ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THỊ ĐỊNH
ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT
CỦA PHÁP NHÂN Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2018
i
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THỊ ĐỊNH
ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT
CỦA PHÁP NHÂN Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ THUẬN
Hà Nội – 2018
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi, với sự
hướng dẫn khoa học của TS Nguyễn Thị Thuận. Các kết quả nghiên cứu nêu trong
luận văn chưa được công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác. Các tài liệu và trích
dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, có nguồn gốc, tin cậy và trung thực.
Tác giả luận văn
Lê Thị Định
iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS:
Bộ luật dân sự
LDN:
Luật doanh nghiệp
Công ty TNHH: Công ty trách nhiệm hữu hạn
CTCP:
Công ty cổ phần
CTHD:
Công ty hợp danh
HĐQT:
Hội đồng quản trị
HĐTV:
Hội đồng thành viên
GĐ/TGĐ:
Giám đốc/Tổng giám đốc
KSV:
Kiểm soát viên
BKS:
Ban kiểm soát
iv
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƢƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT VÀ
ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA PHÁP NHÂN ...........................................7
1.1 Đại diện theo pháp luật .......................................................................................7
1.1.1 Khái niệm ...........................................................................................................7
1.1.2 Đặc điểm ..........................................................................................................11
1.1.3 Trách nhiệm của các bên khi tham gia vào quan hệ đại diện ...........................13
1.1.4 Phân loại đại diện ............................................................................................16
1.2 Đại diện theo pháp luật của pháp nhân ..........................................................18
1.2.1 Đặc tính của pháp nhân phát sinh đòi hỏi về đại diện ......................................18
1.2.2 Đại diện theo pháp luật của công ty .................................................................19
1.2.3 Nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của công ty .................................26
1.2.4 Đại diện theo pháp luật của công ty tại một số nước .......................................29
KẾT LUẬN CHƢƠNG I ........................................................................................35
CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐẠI DIỆN
THEO PHÁP LUẬT CỦA PHÁP NHÂN VÀ CÔNG TY Ở VIỆT NAM .........36
2.1 Ngƣời đại diện theo pháp luật của pháp nhân và công ty ............................36
2.2 Đại diện theo pháp luật đối với mỗi mơ hình công ty ...................................42
2.2.1. Đại diện theo pháp luật ở CTCP .....................................................................42
2.2.2 Đại diện theo pháp luật ở công ty TNHH hai thành viên ................................43
2.2.3 Đại diện theo pháp luật ở Công ty TNHH một thành viên ...............................44
2.2.4 Đại diện theo pháp luật CTHD .......................................................................45
2.3 Quy định về tiêu chuẩn, điều kiện đại diện theo pháp luật của công ty ......45
2.4 Phạm vi đại diện của ngƣời đại diện theo pháp luật của công ty .................51
2.5 Trách nhiệm của ngƣời đại diện theo pháp luật của công ty ........................58
2.5.1 Trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật của công ty đối với công ty...58
v
2.5.2 Quy định về trách nhiệm của pháp nhân đối với các giao dịch do đại diện xác
lập, thực hiện .............................................................................................................64
2.6 Quy định về cơ chế giám sát .............................................................................67
2.6.1 Quy định giám sát thông qua BKS ...................................................................68
2.6.2 Quy định giám sát thông qua thành viên HĐQT độc lập .................................69
2.6.3 Quy định giám sát thông qua các cơ chế khác ...............................................73
2.7 Quy định về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt đại diện theo pháp luật của
pháp nhân ................................................................................................................75
2.7.1 Quy định về xác lập đại diện theo pháp luật của pháp nhân ............................75
2.7.2 Quy định về thay đổi người đại diện theo pháp luật của pháp nhân ................77
2.7.3 Quy định về chấm dứt người đại diện theo pháp luật của pháp nhân ..............78
KẾT LUẬN CHƢƠNG II.......................................................................................79
CHƢƠNG III: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH ĐẠI DIỆN THEO
PHÁP LUẬT CỦA CÔNG TY Ở VIỆT NAM .....................................................80
3.1 Yêu cầu hoàn thiện chế định đại diện theo pháp luật của cơng ty ...............80
3.1.1 Từ góc độ lý luận ..............................................................................................80
3.1.2 Từ tình hình thực tế ..........................................................................................81
3.2 Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về đại diện theo pháp luật của
công ty ở Việt Nam ..................................................................................................82
3.2.1 Giải pháp chung hoàn thiện quy định về đại diện theo pháp luật của công ty .82
3.2.2 Giải pháp cụ thể ...............................................................................................93
KẾT LUẬN CHƢƠNG III .....................................................................................96
KẾT LUẬN ..............................................................................................................97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................98
vi
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đại diện theo pháp luật nói chung và đại diện theo pháp luật của pháp nhân
nói riêng ln là một chế định quan trọng trong quy định pháp luật về dân sự và đã
được hình thành, phát triển từ rất sớm. Cùng với sự thay đổi và phát triển mạnh mẽ
về kinh tế, xã hội, chế định đại diện theo pháp luật của pháp nhân đã và đang ngày
càng hoàn thiện để điều chỉnh, nâng cao các mối quan hệ kinh tế, xã hội. Nghiên
cứu về mặt lý luận và trên thực tiễn áp dụng, từ năm 2017 chế định đại diện theo
pháp luật của pháp nhân đã có những thay đổi quan trọng ảnh hưởng lớn đến hoạt
động kinh tế nói chung và sản xuất kinh doanh nói riêng ở Việt Nam. Theo đó, các
pháp nhân Viêt Nam ngồi tn thủ các quy định về đại diện theo pháp luật trong
nước còn tiếp cận những giá trị tích cực của học thuyết đại diện trên thế giới và đưa
vào áp dụng tại Việt Nam.
Đến nay, Việt Nam đã có một hành lang pháp lý gần như hoàn thiện quy định
về đại diện theo pháp luật của pháp nhân ở văn bản pháp luật chung và luật chuyên
ngành như BLDS, LDN, Luật đầu tư, Luật phá sản,… Với sự ra đời của BLDS 2015
và LDN 2014 mơ hình tổ chức, hoạt động của các pháp nhân nói chung cũng như
đối với người đại diện theo pháp luật nói riêng đã được hồn thiện đầy đủ về khung
pháp lý đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi thực tế của nền kinh tế.
Tuy nhiên, từ thực tiễn hoạt động của các đại diện theo pháp luật của pháp
nhân trong những năm gần đây đã nảy sinh rất nhiều những vướng mặc trong quá
trình áp dụng chế định đại diện theo pháp luật tại các công ty, sự phức tạp của các
quy định cũng như quá trình áp dụng vào thực tiễn có liên quan đến chế định đại
diện ngày càng cao và dần xuất hiện những yếu tố bất cập. Nhiều quy định của pháp
luật chưa được chặt chẽ, rõ ràng và thống nhất với nhau, đặc biệt giữa các văn bản
pháp luật hướng dẫn cũng khác nhau đã dẫn tới tình trạng áp dụng quy định của
pháp luật về đại diện khác nhau trên thực tế; Các vấn đề về chấp nhận hay không
1
các thông lệ, tập quán thương mại quốc tế về quan hệ đại diện trong các giao dịch
của công ty; Trách nhiệm của pháp nhân do đại diện xác lập, thực hiện; … dẫn đến
những thiếu sót nhất định như các pháp nhân không áp dụng đúng quy định của
pháp luật, có sự hiểu khác nhau về quy định đại diện theo pháp luật của pháp nhân
giữa các công ty với cơ quan nhà nước hoặc tệ hơn trong chính các pháp nhân cũng
không đánh giá và quy định đúng về đại diện theo pháp luật. Đây là trở ngại rất lớn
cho các pháp nhân trong quá trình thành lập và tiến hành hoạt động kinh doanh.
Xuất phát từ tình hình thực tế nêu trên, việc đưa ra một giải pháp pháp lý để có
thể vận hành tốt chế định đại diện theo pháp luật của pháp nhân là cần thiết và địi
hỏi bức thiết. Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài “Đại diện theo pháp luật của pháp
nhân ở Việt Nam” làm luận văn Thạc sỹ luật học với mong muốn góp phần tiếp
tục hồn thiện các quy định của pháp luật về chế định đại diện theo pháp luật của
pháp nhân tại Việt Nam để đáp ứng với sự phát triển của các công ty và phù hợp với
thơng lệ quốc tế trong q trình cơng nghiệp hóa trong xu thế hội nhập kinh tế quốc
tế của nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên thế giới, học thuyết về đại diện đã được nghiên cứu từ rất sớm. Nội dung
này sớm được đề cập đến trong tác phẩm The Wealth of Nations của Adam Smith.
Theo đó, nhà kinh tế học nổi tiếng Adam Smith cho rằng với đặc tính của cơng việc
quản lý, các cổ đơng không nên kỳ vọng và tin tưởng rằng người quản lý công ty sẽ
hành động như họ muốn, bởi lẽ người quản lý cơng ty ln có xu hướng thiếu siêng
năng, mẫn cán và lợi dụng vị trí của mình để tìm kiếm lợi ích cá nhân cho chính họ
hơn là cho các cổ đông và công ty. Trong nghiên cứu của mình, Adam Smith đã dự
đốn xu hướng phát triển của các công ty hiện đại với sự phân tách giữa quyền sở
hữu và quản lý, kiểm sốt cơng ty (separation of ownership and control); Trong tác
phẩm The Modern Corporation and Private Property của Adolf A. Berle và
Gardiner C. Means được công bố năm 1932, Berle và Means khẳng định rằng với
sự phát triển của phương tiện truyền thông hiện đại, việc tổ chức tốt của các thị
2
trường chứng khốn và sự tăng lên nhanh chóng về số lượng các nhà đầu tư, vấn đề
sở hữu vốn trong các công ty ngày càng bị phân tán và cổ phần sẽ được sở hữu bởi
nhiều chủ thể đa dạng hơn. Hai ơng cũng cho rằng, mơ hình cơng ty hiện đại ngày
nay là đại diện của một hình thức mới về tài sản, mà tài sản đó lại được kiểm sốt,
quản lý bởi những người quản lý cơng ty (những người làm thuê) hơn là các cổ
đông (những chủ sở hữu thực sự của tài sản); Ngoài ra, cịn có một số tác phẩm
khác đề cập đến chế định này như Agency Law and Contract Formation của Eric
Rasmusen; Corporate Governane: Kiểm soát quản trị của Bob Tricker, …
Đối với tình hình nghiên cứu trong nước, ở nhiều phạm vi và góc độ khác
nhau, đã có những cơng trình nghiên cứu, bài viết đề cập chế định đại diện dưới góc
độ dân sự, doanh nghiệp, quản trị Cơng ty được đăng trên các tạp chí về luật học.
Dưới góc độ pháp luật dân sự có một số bài viết điển hình như: “Chế định đại diện
theo quy định của pháp luật Việt Nam - Nhìn từ góc độ luật so sánh” của TS Ngơ
Huy Cương đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 4 năm 2009; “Chế định đại
diện trong pháp luật Việt Nam và vấn đề đặt ra trong thực tiễn áp dụng” của TS
Nguyễn Vũ Hồng đăng trên Tạp chí Luật học số 2 năm 2013. Những bài viết này
tương đối ngắn, chủ yếu đề cập đến vấn đề đại diện nói chung dưới góc độ so sánh
với quy định đại diện trên thế giới hoặc thực tiễn áp dụng để chỉ ra những khiếm
khuyết của BLDS 2005.
Dưới góc độ pháp luật về doanh nghiệp cũng có một số bài viết như: “Người
quản lý Cơng ty theo Luật doanh nghiệp 1999 - Nhìn từ góc độ luật so sánh” của
PGS.TS Bùi Xuân Hải đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 4 năm 2005; “Học
thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp luật Công ty Việt Nam” của PGS.TS Bùi
Xuân Hải đăng trên Tạp chí khoa học Pháp lý số 4 năm 2007. Đây là những bài viết
thiên về góc độ quản trị doanh nghiệp, phân tích học thuyết đại diện ở một số nội
dung cơ bản để xem xét, bình luận về thực tiễn quản trị doanh nghiệp và pháp luật
công ty ở Việt Nam.
3
Ngồi ra, cịn có một số nghiên cứu đề cập đến những lĩnh vực cụ thể dưới
góc độ quản trị Công ty như “Vấn đề chủ sở hữu và người đại diện, một số chính
sách gợi ý về chính sách cho Việt Nam” của TS Nguyễn Ngọc Thanh đăng trên Tạp
chí khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh số 26 năm 2010; Đề tài nghiên cứu
đặc biệt cấp ĐHQG Tháng 5/2005: “So sánh pháp luật về quản trị Công ty của một
số nước trên thế giới: Bài học kinh nghiệm và kiến nghị giải pháp hồn thiện pháp
luật Cơng ty Việt Nam” của PGS.TS Phạm Duy Nghĩa.
Bên cạnh đó, có một số luận văn, luận án đã tiếp cận đến vấn đề pháp lý về đại
diện như Luận văn thạc sĩ Luật học năm 2011: “Pháp nhân - Chủ thể quan hệ pháp
luật dân sự” của tác giả Nguyễn Thị Tuyết Nhung; Luận văn thạc sĩ Luật học năm
2007 “Người đại diện theo pháp luật trong Luật doanh nghiệp 2005” của tác giả
Nguyễn Văn Thắng; Luận văn thạc sĩ luật học năm 2014: “Đại diện theo pháp luật
của Công ty cổ phần ở Việt Nam” của tác giả Vũ Thị Bích Thủy. Luận văn thạc sĩ
luật học năm 2014: “Người đại diện theo pháp luật của Công ty theo quy định của
pháp luật Việt Nam” của tác giả Lê Việt Phương. Luận văn thạc sĩ luật học năm
2014: “Chế định người đại diện của doanh nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp
Việt Nam” của tác giả Phạm Lâm Hải Nguyên.
Những đề tài nghiên cứu trên chủ yếu đề cập đến chế định đại diện một cách
khái quát hoặc dưới góc nhìn của pháp luật thương mại, doanh nghiệp về người đại
diện cho doanh nghiệp hoặc phân tích trong một phạm vi hẹp về người đại diện theo
pháp luật ở một loại hình Cơng ty cụ thể mà chưa khái qt, nghiên cứu sâu về đại
diện theo pháp luật của các pháp nhân, một chủ thể quan trọng trong sự phát triển
kinh tế tại Việt Nam. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận và thực tiễn về chế định đại diện theo pháp luật của pháp nhân dưới góc nhìn
từ các quy định của pháp luật dân sự nói chung và pháp luật chuyên ngành nói riêng
một cách có hệ thống nhằm đem lại những góc nhìn mới và phân tích sâu hơn mối
quan hệ giữa pháp luật dân sự và doanh nghiệp trong quy định về đại diện là một
hướng nghiên cứu mới trong luận văn.
4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng các
quy định về đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo BLDS 2015, LDN 2014. Từ
đó, chỉ ra những bất cập và kiến nghị một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp
luật Việt Nam về chế định đại diện theo pháp luật của pháp nhân.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, đề tài đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu
cụ thể sau:
Một là, nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề lý luận cơ bản về đại diện theo
pháp luật và đại diện theo pháp luật của pháp nhân ở Việt Nam.
Hai là, phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng
quy định đại diện theo pháp luật của pháp nhân ở Việt Nam.
Ba là, đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật Việt
Nam về chế định đại diện theo pháp luật của pháp nhân.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là đại diện theo pháp luật của pháp nhân ở Việt
Nam. Bao gồm các loại pháp nhân được đề cập tại BLDS nói chung và tập trung
chủ yếu vào các tổ chức kinh tế như công ty cổ phần, cơng ty trách nhiệm hữu hạn
có từ hai thành viên trở lên, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty
hợp danh được quy định tại LDN. Mặc dù đề tài được nghiên cứu và nhìn nhận dưới
quy định pháp luật dân sự nhưng do đối tượng hướng tới của đề tài chủ yếu là các
pháp nhân - doanh nghiệp nên tác giả xin phép được đi sâu và nghiên cứu các quy
định về đại diện theo pháp luật của các doanh nghiệp theo quy định của LDN.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở các phương pháp luận cơ bản như phương
pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khoa
5
học truyền thống như phân tích, so sánh, tổng hợp một cách có lơgic để làm rõ các
vấn đề lý luận về đại diện theo pháp luật, cụ thể như sau:
- Phương pháp phân tích: Được sử dụng trong tất cả các chương để phân tích,
làm rõ và đánh giá các quy phạm pháp luật liên quan đến chế định đại diện của pháp
nhân tại Việt Nam.
- Phương pháp so sánh: Được sử dụng để đối chiếu chế định đại diện trong
các hệ thống pháp luật khác nhau cũng như trong các văn bản quy phạm pháp luật
của BLDS và LDN của Việt Nam.
- Phương pháp chứng minh: Được dùng để chứng minh cho các luận điểm,
luận cứ được đưa ra trong Luận văn.
- Phương pháp tổng hợp: Được sử dụng để tổng hợp các luận điểm, căn cứ lý
luận được đưa ra trong Luận văn để đưa ra các kết luận của từng chương và kết luận
chung của Luận văn.
Ngoài ra, đề tài cũng dựa trên một số quan điểm, đường lối, chính sách, pháp
luật của Nhà nước về các vấn đề có liên quan.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài nhằm bổ sung, làm phong phú thêm lý luận
khoa học pháp lý đối với chế định đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Đồng
thời, có ý nghĩa thực tiễn trong việc hoàn thiện các quy định pháp luật về đại diện
của pháp nhân ở Việt Nam
6
CHƢƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT VÀ
ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA PHÁP NHÂN
Đại diện là một chế định quan trọng trong đời sống, đặc biệt là trong các quan
hệ của pháp luật dân sự. Trong tác phẩm An Introduction to Comparative Law,
Korad Zweigert và Hein Koetz đã từng nhận định rằng: “Phương thức đại diện là
một sự cần thiết không thể bị vô hiệu trong bất kỳ chế độ phát triển nào mà dựa trên
sự phân công lao động đối với sản xuất, và phân phối hàng hóa và dịch vụ” [35,
tr.282]. Như vậy, có thể thấy thiết chế đại diện là vơ cùng quan trọng, nó thúc đẩy
sự phân cơng lao động trong xã hội cũng như tạo cơ hội để các giao dịch dân sự
trong đời sống được thực hiện một cách tối ưu.
Đại diện là chế định quan trọng hệ thống pháp luật tư, được ghi nhận trong
pháp luật nhiều quốc gia trên thế giới, bao gồm cả các quốc gia theo hệ thống Civil
law và hệ thống Common law. Đại diện được hiểu là thực hiện hành vi nhân danh
người khác thông qua ủy quyền (Authorization) hoặc dựa trên quy định của pháp
luật (Legal rights) hay chính là đại diện theo ủy quyền và đại diện theo pháp luật
trong quy định về đại diện ở Việt Nam.
Mặc dù pháp luật dân sự với tư tưởng cốt lõi là dựa trên sự thỏa thuận và định
đoạt của các chủ thể tham gia trong quan hệ pháp luật dân sự. Tuy nhiên, để đảm
bảo cho các hoạt động dân sự được diễn ra một cách thuận tiện và hiệu quả, pháp
luật cũng đưa ra chế định đại diện dựa trên cơ sở của pháp luật để dự liệu đối với
những trường hợp nhất định.
1.1
Đại diện theo pháp luật
1.1.1 Khái niệm
Đại diện theo pháp luật (Legal representation – hệ thống Civil Law hoặc
Agency by Operation of Law – hệ thống Common Law) là một chế định đặc biệt của
đại diện. Đại diện theo pháp luật có thể được hiểu là quan hệ đại diện phát sinh từ
7
căn cứ pháp luật, việc thực hiện hành vi đại diện phải dựa trên những quy định cụ
thể của luật pháp.
Do sự hình thành và phát triển khác nhau nên hệ thống pháp luật Common law
và Civil law có những nhận định và quy định khác nhau về đại diện. Ở các quốc gia
theo hệ thống pháp luật Common law cịn có một học thuyết riêng khá tồn diện về
chế định đại diện và đóng vai trị quan trọng trong đời sống kinh tế.
Đại diện theo pháp luật là một chế định đặc thù của hệ thống pháp luật Châu
Âu lục địa. Nó được áp dụng chủ yếu đối với các tự nhiên nhân. Nền tảng của nó
dựa trên hai yếu tố cơ bản của một cá nhân, đó là năng lực pháp luật (Personality)
hay là khả năng có các quyền và nghĩa vụ và năng lực hành vi, hay chính là khả
năng thực hiện các hành vi pháp lý.
Thời kỳ đầu Luật La Mã, những đứa con thuộc bất cứ độ tuổi nào đều phải
chịu sự chi phối từ sự kiểm soát tuyệt đối của pater familias – người gia trưởng
trong gia đình, chế định này được gọi là patria potestas và những đứa con khơng có
khả năng để có được quyền. Do vậy mà khơng những họ khơng có khả năng để thực
hiện các giao dịch bởi chính mình mà khơng một ai được thực hiện các giao dịch
dưới tên của họ. Pater familias cũng không thực hiện các hành vi để phục vụ lợi ích
cho họ mà chị hành động vì lợi ích của mình. Do vậy mà trong bối cảnh đó, đại diện
được cho là khơng cần thiết. [81, p.47]
Chế định đại diện trở nên thật sự cần thiết khi pháp luật hiện đại quy định mọi
tự nhiên nhân đều có khả năng có quyền và nghĩa vụ. Chế định đại diện lúc này để
áp dụng đối với những người thiếu đi khả năng có thể thực hiện các hành vi pháp lý.
Việc cung cấp chế định đại diện cho những người khơng thể tự mình thực hiện được
các quan hệ pháp luật không chỉ giúp những người này để giúp họ đáp ứng những
nhu cầu cơ bản của mình mà cịn có ý nghĩa đối với xã hội để giúp cho các giao
dịch dân sự được diễn ra một cách thuận lợi. [60, p.656]. Cơ chế mà hệ thống Civil
law phát triển để thực hiện mục đích này chính là chế định đại diện theo pháp luật
(Legal representation), theo đó một người được ủy quyền trước bởi pháp luật hoặc
8
được Tòa án chỉ định để hành động thay mặt cho người khơng có khả năng thực
hiện các hoạt động đó theo luật định.
Hầu hết các nước trong hệ thống pháp luật Civil Law đều quy định người đại
diện theo pháp luật của các cá nhân như sau:
- Cha mẹ là đại diện của con cái (Điều 320 BLDS Ý, Điều 150 BLDS Hy
Lạp, Điều 154 BLDS Tây Ban Nha, Điều 304 BLDS Thụy Sỹ)
- Người giám hộ là người đại diện cho trẻ vị thành niên (Điều 357 BLDS Ý,
Điều 1631 BLDS Hy Lạp)
- Người quản lý của những người có khiếm khuyến về năng lực có quyền đại
diện giống như người giám hộ của trẻ vị thành niên (Điều 424 BLDS Thụy Sỹ, Điều
1698 BLDS Hy Lạp).
Pháp luật về đại diện (Agency law) của hệ thống Common Law dựa trên một
câu châm ngôn La tinh: “Qui facit per alium, facit per se” nghĩa là hành động của
một người thông qua một chủ thể khác được pháp luật coi là hành động của chính
người đó [35, tr.288]. Hệ thống Luật đại diện của Common Law được xem như là
sự kết hợp giữa Luật Hợp đồng và Luật Tòa án. [73].
Theo Restatement of Agency (Second), phiên bản thứ hai của Restatements of
the Law, tại Section 1 đã đưa ra khái niệm của đại diện là “một mối quan hệ ủy thác,
kết quả từ sự biểu hiện sự đồng ý bằng một người tới người khác mà người đó sẽ
hành động thay mặt cho mình và chịu sự kiểm sốt của mình cũng như mình đã
đồng ý để anh ta thực hiện hành động đó [64, p.6]. Đại diện là mối quan hệ pháp lý,
theo đó một người gọi là người đại diện (Agent) được ủy quyền bởi một người khác,
gọi là người được đại diện (Pricipal) để hành động nhân danh cho người đó thực
hiện những cơng việc trong phạm vi pháp luật mà người được đại diện có thể làm.
Theo Dale Baze, đại diện là “một mối quan hệ đồng thuận được tạo ra bởi hợp
đồng hoặc pháp luật, trong đó một bên, được gọi là bên được đại diện (Principal)
cho phép một bên khác, gọi là bên đại diện (Agent), thay mặt và chịu sự kiểm soát
9
của bên được đại diện thực hiện các hoạt động với bên thứ ba (Third parties). Mối
quan hệ đại diện là sự ủy thác tự nhiên, và mọi hành động cũng như ngôn từ của
bên đại diện đối với bên thứ ba sẽ ràng buộc trách nhiệm với bên được đại diện.”
[68, p.2]. Như vậy, có thể thấy pháp luật về đại diện (Agency) của hệ thống
Common Law là tập hợp của các mối quan hệ ủy thác theo hơp đồng (contractual),
bán hợp đồng (quasi-contractual) và phi hợp đồng (non-contractual) với một bên
được gọi là người đại diện (Agent) – là người có quyền hành động nhân danh người
khác, chính là người được đại diện (Pricipal) để tạo ra các mối quan hệ pháp lý với
bên thứ ba (Third party).
Khác với hệ thống pháp luật Civil Law, hệ thống Common Law truyền thống
lại khơng có chung ý tưởng đồng nhất về chế định đại diện theo pháp luật giống
như của hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa. Sự khác biệt này xuất phát từ rất nhiều
nguyên nhân, một trong số đó có thể để cập đến là:
(1) Hệ thống Common Law khơng có chế định Patria potestas như trong
pháp luật La Mã – cơ sở để hình thành đại diện theo pháp luật đối với trẻ em và
những người thiếu năng lực pháp lý. Nhìn chung, ở hệ thống pháp luật Common
Law, cha mẹ không sở hữu những quyền vốn có đối với tài sản của con cái. Trừ
trường hợp họ là những người được chỉ định đặc biệt để bảo vệ hoặc quản lý, ngồi
ra họ khơng có nhiều quyền hơn một người lạ để thực hiện bất cứ điều gì đối với tài
sản của đứa trẻ. [82, at 101]. Chính vì vậy khơng có chế định đại diện theo pháp luật
của cha mẹ đối với con cái như ở hệ thống Civil law.
(2) Agency dựa trên ý chí của người được đại diện (Principal), ý chí này có
thể được thể hiện rõ ràng (Expressed) hoặc ngầm định (Implied), dựa trên có thực
(Actual) hoặc do sự thể hiện ra bên ngồi (Apparent), bởi sự phê chuẩn
(Ratification) hoặc khơng phủ nhận (Estoppel). Trong khi đó Legal Representation
lại hồn tồn độc lập với ý chí của người được đại diện (Represented).
(3) Trong mối quan hệ Agency, người được đại diện – Principal có khả năng
kiểm sốt được hoạt động của người đại diện – Agent. Trong khi đó thì trong Legal
10
Representation, người được đại diện – Represented thiếu khả năng để kiểm sốt
người đại diện – Representative (đó là lý do tại sao mà pháp luật cung cấp thêm các
phương tiện để hỗ trợ cho hoạt động kiểm soát này, ví dụ như sự giám sát của Tịa
án hoặc sự đồng thuận của Hội đồng gia đình. [86]
(4) Trong quá trình thực hiện các hành vi nhân danh người được đại diện,
người đại diện – Agent có thể mang lại các nghĩa vụ pháp lý cho người được đại
diện – Principal. Tuy nhiên, đối với đại diện theo pháp luật của Civil law, hầu như
không bao giờ đem lại nghĩa vụ phải bồi thường cho người được đại diện.
(5) Chế định đại điện theo pháp luật của Common Law – Agency by
Operation of Law được hình thành trong trường hợp cần thiết hoặc khẩn cấp [78].
Trong khi đó, cơ chế đại diện theo pháp luật của Civil Law – Legal Representation
được hình thành gần như tự động [82].
Tuy nhiên, có thể thấy rằng, các chế định Legal Representation hay Agency by
Operation of Law đều chủ yếu điều chỉnh đối với cá nhân chứ khơng có phải là
pháp nhân. Ngày nay, trên nền tảng tự do của ý chí, các luật gia đều thừa nhận rằng
một người có thể tự do bộc lộ ý chí hoặc có thể bộc lộ ý chí thơng qua người khác
[33, tr.27]. Ngồi ra, do sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường và các yêu
cầu trong đời sống, một người không những có thể đại diện cho cá nhân mà cịn có
thể đại diện cho các pháp nhân khác trong các giao dịch dân sự.
1.1.2
Đặc điểm
Ngoài những đặc điểm chung về đại diện như hành động nhân danh và vì lợi
ích của người được đại diện, mang lại nghĩa vụ pháp lý của người được đại diện với
bên thứ ba, đại diện theo pháp luật sẽ có thêm một số đặc điểm riêng biệt như sau:
Thứ nhất, quan hệ đại diện theo pháp luật được hình thành dựa trên những
quy định cụ thể của pháp luật hoặc quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền
11
Đặc điểm này là đặc trưng cơ bản nhất của đại diện theo pháp luật để phân biệt
với các loại hình đại diện khác được thiết lập trên cơ sở thông qua hành vi pháp lý
của các bên như đại diện thông qua hành vi pháp lý đơn phương hay hợp đồng ủy
quyền của các bên.
Thứ hai, quan hệ đại diện khơng xuất phát từ ý chí của người được đại diện
Với việc quan hệ được xác lập dựa trên quy định của pháp luật hoặc quyết
định cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các yếu tố khác liên quan như người sẽ thực
hiện cơng việc đại diện, hình thức của đại diện, phạm vi của đại diện đều do pháp
luật quy định, hồn tồn độc lập với ý chí của người được đại diện. Ví dụ như mối
quan hệ đại diện giữa cha, mẹ và con cái được xác lập gần như tự động kể từ khi có
sự xuất hiện của đứa con, mối quan hệ này được hình thành và thực hiện mà khơng
cần có sự tham gia từ ý chí của người con.
Thứ ba, người đại diện theo pháp luật phải là thể nhân và phải là người đã
thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
Để làm người đại diện theo pháp luật thì chủ thể nhận đại diện phải là thể nhân
và có đủ các năng lực theo quy định của luật pháp, theo đó mà người đại diện phải
là người đã thành niên cũng như có đủ các năng lực hành vi để thực hiện các quan
hệ pháp lý nhân danh cho người được đại diên.
Khác với đại diện theo pháp luật, trong mối quan hệ đại diện theo ủy quyền,
người nhận đại diện ngồi các thể nhân cịn có thể là các pháp nhân đứng ra để đại
diện cho quyền và lợi ích của người được đại diện. Ngồi ra, trừ những trường hợp
pháp luật dân sự quy định giao dịch phải do người đã thành niên có đủ các năng lực
hành vi xác lập thì người những người chưa đủ độ tuổi thành niên cũng có thể là
người đại diện theo ủy quyền cho người được đại diện.
Thứ tư, phạm vi đại diện của người đại diện rộng hơn
Trong đa số các trường hợp thì phạm vi đại diện của người đại diện theo pháp
luật sẽ rộng hơn phạm vi đại diện theo ủy quyền. Người đại diện theo pháp luật có
12
thể thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện được pháp
luật thừa nhận, khơng làm ảnh hưởng tới lợi ích của người được đại diện trừ trường
hợp pháp luật hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền có quy định khác. Cịn đối với
đại diện theo ủy quyền, phạm vi đại diện của người đại diện chỉ nằm trong khuôn
khổ đã được ủy quyền.
1.1.3 Trách nhiệm của các bên khi tham gia vào quan hệ đại diện
1.1.3.1Trách nhiệm của người đại diện với người được đại diện
Được coi như là nơi để đặt niềm tin và sự tin tưởng của người được đại
diện, người đại diện phải luôn luôn thực hiện các hành vi hướng đến việc mang
lại lợi ích tốt nhất cho người được đại diện. Quyền lợi của người đại diện phải
khơng được xung đột với người được đại diện. Tịa án cũng rất nghiêm ngặt đối
với những nghĩa vụ này của người đại diện và cho rằng lợi ích của người được
đại diện luôn phải được ưu tiên hơn.
Trên cơ sở đó, người đại diện phải thực hiện một số các nghĩa vụ sau để
đảm bảo lợi ích cho người được đại diện:
Thứ nhất, thực hiện công việc một cách chăm chỉ, cẩn trọng và khéo léo
(Agent’s duty to exercise reasonable diligence, care and skill)
Miễn là người đại diện thực hiện công việc một cách chăm chỉ và thận
trọng, hành động một cách hợp lý thì người đó sẽ khơng phải chịu trách nhiệm
ngay cả khi người đó có sơ suất và những nỗ lực của người đó khơng thành
cơng trong q trình thực hiện cơng việc cho người được đại diện.
Thứ hai, người đại diện phải trung thành với người được đại diện (Agent’s
duty of loyalty to principal)
Với tư cách là người nhận ủy thác trong mối quan hệ đại diện, người đại
diện phải thực hiện các hành vi vì lợi ích của người mà mình nhận đại diện.
Theo đó, người đại diện khơng được thực hiện hành động nhằm các mục đích
13
tư lợi cho bản thân hoặc cho một đối tượng khác khơng phải là người được đại
diện. Ngồi ra, để đảm bảo hành động theo lợi ích của người được đại diện,
người đại diện có trách nhiệm phải bảo mật những thơng tin bí mật của người
được đại diện (duty of confidentiality). [68, p.10]
Thứ ba, người đại diện có nghĩa vụ thông báo (Agent’s duty of notification)
Người đại diện phải truyền tải bất cứ thông tin hoặc thông báo nào liên
quan đến người được đại diện trong quá trình thực hiện các hành vi nhân danh
cho người đó [73]. Nếu không người đại diện sẽ phải chịu trách nhiệm đối với
những thiệt hại do hành vi sao nhãng của mình.
Thứ tư, người đại diện có trách nhiệm giải trình về tài sản (Agent’s duty of
accountability)
Người đại diện có trách nhiệm bảo đảm thanh tốn chính xác mọi giao
dịch mà người đại diện thực hiện nhân danh người được đại diện, phải giải
trình cho người được đại diện biết tất cả các khoản tiền mà họ đã nhận được
trong quá trình thực hiện việc đại diện [73]. Người đại diện phải tách riêng tài
khoản của mình và tài khoản của người được đại diện, không được kết hợp
giữa tiền của người được đại diện với tiền của bản thân. Trong trường hợp
người đại diện kết hợp cả tiền của chính cá nhân mình với tiền của người được
đại diện thì luật pháp sẽ giả định rằng tồn bộ khoản tiền đó thuộc về người
được đại diện. [68, p.10]
1.1.3.2Trách nhiệm của người được đại diện với bên thứ ba
Khi người đại diện tiến hành các giao dịch nhân danh người được đại diện
với bên thứ ba, giao dịch này sẽ phát sinh ràng buộc trách nhiệm giữa người
được đại diện và bên thứ ba với những điều khoản như trong hợp đồng giao
dịch được tạo ra thông qua người đại diện. Người được đại diện có nghĩa vụ
phải thực hiện theo đúng hợp đồng đó, nếu khơng bên thứ ba có quyền nại ra
và xử lý đối với hành vi vi phạm hợp đồng.
14
Người được đại diện cũng bị ràng buộc với bên thứ ba kể cả đối với
trường hợp người thực hiện giao dịch với bên thứ ba không phải là người đại
diện cho họ nhưng người được đại diện lại khiến cho bên thứ ba lầm tưởng
rằng có mối quan hệ đại diện ở đó.
1.1.3.3Trách nhiệm của người đại diện với bên thứ ba
Trong khi phải thực hiện các hoạt động đại diện trên cơ sở trung thành
với người được đại diện, người đại diện cũng phải thể hiện sự công bằng
(fairness) và trung thực (honest) cũng như là một đối tác đáng tin cậy (good
faith) đối với bên thứ ba.
Nếu người đại diện xác lập giao dịch với bên thứ ba ngoài phạm vi ủy thác
của đại diện, người đại diện phải thực hiện nghĩa vụ đối với phần giao dịch
vượt q phạm vi đại diện đó.
Ngồi ra, đối với trường hợp gây thiệt hại cho bên thứ ba, người đại diện
có thể phải chịu trách nhiệm đối với bên thứ ba cả khi hành động đó xuất phát
từ việc có hoặc khơng có sự cho phép từ phía người được đại diện.
1.1.3.4 Sự liên hệ giữa các mối quan hệ trong đại diện
Xem xét mối quan hệ giữa người đại diện và người được đại diện là mối
quan hệ bên trong. Theo đó, quan hệ này có thể hình thành từ quy định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, theo quy định của pháp luật hoặc từ ý chí của
các bên xác lập nên. Chẳng hạn như quy định mọi giao dịch dân sự của người
chưa đủ 6 tuổi đều phải do người đại diện theo pháp luật xác lập thực hiện hoặc
Tòa án chỉ định đối với người giám hộ đối với người được giám hộ khi người
được giám hộ khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Mối quan hệ giữa người đại diện với bên thứ ba là mối quan hệ bên ngoài,
chẳng hạn như người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ký các hợp
đồng mua bán với các đối tác.
15
Tuy phân chia theo hai trường hợp trên nhưng bản chất vẫn là người đại
diện theo pháp luật đại diện cho người được đại diện thể hiện ý chí với bên thứ
ba. Hai mối quan hệ luôn cùng tồn tại song song và bổ trợ lẫn nhau, quan hệ
bên trong là tiền đề, là cơ sở cho sự xuất hiện và tồn tại của quan hệ bên ngoài.
Quan hệ bên ngồi thực hiện vì quan hệ bên trong, vì vậy các quyền và nghĩa vụ
do người đại diện thực hiện thực hiện trong phạm vi thẩm quyền đại diện với
bên thứ ba đều thuộc về người được đại diện. Người đại diện có thể được
hưởng những lợi ích nhất định từ người được đại diện do thực hiện hành vi đại
diện với bên thứ ba.
1.1.4 Phân loại đại diện
Hệ thống các nước Civil Law ngoài chế định đại diện theo pháp luật đối
với trẻ em và người có khiếm khuyết trong năng lực thực hiện các hoạt động pháp
lý thì cịn xây dựng thiết chế đại diện thơng qua các hành vi pháp lý (Judical act)
như hành vi pháp lý đơn phương được thể hiện qua chế định Procuration, là sản
phầm ý chí của một bên và chế định Mandate, dựa trên chủ yếu là các hành vi pháp
lý song phương, hay chính là hợp đồng giữa các bên [86]. Chế định Mandate - ủy
nhiệm này được xem là có khá nhiều điểm tương đồng với pháp luật về Agency của
hệ thống Common Law. Đại diện theo pháp luật của hệ thống này hầu như chỉ áp
dụng đối với các đối tượng là cá nhân và được phân loại thành đại diện của Cha mẹ
với con (Parents - Child); Người giám hộ đối với trẻ vị thành niên (Tutors Minors) và Người quản lý đối với những người có khiếm khuyết về năng lực hành
vi (Curators - Incapable person).
Các nước Common Law với chế định Agency đặc trưng cũng xây dựng cho
mình một thiết chế đầy đủ các phương thức để hình thành nên mối quan hệ đại diện
[78]. Có thể kể đến như:
(1) Đại diện bằng sự thỏa thuận của các bên (Agreement of the Parties), sự
thỏa thuận này có thể bằng miệng hoặc bằng văn bản;
16
(2) Đại diện thông qua sự phê chuẩn của người được đại diện (Ratification by
the Principal), việc phê chuẩn này có thể được thể hiện rõ ràng (Express
Ratification) hoặc cũng có thể ngầm định (Implied Ratification);
(3) Đại diện thơng qua sự ngầm định (Implied Authority). Loại hình đại diện
này chủ yếu dựa trên mối quan hệ hoặc sự tin tưởng của các bên với nhau, do vậy
nó thường khơng được thể hiện dưới bất kỳ hình thức văn bản hoặc ngơn từ nào.
Loại hình đại diện này có thể được thể hiện dưới 3 dạng thức: (i) Đại diện bởi sự
cần thiết (Agency by Necessity); (ii) Đại diện bằng việc không phủ nhận của người
được đại diện (Agency by Estoppel); (iii) Đại diện bằng việc người được đại diện đã
khiến cho người đại diện tin rằng họ thực hiện một hành động tương tự trước đó đã
thực hiện là nhân danh người được đại diện và trong thẩm quyền của họ nhưng trên
thực tế thì khơng (Agency by Holding out);
(4) Đại diện theo pháp luật (Agency by Operation of law), việc đại diện đến từ
những quy định của pháp luật. Chế định này một số nước cịn khơng quy định và
xếp nó vào việc đại diện thơng qua ngầm định (Implied), thông qua sự không phủ
nhận của người được đại diện (Estoppel).
Pháp luật nhiều nước theo hệ thống Civil law cũng có những quy định tương
tự về các loại quan hệ đại diện do thoả thuận ngầm định, quan hệ đại diện hiển
nhiên và tương ứng là thẩm quyền đại diện do thoả thuận ngầm định, thẩm quyền
đại diện hiển nhiên. Ví dụ như pháp luật thương mại Đức quy định, ngay cả khi
trong trường hợp một người đại diện chỉ có thẩm quyền tìm kiếm khách hàng,
khơng có thẩm quyền xác lập giao dịch nhưng đã xác lập nhân danh người được đại
diện, người thứ ba không biết người đại diện khơng có thẩm quyền xác lập giao
dịch, thì giao dịch đó có hiệu lực ràng buộc người được đại diện nếu người được đại
diện không phản đối trong một thời hạn hợp lý dựa trên thông báo của người đại
diện thương mại hoặc của người thứ ba về việc giao kết hợp đồng và các điều khoản
vật chất của nó [23, tr.49]. Hoặc theo Điều 1984 BLDS Pháp thì ủy nhiệm là hợp
đồng mà một người cho một người khác quyền làm một việc cho mình và nhân
17
danh mình. Và về ngun tắc, thì khơng có điều kiện về hình thức nào mà chỉ cần
có sự trao đổi những điều thỏa thuận trong hợp đồng và có thể chứng minh hợp
đồng ủy nhiệm bằng mọi phương tiện. Việc ủy nhiệm bằng văn bản hoặc ủy nhiệm
miệng và cũng có thể ủy nhiệm ngầm [48, tr.20].
Khác với pháp luật trên thế giới, pháp luật Việt Nam phân chia đại diện theo
pháp luật thành hai loại là đại diện theo pháp luật của cá nhân và đại diện theo pháp
luật của pháp nhân.
1.2
Đại diện theo pháp luật của pháp nhân
1.2.1 Đặc tính của pháp nhân phát sinh địi hỏi về đại diện
Sự ra đời của pháp nhân đã đánh dấu một bước ngoặt mạnh mẽ trong quan hệ
pháp luật dân sự. Pháp nhân - một thực thể pháp lý độc lập, tuy nhiên tự bản thân nó
khơng thể hành động cho chính mình mà chỉ có thể hành động thông qua những con
người cụ thể - những người quản lý [39, tr.19-20].
Lấy một ví dụ đơn giản, chúng ta có thể nói Vingroup đang xây dựng đế chế
xe hơi của người Việt, nhưng chúng ta không thể “bắt tay” với Vingroup theo đúng
nghĩa đen. Vingroup, thực chất cũng chỉ tồn tại và làm việc thông qua những người
đại diện. Tương tự như vậy các tổ chức thương mại khác cũng dựa trên cơ sở đại
diện để tiến hành các hoạt động kinh doanh của họ. Do vậy, mỗi pháp nhân đều cần
có một người đại diện trong các giao dịch để xác lập và thực hiện các quyền, nghĩa
vụ của mình [33, tr. 28].
Pháp nhân tham gia các quan hệ dân sự với tư cách là một chủ thể độc lập như
những con người (là một chủ thể hư cấu bởi pháp luật). Để trở thành một chủ thể
pháp luật độc lập, chủ thể đó phải có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự - là khả năng
có các quyền và nghĩa vụ cũng như năng lực hành vi – khả năng bằng hành vi của
mình xác lập thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó. Năng lực pháp luật của pháp nhân
thì phát sinh từ thời điểm pháp nhân được khai sinh về mặt pháp lý. Thế nhưng,
khác với cá nhân, với khả năng tự hành động, có năng lực hành vi để thực hiện các
18
quyền và nghĩa vụ được quy định đó thì pháp nhân sẽ khơng có năng lực hành vi
nếu như khơng được thực hiện thông qua người đại diện cho pháp nhân. Năng lực
hành vi của pháp nhân chỉ có thể được biểu hiện bằng những hành vi của những con
người cụ thể. Chế định đại diện cho pháp nhân là cơ sở để cá thể hoá trách nhiệm,
trách nhiệm nào là của pháp nhân và trách nhiệm nào thuộc về người đại diện pháp
nhân. Người đại diện cho pháp nhân được quyền nhân danh pháp nhân, đại diện cho
ý chí của pháp nhân trong việc thiết lập các quan hệ tài sản [39, tr.19-20]. Người đại
diện cho pháp nhân chỉ thực hiện những hành vi về mặt thực tế để đại diện cho pháp
nhân trong việc thiết lập, thực hiện các quan hệ tài sản với các chủ thể khác. Và do
đó, một giao dịch của pháp nhân phải được hiểu rằng đó là sự thiết lập một cách độc
lập với pháp nhân chứ không phải với người đại diện cho pháp nhân. Hệ quả của nó
là việc gánh vác các nghĩa vụ về tài sản luôn thuộc về pháp nhân, không được đặt ra
với người đại diện pháp nhân.
Trong khuôn khổ của luận văn, học viên sẽ tập trung đi sâu vào nghiên cứu đại
diện theo pháp luật của các pháp nhân tham gia trong lĩnh vực thương mại (các
pháp nhân có tiến hành hoạt động kinh doanh). Các pháp nhân này có thể là các
pháp nhân thương mại (vì mục tiêu lợi nhuận) hoặc cũng có thể là các pháp nhân
phi thương mại (khơng vì mục tiêu lợi nhuận – như Doanh nghiệp xã hội), tuy nhiên
chúng được tổ chức theo những mơ hình được quy định tại LDN. Chính vì vậy,
trong phạm vi của Luận văn, thuật ngữ “Công ty” được học viên đề cập đến với nội
hàm bao gồm các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân được tổ chức dưới các hình
thức theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 bao gồm Công ty TNHH,
CTCP và Công ty hợp danh.
1.2.2
Đại diện theo pháp luật của công ty
1.2.2.1 Mối quan hệ giữa đại diện theo pháp luật của công ty và quản trị công
ty
Đại diện của công ty bao gồm 2 loại: đại diện thương mại độc lập và đại diện
thương mại nội bộ (hay đại diện thương mại phụ thuộc).
19