, chán ăn
- Nhóm các triệu chứng cơ thể: Triệu chứng cơ thể thường xuất hiện
nhưng khơng ln có. Các triệu chứng cơ thể có thuộc về hệ tuần hồn, hệ hơ
hấp, hệ tiêu hố, hệ thần kinh ngoại biên, giác quan hoặc các triệu chứng toàn
thân. Các triệu chứng cơ thể là triệu chứng thứ yếu trong rối loạn trầm cảm
điển hình, có hay khơng có khơng làm ảnh hưởng đến chẩn đoán, nhưng trong
rối loạn trầm cảm khơng điển hình, các triệu chứng cơ thể lại là những triệu
chứng chính, chính vì các triệu chứng cơ thể mà người bệnh tái khám nhiều
lần ở các chuyên khoa khác nhau nhưng khơng được chẩn đốn rối loạn trầm
cảm mặc dù không phát hiện thấy tổn thương thực thể hoặc mức độ tổn
thương không tương xứng với mức độ các triệu chứng cơ thể.
1
0
111
1
1.2.4. Tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn trầm cảm theo ICD 10:
- Tiêu chuẩn triệu chứng:
• Mức độ nhẹ: ít nhất có 2 trong 3 triệu chứng đặc trưng và ít nhất có 2
trong các triệu chứng thường có ở trên, khơng có triệu chứng nào ở mức độ nặng
• Mức độ vừa: ít nhất có 2 trong 3 triệu chứng đặc trưng và ít nhất
có 3 trong các triệu chứng thường ở trên, nhiều triệu chứng biểu hiện rõ, nếu
khơng rõ thì có nhiều hơn các triệu chứng khác nhau.
• Mức độ nặng: có đủ 3 triệu chứng đặc trưng và ít nhất có 4 trong
các triệu chứng thường có ở trên. Trường hợp vì nặng mà bệnh nhân khơng
thể mơ tả được đầy đủ triệu chứng thì vẫn được ghi nhận chẩn đoán.
- Tiêu chuẩn thời gian:
Triệu chứng kéo dài ít nhất 2 tuần, có thể ít hơn 2 tuần đối với những
trường hợp triệu chứng đặc biệt nặng và khởi phát rất nhanh.
1.3. KHÁI QUÁT VỀ RỐI LOẠN HỖN HỢP LO ÂU VÀ TRẦM CẢM
1.3.1. Quan niệm về sự liên quan giữa RLLA và RLTC:
- Quan niệm trước đây: Nhiều tác giả trước đây cho rằng lo âu và
trầm cảm là sự biểu hiện khác nhau ở hai thời điểm của cùng một rối loạn.
Các tác giả đã đưa ra khái niệm tồn tại một "trục liên tục" của rối loạn lo âu
và rối loạn trầm cảm. Khi xem xét sự hiện diện các dữ kiện nghiên cứu đã kết
luận rằng không thể bác bỏ quan điểm về một "trục liên tục" giữa trầm cảm và
lo âu. Các bằng chứng qua các nghiên cứu về di truyền và sinh lý thần kinh đã
củng cố quan niệm cho rằng hai rối loạn này liên quan chặt chẽ với nhau
khơng chỉ về bệnh cảnh lâm sàng mà cịn về sinh lý bệnh [18].
Mendlewicz, Parker và cộng sự dẫn lời nghiên cứu của một số tác giả về
phân tích di truyền đa thông số đã đưa ra các chứng cứ mâu thuẫn nhau về việc
1
1
1
12
2
xem trầm cảm và lo âu là hai bệnh riêng biệt, quan điểm cho rằng đó là một phần
của trục liên tục có cùng cơ địa di truyền [56], [60].
Bakish, Clayton dẫn lời một số tác giả nghiên cứu: tồn tại một tỷ lệ
nhất định có thể tạng di truyền chung đối với rối loạn trầm cảm và lo âu,
chúng có thể biểu hiện riêng biệt hoặc chung với nhau tuỳ thuộc vào điều kiện
môi trường[21], [24].
- Quan niệm ngày nay: Ngày càng có nhiều nghiên cứu nội viện và
ngoại viện đưa ra các chứng cứ khơng đồng tình với quan điểm gộp hai rối
loạn lo âu và trầm cảm làm một. Từ những thập niên 60 và 70 của thế kỷ XX,
lo âu và trầm cảm đã được xem như hai loại bệnh riêng biệt. Sự khác biệt này
được minh chứng qua nhiều khía cạnh, trong đó hố dược trị liệu đóng vai trị
quan trọng: rối loạn trầm cảm được điều trị chủ yếu bằng thuốc chống trầm
cảm, rối loạn lo âu được điều trị chủ yếu bằng thuốc giải lo âu. Sử dụng
benzodiazepine điều trị có hiệu quả rối loạn lo âu là minh chứng cho quan
điểm tách riêng hai rối loạn lo âu và trầm cảm[13],[34], [54]..
Kendler và cộng sự qua phân tích mối liên quan giữa các yếu tố di
truyền với các triệu chứng lâm sàng trong một nghiên cứu nhóm lớn các cặp
trẻ sinh đơi, đã chứng dẫn ra trầm cảm và lo âu là hai nhóm rối loạn riêng
biệt[48].
Theo Fravelli và cộng sự, 2/3 bệnh nhân trầm cảm có phối hợp rối loạn
lo âu hiện hành, nếu tính cả trong tiền sử thì tỷ lệ này là 3/4 [40].
Mặc dù có sự tách ra thành hai rối loạn lo âu và trầm cảm riêng biệt
trong hệ thống phân loại, sự xuất hiện đồng thời và phổ biến các triệu chứng
lo âu và trầm cảm trong thực hành lâm sàng, nhất là trong hệ thống chăm sóc
sức khoẻ ban đầu đã khơi dậy khuynh hướng xem xét lại quan điểm về một
trục liên tục giữa hai rối loạn này.
1
2
1
13
3
Angst, Dobler và Mikola kết luận khi xem xét sự hiện diện các dữ kiện
nghiên cứu: mặc dù thường có sự liên quan chặt chẽ với nhau về triệu chứng
học nhưng không thể đồng nhất hai rối loạn này làm một như quan niệm một
“trục liên tục”[18].
ICD- 10 và DSM-IV đưa ra chẩn đoán rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm
cảm đã đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi trong thực hành lâm sàng, giải quyết được những khó khăn, vướng mắc trong chẩn đoán, điều trị, tiên lượng và
chăm sóc người bệnh.
1.3.2. Mức độ rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm:
Về mặt triệu chứng học, có nhiều sự kết hợp ở mức độ nhẹ các triệu
chứng thuộc rối loạn lo âu và rối loạn trầm cảm trong rối loạn hốn hợp lo âu
và trầm cảm, hiện nay chưa có sự thống nhất tiêu chuẩn đặc hiệu cho chẩn
đoán cũng như mức độ bệnh lý loại rối loạn này.
Sự xác định độ nhẹ của từng triệu chứng cũng chỉ là tương đối, rất
mang tính chủ quan, tuỳ thuộc vào cách nhìn nhận của mỗi người. Tuy nhiên
sự phối hợp đan xen các triệu chứng và khơng có triệu chứng nào nổi trội là
nét cơ bản để lập luận chẩn đoán. Người ta gợi ý rằng các nhà nghiên cứu,
những người mong muốn nghiên cứu bệnh nhân mắc các rối loạn này cần tìm
ra những tiêu chuẩn của riêng họ, tuỳ thuộc vào địa điểm và mục đích nghiên
cứu [11].
Theo ICD- 10, rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm được xếp vào nhóm
các rối loạn tâm căn có liên quan đến stress và dạng cơ thể (F40 - F48), mục
các rối loạn lo âu khác (F41), có mã chẩn đốn phân loại bệnh là F41.2.
1
3
1
14
4
Theo DSM-IV, rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm được xếp vào nhóm
các rối loạn lo âu khơng biệt định, có mã chẩn đốn phân loại bệnh là 300.00,
tương đương với mã chẩn đoán phân loại bệnh F41.9 của ICD-10
1.3.3. Đặc điểm chung rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm:
1.3.3.1 Trầm cảm và lo âu – trạng thái bệnh lý phối hợp
Trong cuộc sống hiện đại, ngày càng có nhiều trạng thái bệnh lý phối
hợp giữa lo âu và trầm cảm. Kinh tế xó hội càng phát triển, cuộc sống mưu
sinh càng trở nên khắc nghiệt, mối quan hệ xó hội càng có nhiều nẩy sinh mâu
thuẫn, các mâu thuẫn giữa luân lý và phi luân lý càmg phức tạp, những quy
luật khắt khe của nền kinh tế thị trường tác động, gây tăng những xung đột
nội tâm và bệnh lý lo âu - trầm cảm cho nhiều cá nhân với những mức độ
khác nhau. Đây là hai thực thể bệnh lý phản ánh trạng thái lo âu và trầm cảm
khó tách rời. Thuật ngữ bệnh lý này bắt đầu được tiếp cận từ nửa cuối thế kỷ
XX dựa trên sự đồng xuất hiện các triệu chứng trầm cảm và lo âu trong thực
hành lâm sàng tâm thần học.
Trong thực hành lâm sàng tồn tại một số trạng thái bệnh lý phối kết hợp
lo âu với trầm cảm, phản ánh sự tồn tại hai thực thể bệnh lý trên một cá thể
trong cùng thời điểm. Sự kết hợp này được Trần Hữu Bỡnh khái quát như sau:
- Rối loạn trầm cảm + các triệu chứng lo âu
- Rối loạn lo âu + các triệu chứng trầm cảm:
- Rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm: Rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm
được định nghĩa là sự có mặt của một hỗn hợp các triệu chứng trầm cảm và lo âu
mà không đủ ngưỡng để chẩn đoán cho bất cứ một rối loạn riêng rẽ nào.
1.3.3.2 Quan niệm rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm theo ICD 10:
1
4
1
15
5
- Rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm được chẩn đoán khi các triệu
chứng của cả lo âu và trầm cảm đều có, nhưng khơng có triệu chứng thuộc rối
loạn nào đủ nặng để đánh giá chẩn đoán riêng. Triệu chứng của rối loạn hỗn
hợp lo âu và trầm cảm tương đối nhẹ và không kéo dài, hỗn hợp thường thấy
trong chăm sóc sức khoẻ ban đầu, có tỷ lệ cao trong nhân dân, nhưng khơng ít
trường hợp chưa được quan tâm chú ý tới, đặc biệt là đối với các nước đang
phát triển và chậm phát triển. Các triệu chứng thần kinh tự trị như run, đánh
trống ngực, khô mồn, sôi bụng và một số triệu chứng khác luôn xuất hiện dù
liên tục hoặc chỉ từng hồi. Nhiều cơn kích thích thần kinh tự trị mức độ nhẹ
hoặc đôi khi trầm trọng nhưng tồn tại ngắn. Thường các triệu chứng xẩy ra
trong khoảng thời gian một tháng với các đặc điểm: trong hồn cảnh khơng có
nguy hiểm về mặt khách quan; khơng khu trú vào hồn cảnh được biết trước,
không lường trước được; giữa các cơn bệnh nhân tương đối thoát khỏi các
triệu chứng lo âu. Trong nhóm các rối loạn này, lo âu biểu hiện bởi sự lo lắng
tập trung vào các triệu chứng biểu hiện nguyên phát hoạt động quá mức thần
kinh tự trị và có thể kết hợp với các hiện tượng sợ thứ phát [10].
Mặc dù có sự kết hợp cả lo âu và trầm cảm trong bệnh cảnh lâm sàng
nhưng chẩn đoán rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm không được đặt ra trong
các trường hợp:
+ Cả hai nhóm triệu chứng rối loạn trầm cảm và lo âu đều có nhưng đủ
trầm trọng thì chẩn đốn trầm cảm được ưu tiên;
+ Rối loạn tuy khơng có liên quan rõ ràng đến stress nhưng có những
biến đổi đáng kể trong đời sống hoặc các sự kiện gây stress, trong trường hợp
này có thể nên được xem xét để đặt chẩn đốn các rối loạn sự thích ứng
(F43.2);
+ Chỉ có lo âu q mức mà khơng có triệu chứng thần kinh tự trị;
1
5
1
16
6
+ Lo âu xuất hiện hoặc duy nhất, hoặc chủ yếu do những hồn cảnh hay
những đối tượng nào đó bên ngồi chủ thể mà trong thực tế khơng nguy hiểm,
người bệnh né tránh các hoàn cảnh và đối tượng hoặc là chịu đựng với sự
khiếp sợ, lo âu không nhẹ đi khi biết rằng người khơng coi hồn cảnh đó là đe
doạ hay nguy hiểm, trong trường hợp này có thể nên được xem xét để chẩn
đốn là rối loạn lo âu ám ảnh sợ;
+ Một rối loạn nào đó phát triển rõ rệt trước hoặc là cùng thời điểm làm
chẩn đốn, khi đó hoặc cả hai chẩn đốn lo âu ám ảnh sợ và giai đoạn trầm
cảm được đặt ra hoặc chỉ một chẩn đoán được xác định;
+ Tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn trầm cảm được thoả mãn trước khi các
triệu chứng lo âu lần đầu tiên xuất hiện, trong trường hợp này rối loạn trầm
cảm được ưu tiên chẩn đoán trước;
+ Cơn xảy ra trong một hồn cảnh đã được xác định, mang tính chất tái
diễn, bắt đầu đột ngột và thời gian tồn tại ngắn (vài phút, đôi khi kéo dài hơn),
các biểu hiện phổ biến như đánh trống ngực, đau ngực, cảm giác bị chống,
chóng mặt và cảm giác khơng thực, các triệu chứng thần kinh tự trị mạnh dần
lên trong cơn, ln có mối sợ thứ phát phát như sợ chết, sợ mất tự chủ hay sợ
điên, trong trường hợp này có thể nên được xem xét đặt chẩn đoán là rối loạn
hoảng sợ;
+ Các triệu chứng rất thay đổi, phổ biến là bệnh nhân phàn nàn luôn
cảm thấy lo lắng, run rẩy, căng thẳng cơ bắp, ra mồ hơi, đầu óc trống rỗng,
đánh trống ngực, chóng mặt, khó chịu vùng thượng vị, đồng thời với các loại
lo âu và linh tính điềm gở, trường hợp này có thể nên được xem xét tính đến
chẩn đốn là rối loạn lo âu lan toả. Rối loạn lo âu lan toả thừơng liên quan với
stress mơi trường mạn tính, lan toả và dai dẳng, khơng khu trú hoặc khơng
trội mạnh lên trong bất kỳ hồn cảnh môi trường nào, thường kèm theo là sợ
bản thân hoặc người thân thích sẽ sớm mắc bệnh hoặc bị tai nạn, linh tính
1
6
1
17
7
điềm gở, các triệu thường gặp là: sợ hãi (lo lắng về bất hạnh tương lai, dễ cáu,
khó tập trung tư tưởng), căng thẳng vận động (bồn chồn đứng ngồi khơng
n, đau căng đầu, run rẩy, khơng có khả năng thư giãn) và hoạt động quá
mức thần kinh tự trị (đầu óc trống rỗng, ra mồ hơi, mạch nhanh hoặc thở gấp,
khó chịu vùng thường vị, chóng mặt, khơ mồm, v.v...)
1.3.4. Đặc điểm các nhóm triệu chứng trong rối loạn hỗn hợp lo âu và
trầm cảm:
Triệu chứng lâm sàng của rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm bao gồm
nhóm các triệu chứng thuộc về rối loạn lo âu, nhóm các triệu chứng thuộc về
rối loạn trầm cảm, nhóm các triệu chứng thuộc cơ thể, nhóm các triệu chứng
có liên quan đến trạng thái tâm thần, nhóm các triệu chứng tồn thân, nhóm
các triệu chứng căng thẳng tâm lý và một số triệu chứng không đặc hiệu khác.
Mặc dù biểu hiện một phức hợp các triệu chứng đa dạng nhưng khơng có triệu
chứng riêng biệt nào thuộc về rối loạn lo âu hay trầm cảm đủ gây cản trở đối với
người bệnh và ảnh hưởng đến những người xung quanh, việc đi đến bệnh viện
khám bệnh là do sự phức hợp nhiều triệu chứng gây ra cảm giác khó chịu, bất an
cho người bệnh. Tuy nhiên cũng cần tách bạch thành từng nhóm triệu chứng để
bàn luận cho cụ thể.
1.3.4.1 Nhóm các triệu chứng thuộc về rối loạn lo âu: Nhóm triệu chứng
thuộc về rối loạn lo âu gồm có triệu chứng lo âu và triệu chứng kích thích
thần kinh thực vật:
- Triệu chứng lo âu: Trong rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm, chủ đề
lo âu mơ hồ, khơng rõ ràng, người bệnh có cảm giác lo lắng, bất an nhưng
không xác định được nội dung cụ thể. Lo âu có thể gặp ở các mức độ khác
nhau, từ mức độ nhẹ đến mức độ nặng. Mức độ nhẹ thường biểu hiện cảm
1
7
1
18
8
giác khó chịu nhẹ, khơng gây cản trở sinh hoạt, học tập hay lao động; mức độ
nặng thường cũng chỉ biểu hiện trạng thái bất an, cảm giác mất an toàn, ảnh
hưởng đến khả năng học tập, lao động và chất lượng cuộc sống nhưng ở mức
độ nhẹ hoặc vừa phải.
- Triệu chứng kích thích thần kinh thực vật: Thường gặp một hoặc
nhiều trong các triệu chứng kích thích thần kinh thực vật sau đây:
+ Hồi hộp, tim đập mạnh hoặc nhịp tim nhanh: Người bệnh thường
hay hồi hộp trước những sự kiện không mấy xa lạ, kèm theo hồi hộp là đánh
trống ngực và tim đập nhanh và mạnh.
+ Vã mồ hôi: Mồ hôi vã là triệu chứng thường gặp, đôi khi vã như tắm
trong khi trời lạnh. Thường vã mồ hôi kèm theo cảm thấy lạnh, ngay trong
mùa hè nóng bức cũng phải tắm nước nóng, thậm chí không dám tắm mà chỉ
lau người qua loa nhanh.
+ Run: thường có triệu chứng run tay hoặc run chân hoặc kết hợp cả hai,
run khơng do thời tiết, thậm chí trời nóng bức người bệnh run như thời tiết lạnh.
+ Khô miệng: Người bệnh cản thấy khô miệng hoặc/và đắng miệng
mặc dù khơng do dùng thuốc hoặc mất nước.
1.3.4.2 Nhóm các triệu chứng đặc trưng của rối loạn trầm cảm:
Các triệu chứng đặc trưng thuộc rối loạn trầm cảm trong rối loạn hỗn
hợp lo âu và trầm cảm có đặc điểm như sau :
- Khí sắc trầm: Giảm khí sắc có thể biểu hiện rõ ràng hoặc khơng rõ
ràng, người bệnh thường có cảm giác buồn mơ hồ, kín đáo, người ngồi nếu
khơng thực sự quan tâm thì khó nhận thấy.
- Mất quan tâm thích thú: Người bệnh vẫn duy trì những mối quan
tâm, sở thích thường ngày trước đây nhưng ở mức độ giảm nhiệt tình, khơng
đều hoặc khơng duy trì lâu.
1
8
1
19
9
- Giảm năng lượng: Người bệnh vẫn duy trì các hoạt động thường
ngày. Tình trạng giảm nhẹ năng lượng cơ thể, biểu hiện bởi sự chóng dẫn đến
mệt mỏi hơn khi lao động gắng sức, giảm ở mức độ nhẹ hoặc vừa hiệu suất
hoạt động chuyên môn và hoạt động xã hội
- Giảm sút sự tập trung và sự chú ý: Thường khơng duy trì được lâu
như trước đây sự chú ý vào một sự vật hoặc hiện tượng, hậu quả là trí nhớ tức
thì bị giảm, đây là triệu chứng người bệnh hay than phiền.
- Giảm sút tính tự trọng và lòng tự tin : Triệu chứng này biểu hiện rất
kín đáo, ít được bộc lộ. Biểu hiện chủ yếu là người bệnh thấy nghi ngờ vào
khả năng của bản thân, cảm thấy khó khăn hơn trong suy nghĩ và thực hiện
những việc mà trước đây hồn thành khơng mấy khó khăn nhưng người bệnh
vẫn cịn hy vọng sẽ được cải thiện trong tương lai.
- Ăn kém ngon miệng: Triệu chứng ăn kém ngon xuất hiện nhưng
không liên tục .
- Rối loạn giấc ngủ: Đây là triệu chứng thường gặp. Có thể mất ngủ
đầu giấc (khó vào giấc ngủ khi bắt đầu ngủ), mất ngủ giữa giấc (tỉnh ngủ vào
lúc nửa đêm và khơng thể hoặc khó ngủ tiếp), hoặc mất ngủ cuối giấc (tỉnh
dậy sớm và không thể ngủ tiếp), có thể có ác mộng. Rối loạn giấc ngủ thường
là triệu chứng làm người bệnh hay than phiền.
Schoevers dẫn lời của Kendell: trong rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm
cảm khơng thấy có các triệu chứng loạn thần, triệu chứng thuộc rối loạn trầm
cảm thường kèm theo giảm tâm thần vận động và xuất hiện sau triệu chứng
thuộc rối loạn lo âu từ 2 đến 3 tuần [70]. Các triệu chứng khơng điển hình có
thể kèm theo hoặc không kèm theo, bao gồm các triệu chứng cơ thể và các
triệu chứng sinh học.
1.3.4.3. Nhóm các triệu chứng cơ thể:
1
9
2
20
0
Nhóm các triệu chứng này làm cho người bệnh khó chịu, đây thường
chính là các triệu chứng làm cho người bệnh đi khám. Các triệu chứng thuộc
các hệ cơ quan sau đây thường gặp:
- Triệu chứng thuộc vùng ngực : Cảm giác bó ngực, khó thở, đau hoặc
khó chịu ở ngực.
- Triệu chứng thuộc vùng hầu họng: người bệnh có cảm giác vướng
họng, ngứa họng hoặc cảm giác có cục hịn ở họng, khó nuốt hoặc nuốt nghẹn
có nhưng hiếm gặp.
- Triệu chứng thuộc đường dạ dày, ruột phía trên: Hay gặp cảm giác
căng tức vùng thượng vị, các triệu chứng ợ chua, buồn nơn hoặc nơn khan ít
gặp hơn.
- Triệu chứng thuộc đường dạ dày, ruột phía dưới: Người bệnh có cảm
giác đầy hơi đại tràng, đau nhẹ dọc theo khung đại tràng, đơi khi kèm theo táo
bón hoặc ỉa lỏng. Triệu chứng đau bụng vùng dưới rốn có gặp nhưng hiếm.
- Triệu chứng thuộc hệ cơ, xương, khớp: Người bệnh thường có có
cảm giác cảm giác căng cơ, mỏi cơ vùng lưng - thắt lưng, đau khơng có điểm
khu trú vùng cổ - vai - gáy; hiếm gặp đau lưng, đau thắt lưng, đau khớp, đau
chân tay.
- Triệu chứng thuộc hệ thống tiết niệu: Thường có triệu chứng đi tiểu
nhiều lần, các triệu chứng đái dắt, đái buốt ít gặp, nếu có chỉ ở mức độ nhẹ,
thống qua
- Triệu chứng thuộc hệ thống sinh dục: Đối với nữ thường gặp kinh
nguyệt khơng đều, ít gặp các triệu chứng thống kinh, kinh kéo dài, mất kinh hay
đau khi giao hợp; đối với nam hay gặp xuất tinh sớm, di tinh.
1.3.4.4. Nhóm các triệu chứng thần kinh, giác quan: Thường gặp các triệu
chứng tê bì lan toả hoặc khu trú nhưng khơng định hình, giảm nhẹ thị và thính
2
0
2
21
1
lực; hiếm gặp các triệu chứng mất thính lực, mất thị lực, song thị, mất khứu
giác, sai lệch mùi vị, sợ mùi thức ăn.
1.3.4.5. Nhóm các triệu chứng sinh học: thường gặp giảm dục năng, ít gặp
mất dục năng và lãnh cảm tình dục; sút cân là triệu chứng hay gặp nhưng
không giảm quá 5% trọng lượng cơ thể trong tháng đầu.
2
1
2
22
2
1.3.4.6. Nhóm các triệu chứng có liên quan đến trạng thái tâm thần:
- Cảm giác chóng mặt, khơng vững, ngất xỉu hoặc choáng váng: trong
rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm, người bệnh chỉ có cảm giác thấy các triệu
chứng này chứ thực tế không xuất hiện. Tuy nhiên đây là mối quan tâm của
người bệnh, làm cho người bệnh hay than phiền về chúng.
- Tri giác sai sự thật hoặc giải thể nhân cách: Người bệnh có cảm
giác sự vật xung quanh đôi khi không thật, nghi ngờ về cảm giác của mình
hoặc nghi ngờ về khơng gian xung quanh.
- Sợ mất kiềm chế: Thường người bệnh than phiền về khả năng sẽ mất
bình tĩnh hoặc phản ứng cảm xúc thái quá một khi có vấn đề nào đó xẩy ra đối
với bản thân. Tuy chưa xẩy ra nhưng người bệnh lo lắng sẽ bị người khác chê
cười hoặc xa lánh .
1.3.4.7. Nhóm các triệu chứng tồn thân: Thường thấy các cơn nóng bừng
hoặc ớn lạnh, tê cóng, nổi da gà ngay cả khi thời tiết nóng bức. Các cơn
thường biểu nhẹ và thoáng qua, cơn tê cóng hiếm gặp hơn
1.3.4.8. Nhóm các triệu chứng căng thẳng tâm lý: Trạng thái bồn chồn hoặc
không thể thư giãn thường hay gặp, làm cho người bệnh khơng duy trì lâu được
một chỗ, đơi khi người bệnh có cảm giác tù túng hoặc căng thẳng tâm thần
1.3.4.9. Một số triệu chứng khác: Đơi khi người bệnh có cảm giác đầu óc
trống rỗng hoặc cáu kỉnh dai dẳng vô lý, nặng hơn có thể phản ứng quá mức
với sự kiện nhỏ
1.3.5. Chẩn đoán rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm:
1.3.5.1. Theo ICD 10:
- Tiêu chuẩn triệu chứng: Sự hỗn hợp các triệu chứng rối loạn trầm
cảm cùng tồn tại với triệu chứng rối loạn lo âu, khơng có triệu chứng nào xem
xét một cách riêng biệt là đủ nặng để đánh giá chẩn đốn. Nếu có lo âu nặng
2
2
2
23
3
với mức độ trầm cảm ít hơn thì cần được xem xét để đặt chẩn đoán khác. Khi
cả hai hội chứng trầm cảm và lo âu đều đủ trầm trọng thì trầm cảm phải được
ưu tiên trước. Một số các triệu chứng thần kinh tự trị (run, đánh trống ngực,
khô mồm, sơi bụng, v.v...) phải có đủ dù chỉ từng hồi.
- Tiêu chuẩn loại trừ: Loại trừ chẩn đoán nếu:
+ Lo âu và lo lắng q mức, khơng có triệu chứng thần kinh tự trị
+ Các triệu chứng đáp ứng đầy đủ nhưng xẩy ra có liên quan chặt chẽ
với với những biến đổi đáng kể trong đời sống hoặc các sự kiện gây stress
trong đời sống
+ Triệu chứng trầm cảm lo âu kéo dài
1.3.5.2. Theo DSM-IV-TRTM 2000 (300.00) :
- A/ Thường xuyên hoặc tái diễn sự giảm cảm xúc một thời gian trong
một tháng nay.
- B/ Kèm theo tối thiểu có 4 trong các triệu chứng sau đây:
(1) Khó tập trung chú ý hoặc mất hứng thú
(2) Rối loạn giấc ngủ (khó đi vào giấc ngủ hoặc mất ngủ hoặc ngủ
không ngon giấc)
(3) Mệt mỏi hoặc cảm giác giảm năng lượng
(4) Dễ nổi cáu
(5) Lo lắng quá mức
(6) Dễ mủi lòng (dễ chảy nước mắt)
(7) Quá cảnh giác đề phòng
(8) Nghĩ đến điều xấu sẽ xẩy ra
2
3
2
24
4
(9) Bất hạnh (bi quan về tương lai)
(10) Giảm lòng tự trọng hoặc cảm thấy vô dụng
- C/ Các triệu chứng đau buồn trên lâm sàng hoặc gây tai hoạ cho xã
hội hoặc ảnh hưởng đến lao động hoặc kỹ năng nghề nghiệp.
- D/ Triệu chứng chắc chắn không do bệnh cơ thể hoặc nghiện chất (ma
tuý, dược phẩm)
- E/ Tất các triệu chứng trên phải:
(1) Không bao giờ đáp ứng tiêu chuẩn chẩn đốn trầm cảm điển hình,
loạn khí sắc, rối loạn hoảng sợ hoặc rối loạn lo âu lan toả
(2) Khơng đáp ứng chẩn đốn rối loạn lo âu hoặc trầm cảm ở chỗ khác
(3) Triệu chứng không đáp ứng chẩn đoán cho một rối loạn tâm thần
nào khác
Loại trừ: Các triệu chứng khơng được giải thích bởi việc có tang người
thân hoặc được đặc trưng bởi rối loạn chức năng rõ ràng, có ý nghĩ mình là vô
dụng, ý tưởng tự sát, các triệu chứng loạn thần hoặc chậm vận động tâm thần.
1.3.6. Các trắc nghiệm tâm lý hỗ trợ đánh giá chẩn đoán:
Các trắc nghiệm (test) tâm lý khơng có giá trị chẩn đốn xác định mà
dùng để đánh giá trạng thái một số mặt hoạt động tâm thần, đồng thời giúp
đánh giá tiến triển và hiệu quả điều trị của một số trạng thái bệnh lý, ví dụ
như lo âu, trầm cảm v.v... Trắc nghiệm tâm lý đang được sử dụng rộng rãi để
đánh gía rối loạn lo âu là test Zung và trầm cảm là test Beck
1.3.6.1. Test Zung (Self rating axniety scal of Zung) - phụ lục:
Test này do W.K Zung đề xuất năm 1980, được dùng để đánh giá trạng
thái lo âu. Nội dung gồm 20 câu hỏi về triệu chứng giành cho người bệnh tự
2
4
2
25
5
đánh giá, mỗi câu có 4 mức điểm từ 1 đến 4 được xếp theo thời gian xuất hiện
triệu chứng. Điểm số tối đa là 20 x 4 = 80
Cách đánh giá:
+ Điểm số (%) =
Điểm thực hiện được
Điểm số tối đa (80)
x 100
+ Đánh giá:
• Điểm số ≥ 50%: rối loạn lo âu
• Điểm số < 50%: khơng rối loạn lo âu
1.3.6.2. Test Beck (Beck Depression Inventory)- phụ lục……:
Beck và cộng sự xây dựng năm 1974, được dùng để bệnh nhân tự đánh
giá trạng thái trầm cảm. Test có gồm 95 tiểu mục được xếp trong 21 mục đánh
số từ 1 đến 21 với 4 mức điểm mẫu từ 0 đến 3, tổng số điểm là: 21 x 3 = 66
Đánh giá kết quả:
• < 14 điểm : bình thường
• 14 - 19 điểm: trầm cảm nhẹ
• 20 - 29 điểm: trầm cảm vừa
• ≥ 30 điểm : trầm cảm nặng
1.3.7. Các nghiên cứu về rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm:
1.3.7.1. Các nghiên cứu về dịch tễ học
Đa số tác giả đưa ra tỷ lệ rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm chiếm 1%
dân số nói chung. B.J Sadock và V.A Sadock nhận thấy rối loạn rối loạn hỗn
hợp lo âu và trầm cảm chiếm từ 10% đến 20% bệnh nhân nội trú và chiếm tới
50% trong các cơ sở chăm sóc sức khoẻ ban đầu về tâm thần [69]. Qua phân
tích các khía cạnh triệu chứng học, các tác giả nhận thấy rối loạn hỗn hợp lo
âu và trầm cảm là sự đan xen giữa triệu chứng lo âu và triệu chứng trầm cảm,
2
5