ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT
A. Đặt vấn đề.
Tình huống :
Năm 2002 A được thừa kế một khối tài sản là một căn nhà trị giá 2 tỷ từ ông
ngoại, khi đó A mới 10 tuổi. Năm 2006 để thuận lợi cho việc học tập của A gia
đình A đã quyết định ra nước ngoài định cư. Do căn nhà sẽ không có ai coi sóc và
để có thêm một khoản chi phí cho việc học tập của mình nên A muốn bán căn nhà.
Nhưng theo pháp luật Việt Nam A chưa thành niên nên chưa thể thực hiện giao
dịch bán nhà.
Vậy phải làm thế nào???
Để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của những người không thể tự tham gia vào
các quan hệ dân sự. Trong Bộ Luật Dân Sự tại chương VII đã xây dựng chế định
Đại Diện, thông qua người đại diện các chủ thể có thể thực hiện quyền và nghĩa vụ
của mình trong trường hợp gặp những hạn chế về mặt pháp lý,về bản thân hoặc
những hoàn cảnh nào đó.
B.Giải quyết vấn đề:
I. ĐẠI DIỆN:
1. Khái niệm:
Theo khoản 1 Điều 139 BLDS 2005: Đại diện là việc 1 người( gọi là người
đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác ( gọi là người được đại diện)
xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi thẩm quyền đại diện.
Tức là, người đại diện nhân danh người được đại diện tiến hành xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự với người thứ ba để làm phát sinh thay đổi hoặc châm
dứt quyền và nghĩa vụ của người được đại diện, chứ không phải của người đại
diện.
Theo khoản 2 điều 139 BLDS2005: Cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác có
thể xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thông qua người đại diện.
1
Ví dụ: Trong doanh nghiệp nhà nước Tổng giám đốc là người đại diện pháp
nhân của doanh nghiệp thực hiện việc ký kết hợp đồng giao dịch,buôn bán với các
doanh nghiệp khác.
2.Chủ thể quan hệ đại diện:
- Người được đại diện: có thể là cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình hoặc tổ hợp
tác. Người được đại diện là cá nhân có thể có năng lực hành vi dân sự hoặc không
có năng lực hành vi dân sự.
- Người đại diện là cá nhân có đủ năng lực hành vi dân sự trừ trường hợp
khoản 2 điều 143 BLDS: Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám
tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật quy
định giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên xác lập.
+ Người đại diện của cá nhân là bất kỳ người nào có năng lực hành vi
dân sự mà không phụ thuộc vào các quan hệ họ hàng hay không với người được
đại diện. Đối với pháp nhân, hộ gia đình và tổ hợp tác, người đại diện có thể là
thành viên hoặc người không phải là thành viên của tổ chức đó. Nhưng trong
trường hợp đại diện theo pháp luật thì người đại diện chủ yếu là thành viên của tổ
chức đó.
+ Người đại diện có thể được trả tiền công về việc làm đại diện nếu
giữa người đại diện và người được đại diện có thỏa thuận.
3.Đặc điểm của quan hệ đại diện:
a) Đại diện có hai mối quan hệ pháp luật khác nhau là quan hệ bên trong và quan
hệ bên ngoài:
-Quan hệ bên trong: là quan hệ được hình thành giữa người đại diện và
người được đại diện.
Ví dụ: A đại diện cho B mua một ngôi nhà của công ty C thì giữa A và B hình
thành quan hệ đại diện bên trong.
-Quan hệ bên ngoài là quan hệ giữa người đại diện và người thứ ba. Người
thứ ba phải biết được người đại diện đại diện cho ai nhưng không cần biết hoặc
không buộc phải biết phạm vi đại diện của người đại diện là gì.
Quan hệ bên trong là tiền đề, là cơ sở cho sự xuất hiện và tồn tại của quan hệ
bên ngoài, quan hệ bên ngoài thực hiện vì quan hệ bên trong , vì vậy các quyền và
2
nghĩa vụ do người đại diện thực hiện trong phạm vi thẩm quyền đại diện với người
thứ ba đều thuộc về người được đại diện.
b) Trong quan hệ dân sự người đại diện nhân danh người được đại diện để xác lập
và thực hiện giao dịch dân sự với người thứ ba.
c) Người đại diện tuy nhân danh cho người được đại diện nhưng lại thể hiện ý chí
của mình với người thứ ba trong giao dịch xác lập, thực hiện giao dịch dân sự:
Ví dụ: Mẹ đại diện cho con (12 tuổi) tham gia vào giao dịch bồi thường thiệt hại
và thể hiện ý chí của mình là đứng ra gánh chịu những tổn thất do con gây ra.
d) Trong quan hệ đại diện, người được đại diện trực tiếp thu nhận mọi kết quả
pháp lý do hoạt động của người đại diện thực hiện trong phạm vi thẩm quyền đại
diện đem lại.Tức là quan hệ pháp luật dân sự phát sinh giữa người được đại diện
với người thứ ba chứ không phải giữa người đại diện với người thứ ba.( theo khoản
4 điều 139 BLDS)
Ví dụ: Công ty A kí kết hợp đồng âm nhạc với B(12 tuổi) khi đó bố hoặc mẹ B sẽ là
người đại diện của B tham gia kí kết hợp đồng, từ bản hợp đồng đã kí B có quyền
được nhận tiền thù lao và có nghĩa vụ thực hiện đúng hợp đồng đã ký.
4. Ý nghĩa: Đại diện là một hình thức pháp lý thể hiện trách nhiệm của công dân
nhằm bảo vệ quyền,lợi ích,thể hiện trách nhiệm của những người khỏe mạnh với
những người đau yếu người lớn với trẻ nhỏ qua đó thể hiện tinh thần tương thân
tương ái,gắn kết tương trợ lẫn nhau trong cộng đồng bảo đảm ổn định trật tự xã
hội(phần giám hộ).
Trong quan hệ đại diện có xác định giới hạn thẩm quyền đại diện.
Mục đích của xác lập quan hệ đại diện là:thực hiện các giao dịch dân
sự,đem lại quyền và nghĩa vụ cho người được đai diện.
5. Phân loại đại diện:
- Đại diện theo pháp luật.
- Đại diện tho ủy quyền.
Tuy nhiên trong phạm vi bài này chỉ xin đề cập đến đại diện theo pháp luật.
II. ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT:
3
1.Khái niệm:
Theo Điều 140 BLDS quy định: Đại diện theo pháp luật là đại diện do
pháp luật quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định.
2.Chủ thể của quan hệ đại diện theo pháp luật:
2.1, Cha, mẹ đối với con chưa thành niên
Đối với con chưa thành niên ( chưa đủ 18 tuổi) thì cha mẹ là người đại diện theo
pháp luật
Người đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi khi xác lập thực hiện giao dịch dân
sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu
cầu sinh hoạt phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy định khác. .(khoản 1 điều
20 của bộ luật dân sự 2005)
Những giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt phù hợp với lứa tuổi có đặc
điểm sau :
- Có giá trị nhỏ
- Thực hiện tức thời, trao tay, chủ yếu là hợp đồng mua bán trao đổi tuy nhiên
cũng không loại trừ trường hợp thời gian thực hiện hợp đồng kéo dài, chẳng
hạn hợp đồng dịch vụ may đo quần áo,
- Mục đích của giao dịch là phục vụ nhu cầu sinh hoạt học tập hàng ngày
- Tính phức tạp của giao dịch được xác lập theo lứa tuổi, người chưa thành niên
có độ tuổi càng lớn được phép thực hiện các giao dịch dân sự càng phức tạp,
giá trị càng lớn.
Trừ những giao dịch có tính chất nêu trên, các giao dịch khác của người từ đủ
sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi thực hiện chỉ có hiệu lực nếu cha mẹ hoặc
người giám hộ đồng ý.
Khoản 2 điều 20 quy định : “Trong trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến
chưa đủ mười tám tuổi có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự
mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà không cần phải có sự đồng ý của
4
người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Quy
định này chủ yếu xuất phát từ thực tế người đủ từ mười lăm tuổi có quyền giao kết
hợp đồng và có thu nhập riêng hợp pháp, tạo điều kiện cho họ trở thành chủ thể
độc lập trong đời sống kinh tế - xã hội. Nhưng có những loại hợp đồng mà pháp
luật quy định chỉ người thành niên, đủ năng lực hành vi dân sự mới được thực hiện
( không thể đứng ra thành lập doanh nghiệp điểm d khoản 2 Luật doanh nghiệp
2005, trong giao dịch về mua bán nhà ở nếu là cá nhân thì cá nhân đó phải là người
có năng lực hành vi dân sự- điều 92 Luật nhà ở năm 2005, )
Ví dụ: M 13 tuổi, chưa đủ tuổi thành niên, thì cha mẹ em chính là người đại diện
theo pháp luật của em.
2.2, Giám hộ : sẽ được làm sâu ở phần sau
2.3, Người được tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự
Theo khoản 1 điều 23 BLDS 2005,người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự là :
Người nghiện ma tuý, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản
của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ
chức hữu quan, Toà án có thể ra quyết định tuyên bố là người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự.
Khi đã bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì những người này rất cần có người
đại diện – một người hỗ trợ năng lực chủ thể quan hệ pháp luật dân sự để thực hiện
đầy đủ quyền và nghĩa vụ dân sự.
Theo khoản 2 cùng điều 23: Người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện do Toà án quyết định. Giao dịch dân
sự liên quan đến tài sản của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự
đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh
hoạt hàng ngày.
Như vậy người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự không hoàn toàn mất năng
lực hành vi dân sự. Các giao dịch khác đều chỉ có thể được xác lập và thực hiện
với sự đồng ý của người đại diện (Ðiều 25 khoản 2). Người đại diện theo pháp luật
cho người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự không thể tự mình xác lập giao dịch
dân sự thay cho người bị hạn chế năng lực hành vi, họ chỉ có quyền “đồng ý” hay
“không đồng ý” đối với giao dịch mà người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác
lập. Dẫu sao, có thể tin rằng khác với người chưa thành niên, người bị hạn chế
5
năng lực hành vi dân sự có thể lập di chúc mà không cần có sự đồng ý của người
đại diện: chỉ cần người bị hạn chế năng lực hành vi sáng suốt, minh mẫn, tự
nguyện trong lúc lập di chúc, thì di chúc, một khi thoả mãn các điều kiện theo luật
chung, sẽ có giá trị. Người bị hạn chế năng lực hành vi cũng có thể kết hôn mà
không cần sự đồng ý của người đại diện.
Phạm vi đại diện cho người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự do Toà án quyết
định phụ thuộc vào mức độ nghiện các chất ma túy và nghiện các chất kích thích
khác, tình trạng tài sản và cả đề nghị của người yêu cầu hạn chế năng lực hành vi
dân sự. Kết hợp các quy định liên quan, ta kết luận rằng các giao dịch mà người bị
hạn chế năng lực hành vi được phép xác lập, tự mình hoặc có sự đồng ý của người
đại diện, bao gồm: các giao dịch nhỏ, các giao dịch mà đương sự không thể giao
cho người khác thực hiện, dù không bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, và các
giao dịch mà người đại diện được phép thực hiện dưới danh nghĩa của đương sự
trong phạm vi đại diện do Toà án xác định Không như người giám hộ, người đại
diện cho người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự không chịu sự giám sát của
UBND địa phương nơi cư trú trong quá trình thực hiện việc đại diện. Người được
đại diện, về phần mình, có nơi cư trú của mình chứ không được coi như có nơi cư
trú tại nơi cư trú của người đại diện, như người giám hộ. Tất cả những điều này có
thể được lý giải bởi việc người bị hạn chế năng lực hành vi không mất khả năng
nhận thức và không bị mất quyền năng tự mình xác lập giao dịch như người mất
năng lực hành vi.
2.4, Người đứng đầu pháp nhân theo quy định của điều lệ pháp nhân hoặc
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
Đại diện của pháp nhân: Người nhân danh một pháp nhân để tham gia quan hệ dân
sự vì lợi ích của pháp nhân đó.
Mọi hoạt động của pháp nhân được thực hiện thông qua hành vi của người đại diện
của pháp nhân.
Đối với các pháp nhân, thì người đại diện theo pháp luật có thẩm quyền đại
diện cho pháp nhân tham gia giao dịch dân sự theo quy định tại khoản 3, Điều
86 về “Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân”, Bộ luật Dân sự năm 2005:
“Người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo uỷ quyền của pháp
nhân nhân danh pháp nhân trong quan hệ dân sự.”
Người đại diện của pháp nhân thay mặt pháp nhân tiến hành các hoạt động
trong khuôn khổ pháp luật và điều lệ pháp nhân quy định.Khi phải tham gia
6
quan hệ với người thứ 3, họ chỉ cần phải xuất trình giấy tờ chứng nhận chức vụ,
nhân thân mà không cần phải có giấy ủy quyền.
Hành vi của những người đại diện của pháp nhân là hành vi thực hiện pháp
luật dân sự của pháp nhân, tạo ra quyền và nghĩa vụ dân sự cho pháp nhân chứ
không phải cho người thực hiện hành vi đó. Người đại diện theo pháp luật là đại
diện đương nhiên thường xuyên của pháp nhân trong các quan hệ giữa pháp
nhân đó với người thứ 3.
Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân nói chung phải là người có năng
lực hành vi dân sự đầy đủ. Bên cạnh đó, đối với từng loại pháp nhân cụ thể,
người đại diện theo pháp luật của pháp nhân khác nhau, họ phải thỏa mãn
những điều kiện nhất định khác do pháp luật về tổ chức và hoạt động của pháp
nhân đó quy định.
Pháp nhân là cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang.( Điều 84 BLDS 2005).
Theo khoản 1 điều 101 BLDS 2005 , 2 đặc điểm cơ bản của pháp nhân là
cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân là:
Được nhà nước giao tài sản để thực hiện chức năng của mình.
Hoạt động không nhằm mục đích kinh doanh.
Bao gồm: cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp như trường học (được
nhà nước cấp kinh phí hoạt động và hoạt động không nhằm mục đích
kinh doanh), bệnh viện…đơn vị quân đội, đơn vị công an.
Cơ quan hành chính Nhà nước có thẩm quyền chuyên môn, cơ quan kiểm
sát và cơ quan xét xử, cũng như đơn vị vũ trang được tổ chức và điều
hành theo chế độ thủ trưởng: người đứng đầu cơ quan là người duy nhất
được thay mặt cơ quan để xác lập và thực hiện các giao dịch với người
thứ ba.
Các cơ quan này được đại diện bởi người đứng đầu gọi là Chủ tịch.
Riêng Thủ tướng chính phủ và Chủ tịch nước là cơ quan đặc biệt: bản
thân cơ quan Chủ tịch nước, Thủ tướng chính phủ và cá nhân Chủ tịch
nước, Thủ tướng chính phủ hoàn toàn đồng nhất.
Pháp nhân là các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội.
Là các tổ chức xã hội được thành lập nhằm thực hiện mục tiêu chính trị,
xã hội xác định trong điều lệ của tổ chức.
7
Gồm: đảng cộng sản Việt Nam, mặt trận tổ quốc Việt Nam, các tổ chức
thành viên của mặt trận tổ quốc Việt Nam, công đoàn, Đoàn thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam…
Đảng: Đảng cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân
chủ. Cơ quan quyền lực cao nhất là Đại hội toàn quốc 5 năm một lần. Đại
hội bầu ra Ban chấp hành Trung ương. Ban chấp hành Trung ương bầu ra
Bộ chính trị và Tổng Bí thư.
Chủ tịch là “người đứng đầu” UBMTTQ và trưởng các đoàn thể chính trị
- xã hội cũng với tư cách là người thay mặt tổ chức đó thực hiện mối
quan hệ với cấp ủy trong vai trò là bí thư đảng đoàn, ban cán sự đảng
hoặc bí thư cấp ủy trực thuộc (nơi không thành lập ban cán sự đảng, đảng
đoàn). Thủ trưởng của cơ quan sở, ban, ngành, các cơ quan, đơn vị, kể cả
các cơ quan tham mưu, các đơn vị sự nghiệp trực thuộc cấp ủy đảng (nơi
thực hiện chế độ thủ trưởng), không “đại diện”, “thay mặt” cho cơ quan,
tổ chức nên trong mối quan hệ với cấp ủy là tư cách cấp ủy viên hoặc chỉ
là đảng viên.
Pháp nhân là tổ chức kinh tế.
Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là người đứng đầu doanh
nghiệp, được doanh nghiệp uỷ quyền, thay mặt doanh nghiệp thực hiện các
giao dịch vì lợi ích của doanh nghiệp, với đối tác, khác hàng và với cơ quan
Nhà nước. Quyền, nghĩa vụ và chức danh của người đại diện theo pháp luật
của doanh nghiệp được quy định trong điều lệ doanh nghiệp, các giấy tờ
giao dịch phải ghi rõ điều đó.
Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải cư trú ở Việt Nam; trường
hợp vắng mặt ở Việt Nam trên 30 ngày thì phải ủy quyền bằng văn bản cho
người khác để thực hiện quyền và nhiệm vụ của người đại diện theo pháp luật
của doanh nghiệp.
Stt Loại
hìnhdoanh
nghiệp
Chức danh người đại
diện theo pháp luật
Ghi chú
1 Doanh
nghiệp tư
nhân
Chủ doanh nghiệp Chủ doanh nghiệp có thể thuê người khác
làm giám đốc nhưng người đại diện theo PL
thì luôn luôn là Chủ doanh nghiệp
8
2 Công ty
hợp danh
Thành viên hợp danh Trong điều hành hoạt động kinh doanh của
công ty, thành viên hợp danh phân công
nhau đảm nhiệm các chức danh quản lý và
kiểm soát công ty. Khi một số hoặc tất cả
thành viên hợp danh cùng thực hiện một số
công việc kinh doanh thì quyết định được
thông qua theo nguyên tắc đa số.
3
Công ty
TNHH một
thành viên
(Có thể là
một trong 2
trường hợp
như cột bên
cạnh diễn
giải)
*
Chủ tịch HĐTV (nếu
mô hình tổ chức công
ty là HĐTV, Giám đốc
(Tổng Giám đốc) và
Kiểm soát viên)
Giám đốc (Tổng GĐ) có thể chính là chủ sở
hữu (trường hợp công ty TNHH 1 TV chủ
sở hữu là cá nhân), cũng có thể là người
được chủ sở hữu thuê làm Giám đốc, Người
đại diện theo Pháp luật
Chủ tịch Công ty nếu
mô hình công ty là Chủ
tịch Công ty, Giám đốc
(Tổng GĐ) và kiểm
soát viên
Giám đốc (Tổng
GĐ),áp dụng được với
cả hai mô hình trên
4 Công ty
TNHH có 2
TV trở lên
Chủ tịch HĐTV 1. Chủ tịch HĐTV đương nhiên phải là
thành viên công ty.
2. Giám đốc (Tổng GĐ) có thể là thành viên
công ty, cũng có thể là người được HĐTV
thuê làm Giám đốc, Người đại diện theo
Pháp luật
9
Giám đốc (Tổng GĐ)
5 Công ty cổ
phần
Chủ tịch HĐQT 1. Chủ tịch HĐQT, Giám đốc (Tổng GĐ) có
thể là cổ đông công ty, cũng có thể là người
được ĐHĐCĐ hoặc HĐQT thuê làm Chủ
tịch HĐQT, Giám đốc, Người đại diện theo
Pháp luật
2. Giám đốc, Tổng Giám đốc công ty cổ
phần không được đồng thời làm Giám đốc,
Tổng Giám đốc công ty khác
Giám đốc (Tổng GĐ)
Pháp nhân là tổ chức xã hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp.
Gồm: Hội Đông Y, Hội Điện Ảnh, Hội Kiến trúc sư, Hội Liên hiệp văn
học nghệ thuật, Hội Luật gia, Hội Mỹ thuật, Hội Nhà báo, Hội Nhà
văn, Hội Nhiếp ảnh, Hội Sân khấu, Hội Y, dược học, Liên hiệp các hội
khoa học và kỹ thuật, Hội Doanh nghiệp trẻ, Hội Doanh nghiệp nhỏ và
vừa
Đại diện là người đứng đầu tổ chức xã hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp.
Pháp nhân là quỹ xã hội, qũy từ thiện
Gồm: Quỹ Bảo trợ nạn nhân chất độc da cam, Quỹ Khám chữa bệnh cho
người nghèo, Quỹ Đền ơn đáp nghĩa, Quỹ Bảo trợ trẻ em, Quỹ Tài trợ
sáng tạo văn học - nghệ thuật.
Đại diện là người đứng đầu quỹ xã hội, qũy từ thiện: chủ tịch quỹ do hội
đồng chủ tịch bầu ra.
2.5. Chủ hộ gia đình đối với hộ gia đình
10
Chủ hộ có thể là cha, mẹ hoặc một thành viên trong gia đình đã đủ tuổi thành
niên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Đối với hộ gia đình thì chủ hộ gia đình là
người đại diện theo pháp luật . Luật không quy định cụ thể cách xác định chủ hộ
gia đình vậy các thành viên trong gia đình có thể cùng nhau thỏa thuận để xác định
chủ hộ. Chủ hộ gia đình với tư cách là chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự
không phải là hộ gia đình theo quy định về đăng ký hộ khẩu , nên không nhất thiết
chủ hộ là đại diện cho hộ gia đình trong các giao dịch dân sự là chủ hộ trong sổ hộ
khẩu ( vì chưa chắc chủ hộ trong sổ hộ khẩu đã cùng đóng góp tài sản và đóng góp
công sức để hoạt động kinh tế chung với các thành viên khác trong gia đình)
Ví dụ: Gia đình ông Trần Danh cùng đóng góp tài sản và công sức để sản xuất và
kinh doanh mặt hàng mây tre đan. Với tư cách là chủ hộ của gia đình ông Trần
Danh là đại diện theo pháp luật của hộ gia đình này để tham gia các giao dịch dân
sự: kí kết hợp đồng, mua bán với các khác hàng,
2.6. Tổ trưởng tổ hợp tác đối với tổ hợp tác;
Tổ trưởng tổ hợp tác là người đại diện theo pháp luật đối với tổ hợp tác. Tổ
trưởng tổ hợp tác do các tổ viên thỏa thuận cử ra và được ghi nhận trong hợp đồng
hợp tác. Việc thay thế tổ trưởng tổ hợp tác có nghĩa là thay thế người đại diện của
tổ hợp tác. Trong trường hợp này, việc thay đổi tổ trưởng phải được ghi nhận bằng
biên bản họp tổ và phải thông báo bằng văn bản cho ủy ban nhân dân cấp xã,
phường, thị trấn chứng thực hợp đồng hợp tác.
Khoản 1 điều 13 nghị định 151/2007/NĐ-CP quy định: Tổ hợp tác phải chịu
trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác
lập, thực hiện nhân danh tổ hợp tác.
VD: Ông Lê Văn Son và mười người khác cùng nhau góp vốn xây dựng một tổ
hợp tác kinh doanh mặt hàng đồ gỗ. với tư cách là tổ trưởng của tổ hợp tác, ông
Son là người đại diện theo pháp luật đối với tổ hợp tác tham gia các giao dịch dân
sự : kí kết hợp đồng, hoạt động mua bán với khách hàng,
2.7. Những người khác theo quy định của pháp luật.
Khoản 2 điều 24 Luật Hôn nhân và gia đình 2000 quy định: Vợ, chồng đại diện
cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều kiện làm
người giám hộ hoặc khi một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà bên kia
được Toà án chỉ định làm người đại diện theo pháp luật cho người đó.
11
VD: anh Bách và chị Mai lấy nhau từ năm 2006, đến năm 2008 thì anh Bách bị tai
nạn giao thông dẫn đến tổn thương nghiêm trọng ở vùng đầu khiến anh phải nhập
viện điều trị bệnh tâm thần. Tòa án tuyên bố anh Bách mất năng lực hành vi dân sự
và chị Mai – vợ của anh Bách là đại diện theo pháp luật của chồng mình.
3. Đặc điểm đặc trưng của đại diện theo pháp luật:
Đặc điểm đặc trưng để phân biệt đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy
quyền chính là mức độ thể hiện ý chí của người được đại diện trong các mối
quan hệ đó.
Nếu như trong đại diện theo ủy quyền, người được đại diện đóng vai trò chủ động,
thể hiện rõ ràng ý chí, vai trò quyết định của mình từ việc chọn lựa người đại diện
cho mình khi thấy cần thiết đến việc có thể đơn phương hủy bỏ việc ủy quyền thì
với đại diện theo pháp luật lại có những khác biệt sau:
Người được đại diện đóng vai trò bị động, thể hiện ở:
Việc xác lập đại diện theo pháp luật không dựa trên ý chí của người được đại diện
mà “ do pháp luật quy định hoặc do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định”-
(điều 140 Bộ Luật Dân Sự). Nghĩa là:
Người được đại diện dù muốn hay không cũng phải có người đại diện cho mình
khi tham gia xác lập hoặc thực hiện các giao dịch dân sự liên quan đến mình, trừ
những trường hợp do pháp luật quy định.
Người được đại diện không được tự mình lựa chọn người đại diện cho mình mà
do pháp luật quy định (7 trường hợp quy định tại điều 141 Bộ Luật Dân Sự)
Sở dĩ có quy định trên vì đối tượng của đại diện theo pháp luật đều là những
người có năng lực hành vi chưa đầy đủ, mất năng lực hành vi hoặc bị hạn chế năng
lực hành vi (đối với cá nhân). Đó là những người bị hạn chế về mặt nhận thức,
không làm chủ được về hành vi của mình và có thể sẽ gây ra những hậu quả cho
chính bản thân và xã hội nếu như tự mình thực hiện những giao dịch đó. Còn đối
với pháp nhân và các chủ thể khác (hộ gia đình, tổ hợp tác) là những tổ hợp đặc
biệt, bao gồm nhiều thành viên, vì vậy khi tham gia vào một giao dịch dân sự cần
có một người đại diện để xác lập giao dịch đó.
12
Việc thực hiện những giao dịch theo ý chí của người đại diện, trên cơ sở vì lợi
ích của người được đại diện
Người đại diện sẽ thay mặt người được đại diện xác lập giao dịch dân sự với
người thứ 3, từ đó sẽ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ cho người được đại diện.
Tuy nhiên, mọi giao dịch đều phải vì lợi ích của người được đại diện và người đại
diện không được vượt quá phạm vi đại diện của mình. Trường hợp những người bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự có thể thực hiện những giao dịch liên quan đến tài
sản của mình nhưng phải được sự đồng ý của người đại diện.
Chấm dứt đại diện theo pháp luật không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của
người được đại diện mà phải theo quy định của pháp luật:
Đó là khi “ người được đại diện đã thành niên hoặc đã được khôi phục năng lực
hành vi dân sự, người được đại diện đã chết hoặc các trường hợp khác do luật
định”. (Khoản 1 Điều 147 Bộ luật Dân Sự) (đối với cá nhân). Trường hợp người
đại diện đã chết thì quan hệ đại diện không được chấm dứt. Nếu người được đại
diện vẫn là người chưa thành niên hoặc người chưa được phục hồi năng lực hành
vi dân sự thì những người khác ( cha hoặc mẹ còn lại, anh, chị em còn lại) có đủ
điều kiện là người giám hộ sẽ là người đại diện cho người đó. Đối với pháp nhân,
việc chấm dứt đại diện khi pháp nhân chấm dứt ( giải thể, tan rã, sát nhập )
Tóm lại, đặc điểm cơ bản của đại diện theo pháp luật là phụ thuộc vào ý chí của
người đại diện, người được đại diện dường như không được thể hiện ý chí chủ
quan của mình.
4. Phạm vi đại diện
Phạm vi đại diện là người giới hạn quyền và nghĩa vụ của người đại diện trong
việc nhân danh người được đại diện xác lập và thực hiện các giao dịch với người
thứ ba.
Quyền:
Phạm vi đại diện được xác lập theo hình thức đại diện theo pháp luật :
13
Khoản 1 điều 144 BLDS 2005 Người đại diện theo pháp luật có quyền xác
lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện,trừ
trường hợp theo pháp luật có quy định khác.
Cá nhân không được để người khác đại diện cho mình trong trường hợp mà
pháp luật quy định họ phải tự mình xác lập, thực hiện giao dịch đó. (Thông thường,
đây là những giao dịch liên quan đến quyền nhân thân – vốn có đặc tính không thể
chuyển giao cho người khác được.
Ví dụ: theo quy định của pháp luật thừa kế, người lập di chúc phải chính là
người có tài sản mà không được ủy quyền cho người khác đại diện cho mình
lập di chúc vì như vậy sẽ không phù hợp vào bản chất của quan hệ thừa kế. Nếu
người có tài sản không có di chúc thì sẽ phát sinh thừa kế theo pháp luật.
Khoản3 điều 144.Người đại diện chỉ được thực hiện giao dịch dân sự trong
phạm vi đại diện.
Khoản 5 điều 144.Người đại diện không được xác lập, thực hiện các giao dịch
dân sự với chính mình hoặc với người thứ ba mà mình cũng là người đại diện
của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Như vậy pháp luật cho phép người đại diện theo pháp luật có quyền chủ
động tối đa trong việc lựa chọn, xác lập và thực hiện giao dịch liên quan đến người
được đại diện nhưng không phải xuất phát từ lợi ích của người đại diện. Trường
hợp đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, thẩm quyền của người đại
diện chỉ là đồng ý hoặc không đồng ý. Cho phép người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự tự do xác lập và thực hiện giao dịch dân sự.
Nghĩa vụ:
Khoản 4 điều 144.Người đại diện phải thông báo cho người thứ ba trong giao
dịch dân sự biết về phạm vi đại diện của mình.
Ví dụ như: A là 1 đứa bé 14t, bố mẹ A đều đã mất, B là bác ruột và là người đại
diện theo PL của A. Tài sản bố mẹ A để lại cho A là 1 chiếc ô tô, B đại diện cho A
14
bán chiếc ô tô đó cho C để A lấy tiền nộp học phí. Trong trường hợp này thì B phải
thông báo cho người thứ 3 là C biết về phạm vi đại diện của B đối với A.
Hậu quả:
- Hậu quả của giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập,
thực hiện
Ðiều 145. Hậu quả của giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác
lập, thực hiện
1. Giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện
không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ
trường hợp người đại diện hoặc người được đại diện đồng ý. Người đã
giao dịch với người không có quyền đại diện phải thông báo cho người
được đại diện hoặc người đại diện của người đó để trả lời trong thời hạn
ấn định; nếu hết thời hạn này mà không trả lời thì giao dịch đó không
làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, nhưng người
không có quyền đại diện vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã
giao dịch với mình, trừ trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải biết
về việc không có quyền đại diện.
2. Người đã giao dịch với người không có quyền đại diện có quyền đơn
phương chấm dứt thực hiện hoặc huỷ bỏ giao dịch dân sự đã xác lập và
yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp người đó biết hoặc phải biết
về việc không có quyền đại diện mà vẫn giao dịch.
- Hậu quả của giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá
phạm vi đại diện.
Ðiều 146. Hậu quả của giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện
vượt quá phạm vi đại diện
1. Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi
đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện
đối với phần giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, trừ
trường hợp người được đại diện đồng ý hoặc biết mà không phản đối;
nếu không được sự đồng ý thì người đại diện phải thực hiện nghĩa vụ đối
với người đã giao dịch với mình về phần giao dịch vượt quá phạm vi đại
diện.
15
2. Người đã giao dịch với người đại diện có quyền đơn phương chấm dứt
thực hiện hoặc huỷ bỏ giao dịch dân sự đối với phần vượt quá phạm vi
đại diện hoặc toàn bộ giao dịch dân sự và yêu cầu bồi thường thiệt hại,
trừ trường hợp người đó biết hoặc phải biết về việc vượt quá phạm vi đại
diện mà vẫn giao dịch.
3. Trong trường hợp người đại diện và người giao dịch với người đại diện cố
ý xác lập, thực hiện giao dịch dân sự vượt quá phạm vi đại diện mà gây
thiệt hại cho người được đại diện thì phải chịu trách nhiệm liên đới bồi
thường thiệt hại.
5.Chấm dứt đại diện theo pháp luật:
5.1Chấm dứt đại diện của cá nhân:
Đại diện của cá nhân có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền
Đại diện theo pháp luật của cá nhân xuất phát từ hoàn cảnh đặc biệt của
người được đại diện mà pháp luật phải bảo vệ. ( Điều 147, BLHS)
Điều 147. Chấm dứt đại diện của cá nhân
1. Đại diện theo pháp luật của cá nhân chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
a) Người được đại diện đã thành niên hoặc năng lực hành vi dân sự đã được
khôi phục;
b) Người được đại diện chết;
c) Các trường hợp khác do pháp luật quy định.
Đại diện theo pháp luật của cá nhân chấm dứt khi hoàn cảnh đặc biệt của
người được đại diện mà từ đó quan hệ đại diện không còn tồn tại như người được
đại diện đã thành niên hoặc năng lực hành vi dân sự đã được khôi phục; người đại
diện chết vì đại diện theo pháp luật được hình thành trên cơ sở nhân thân.
Đại diện pháp luật của cá nhân cũng chấm dứt khi liên quan đến tư
cách của người đại diện trong các trường hợp sau:
- người đại diện chết
- mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế hành vi dân sự
- các trường hợp khác tùy vào hoàn cảnh mà luật quy định
16
Việc chấm dứt đại diện của cá nhân được xác định theo căn cứ chung là khi
việc đại diện trở nên không còn cần thiết trong các trường hợp người đại diện đã
thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có thể tự mình xác lập và thực hiện
giao dịch dân sự và trong trường hợp người được đại diện chết.
Theo quy định BLDS 2005, trường hợp người đại diện chết không phải là
căn cứ chấm dứt đại diện theo pháp luật đối với người được đại diện, nếu người
được đại diện vẫn là người chưa thành niên hoặc vẫn trong tình trạng mất năng lực
hành vi dân sự, hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì giao dịch của họ dân sự
của họ vẫn phải được người đại diện đồng ý hoặc phải do người đại diện xác lập và
thực hiện. => khi người đại diện chết thì những người khác (cha, mẹ còn sống, anh
chị em còn lại) có đủ điều kiện là người giám hộ sẽ là người đại diện cho người đó.
Việc thanh toán các nghĩa vụ tài sản, trong đại diện theo pháp luật, người đại
diện phải thực hiện việc đại diện theo quy định pháp luật không có sự thỏa thuận
với người được đại diện.
5.2Chấm dứt đại diện của pháp nhân:
Đại diện của pháp nhân là để thay mặt pháp nhân: để thay mặt pháp nhân xác
lập, thực hiện các giao dịch dân sự.
khi pháp nhân chấm dứt thì các cũng chấm dứt đại diện của pháp nhân
không phụ thuộc vào nó là đại diện theo pháp luật hai theo ủy quyền.
Điều 148. Chấm dứt đại diện của pháp nhân
1. Đại diện theo pháp luật của pháp nhân chấm dứt khi pháp nhân chấm dứt.
Đối với đại diện theo pháp luật của pháp nhân, khi pháp nhân chấm dứt thì
kể từ thời điểm pháp nhân được xóa tên trong sổ đăng ký pháp nhân hoặc từ thời
điểm chấm dứt pháp nhân được xác định theo quyết định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền thì đương nhiên đại diện theo pháp luật chấm dứt. Vì pháp nhân chấm
dứt sự hoạt động thì quyền và nghĩa vụ của pháp nhân đó cũng chấm dứt theo và
không cần thiết có người đại diện theo pháp luật của pháp nhân nữa.
*giám hộ
1.Khái niệm
17
Giám hộ là việc cá nhân, tổ chức được pháp luật quy định hoặc cử để thực hiện
việc chăm sóc và bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người
mất năng lực hành vi dân sự.
Một người có thể giám hộ được cho nhiều người , nhưng một người chỉ có thể
được một người giám hộ, trừ trường hợp người giám hộ là cha, mẹ hoặc ông , bà
theo quy định tại khoản 2 điều 61 hoặc khoản 3 điều 62 của bộ luật này
2,Người được giám hộ
2.1 Điều kiện để được giám hộ
Khoản 2, điều 58 BLDS 2005 quy định về Người được giám hộ bao gồm :
2.1.1 Người chưa thành niên không còn cha, mẹ, không xác định được cha, mẹ
hoặc cha mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự,
bị tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc cha mẹ không có điều kiện chăm sóc,
giáo dục người chưa thành niên đó và nếu cha mẹ có yêu cầu.
Và như vậy giám hộ chỉ đặt ra đối với những người chưa thành niên mà không
còn, không xác định được cha, mẹ hoặc cha mẹ không đủ điều kiện chăm sóc,
không đủ điều kiện làm giám hộ cho con.
Trong đó,căn cứ vào độ tuổi của người chưa thành niên , BLDS cũng quy định
mức giám hộ đối với người được giám hộ :
- Đối với người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi thì bắt buộc phải có
người giám hộ( dựa theo quy định tại điều 20, khoản 1 BLDS 2005). Việc
giám hộ bắt buộc trong những trường hợp này là rất cần thiết, nhằm đảm bào
cho việc chăm sóc, giáo dục những người chưa thành niên để họ phát triển
tốt về thể chất và tinh thần , đồng thời đề cao trách nhiệm của những người
thân thuộc trong gia đình, nâng cao trách nhiệm cộng đồng đối với việc giám
hộ cho người được giám hộ.
Ví dụ : theo điều 621, thiệt hại do người dưới mười lăm tuổi gây ra thì cha, mẹ
hoặc người giám hộ phải bồi thường thiệt hại đó.
- Đối với người chưa thành niên đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi,
pháp luật không bắt buộc phải có người giám hộ( dựa theo quy định tại điều
18
20,khoản 2 BLDS 2005). Nhưng đối với một số quan hệ pháp luật dân sự
pháp luật quy định phải có người giám hộ
Ví dụ : theo điều 647 khoản 2, người đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi
có thể lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
Vậy cũng là đối tượng người chưa thành niên nhưng ở độ tuổi đủ mười lăm đến
chưa đủ mười tám tuổi vì có sự phát triển nhất định về trí tuệ, về nhận thức, hiểu
biết cuộc sống và khả năng tham gia giao dịch dân sự khá hoàn thiện nên BLDS
không bắt buộc phải có người giám hộ đối với như người ở độ tuổi dưới mười lăm
tuổi.
2.2.2 Người bị mất năng lực do mắc các bệnh bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh
khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì cũng là người
bắt buộc phải có người giám hộ và giao dịch dân sự của người mất năng lực hành
vi phải do người giám hộ xác lập và thực hiện ( theo quy định tại điều 22, khoản
2).
Ví dụ : Theo điều 130, giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người
mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập và
thực hiện nếu theo quy đinh của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của
họ xác lập và thực hiện.
Như vậy, những người thuộc 2 đối tượng trên để có được sự công bằng trong
BLDS và quyền, lợi ích và nghĩa vụ chịu trách nhiệm dân sư thì chế định Giám hộ
là không thể thiếu và họ là những người cần được Giám hộ nhất.
3. Cử và giám sát người giám hộ
3.1 Cử người giám hộ ( điều 64 BLDS 2005)
Là việc Ủy ban nhân dân xã, phường thị trấn nơi cư trú của người được giám hộ
cử người giám hộ hoặc đề nghị một tổ chức đảm nhận việc giám hộ trong trường
hợp người được giám hộ không có người giám hộ đương nhiên theo quy định tại
điều 61và điều 62 BLDS 2005.
19
Như vậy đây có thể coi là phương án cuối cùng để cho một người cần có người
giám hộ có người giám hộ, lúc này vai trò của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà
cụ thể ở đây là Ủy ban nhân dân có vai trò rất quan trọng.
Việc cử người giám hộ phải thực hiện theo thủ tục được thực hiện theo điều 64
BLDS 2005 :
- Phải thành lập thành văn bản, trong đó ghi rõ lý do cử người giám hộ, quyền
và nghĩa vụ của người giám hộ, tình trạng tài sản của người được giám hộ.
Và để việc cử giám hộ hoàn thành thì nhất thiết phải có sự đồng ý của người giám
hộ và phải được Ủy ban nhân dân xã phường thị trấn nơi người được giám hộ cư
trú công nhận, điều này cũng thể hiện trên Giấy cử người giám hộ.
3.2 Giám sát người giám hộ
Việc giám hộ phải được giám sát bởi cá nhân: có trách nhiệm, có năng lực hành
vi dân sự đầy đủ, do người thân thích của người được giám hộ hoặc chính quyền
địa phương nơi cư trú của người được giám hộ cử ra.
Theo Điều 59 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì giám sát việc giám hộ được quy định
như sau:
1. Người thân thích của người được giám hộ có trách nhiệm cử người đại diện làm
người giám sát việc giám hộ để theo dõi, đôn đốc, kiểm tra người giám hộ trong
việc thực hiện giám hộ, xem xét giải quyết kịp thời những đề nghị, kiến nghị của
người giám hộ liên quan đến việc giám hộ.
Người thân thích của người được giám hộ là vợ, chồng, cha, mẹ, con của người
được giám hộ; nếu không có ai trong số những người này thì người thân thích của
người được giám hộ là ông, bà, anh ruột, chị ruột, em ruột của người được giám
hộ; nếu cũng không có ai trong số những người này thì người thân thích của người
được giám hộ là bác, chú, cậu, cô, dì của người được giám hộ.
2. Trong trường hợp không có người thân thích của người được giám hộ hoặc
những người thân thích không cử được người giám sát việc giám hộ theo quy định
tại khoản 1 Điều luật nói trên thì Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú
của người giám hộ cử người giám sát việc giám hộ.
3. Người giám sát việc giám hộ phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
20
4.Chấm dứt giám hộ và hậu quả chấm dứt giám hộ
4.1 Chấm dứt giám hộ
Theo quy định tại điều 72 - Bộ luật Dân sự năm 2005 thì việc chấm dứt việc giám
hộ được quy định trong các trường hợp sau đây:
1. Người được giám hộ đã có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
2. Người được giám hộ chết.
3. Cha, mẹ của người được giám hộ đã có đủ điều kiện để thực hiện quyền, nghĩa
vụ của mình.
4. Người được giám hộ được nhận làm con nuôi.
Như vậy, giám hộ xuất hiện liên quan đến những hoàn cảnh đặc biệt của người
được giám hộ và kết thúc giám hộ khi những hoàn cảnh đó được khắc phục hoặc
không còn tồn tại nữa.
4.2 Hậu quả chấm dứt giám hộ
Theo điều 73 - Bộ luật Dân sự năm 2005 thì hậu quả chấm dứt việc giám hộ được
quy định như sau: Khi việc giám hộ chấm dứt thì trong thời hạn ba tháng, kể từ
thời điểm chấm dứt việc giám hộ, người giám hộ thanh toán tài sản với người được
giám hộ hoặc với cha, mẹ của người được giám hộ.
Trong trường hợp người được giám hộ chết thì trong thời hạn ba tháng, kể từ thời
điểm chấm dứt việc giám hộ, người giám hộ thanh toán tài sản với người thừa kế
của người được giám hộ; nếu hết thời hạn đó mà chưa xác định được người thừa kế
thì người giám hộ tiếp tục quản lý tài sản của người được giám hộ cho đến khi tài
sản được giải quyết theo quy dịnh của pháp luật về thừa kế và thông báo cho ủy
ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người được giám hộ cư trú.
Việc thanh toán tài sản được thực hiện dưới sự giám sát của người giám sát việc
giám hộ.
5.Người giám hộ
21
-Khái niệm: Người giám hộ là người thay mặt cho người được giám hộ trong các
quan hệ pháp luật dân sự và chăm sóc, giáo dục người giám hộ.
-Điều kiện: theo Điều 60 bộ luật dân sự thì cá nhân có đủ điều kiện sau đây có thể
làm người giám hộ:
+ có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
+ có tư cách đạo đức tốt; không hải là người đang bị truy cứu trách nhiệm hình
sự hoặc người bị kết án nhưng chưa được xóa án tích về một trong những tội cố ý
xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác.
+ có điều kiện cần thiết để bảo đảm thực hiện việc giám hộ.
Người giám hộ đương nhiện của người chưa thành niên mà không còn cha mẹ,
không xác định được cha, mẹ hoặc cả cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự,
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự , bị tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ không có
điều kiện chăm sóc , giáo dục người chưa thành niên đó nếu cha, mẹ có yêu cầu,
được Điều 61 bộ luật dân sự xác định như sau:
+ trong trường hợp anh ruột, chị ruột không có thỏa thuận khác thì anh cả hoặc
chị cả là người giám hộ của em chưa thành niên; nếu anh cả hoặc chị cả không có
đủ điều kiện làm người giám hộ thì anh chị tiếp theo là người giám hộ.
+trong trường hợp anh ruột chị ruột không có thỏa thuận khác thì anh ruột, chị
ruột hoặc anh ruột, chị ruột không đủ điều kiện làm người giám hộ thì ông nội, bà
nội, ông ngoại, bà ngoại là người giám hộ; nếu không ai trong số những người thân
thích này có đủ điều kiện làm người giám hộ thì bác, chú, cô, dì làm người giám
hộ.
Người giám hộ đương nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự được điều 62
bộ luật dân sự quy định như sau:
+trong trường hợp vợ mất năng lực hành vi dân sự thì chồng là người giám hộ;
nếu chồng là người mất năng lực hành vi dấn sự thì vợ là người giám hộ
+trong trường hợp cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, hoặc cha hoặc mẹ
mất năng lực hành vi dân sự còn người kia không có đủ điều kiện làm người giám
22
hộ thì người con cả là người giám hộ; nếu người con cả không đủ điều kiện làm
người giám hộ thì người con tiếp theo làm người giám hộ.
+trong trường hợp người thành niên mất năng lực hành vi dân sự chưa có vợ,
chồng, con hoặc có mà vợ, chồng, con đều không có đủ điều kiện làm người giám
hộ thì cha mẹ làm người giám hộ.
-Quyền và nghĩa vụ: theo điều 65,67,68 bộ luật dân sự quy định
+nghĩa vụ của người giám hộ đối với người được giám chưa đủ 15 tuổi:
Chăm sóc, giáo dục người được giám hộ;
Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự, trừ trường hợp
pháp luật quy định người chưa đủ 15 tuổi có thể tự mình xác lập, thực hiện giao
dịch dân sự;
Quản lý tài sản của người được giám hộ;
Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
+nghĩa vụ của người giám hộ đối với người được giám hộ từ đủ 15 tuổi đến chưa
đủ 18 tuổi:
Đại điện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự, trừ trường hợp
pháp luật quy định người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có thể tự mình xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự;
Quản lý tài sản của người được giám hộ;
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
+nghĩa vụ của người giám hộ đối với người được giám hộ mất năng lực hành vi
dân sự:
Chăm sóc, bảo đảm việc điều trị bệnh cho người được giám hộ;
Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự;
Quản lý tài sản của người được giám hộ;
23
Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
+quyền của người giám hộ:
Sử dụng tài sản của người được giám hộ để chăm sóc, chi dùng cho những nhu
cầu cần thiết của người được giám hộ;
Được thanh toán các chi phí cần thiết cho việc quản lý tài sản của người được
giám hộ;
Đại diện cho người được giám hộ trong việc xác lập, thực hiện các giao dịch dân
sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
-Thay đổi và chuyển giao: theo điều 70 và 71 bộ luật dân sự quy định
+ Người giám hộ được thay đổi trong trường hợp sau đây:
Người giám hộ không còn đủ các điều kiện quy định tại Điều 60 của bộ luật này;
Người giám hộ là các nhân chết hoặc bị tòa án tuyên bố mất tích, tổ chức làm
giám hộ chấm dứt hoạt động;
Người giám hộ vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ giám hộ;
Người giám hộ đề nghị được thay đổi và có người khác nhận làm giám hộ.
* Trong trường hợp thay đổi người giám hộ đương nhiên thì những người được
quy định tại điều 61 và Điều 62 của bộ luật này là người giám hộ đương nhiên; nếu
không có người giám hộ đương nhiên thì việc cử người giám hộ được thực hiện
theo quy định tại Điều 63 của Bộ luật này
* Thủ tục thay đổi người giám hộ được cử được thực hiện theo quy định tại Điều
64 và điều 71 của bộ luật này
+Khi chuyển giao người giám hộ thì trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày có
người giám hộ mới, người đã thực hiện việc chuyển giao giám hộ cho người thay
thế mình.
+Việc chuyển giao người giám hộ phải được thành lập thành văn bản, trong đó ghi
rõ lý do chuyển giao và tình trạng tài sản của người được giám hộ tại thời điểm
24
chuyển giao. Người cử người giám hộ , người giám sát việc giám hộ, chứng kiến
việc chuyển giao giám hộ.
+ Trong trường hợp thay đổi người giám hộ vì lý do người giám hộ vì lý do người
giám hộ là cá nhân chết , bị tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự, mất
tích; tổ chức làm giám hộ chấm dứt hoạt động thì người cử người giám hộ lập biên
bản, ghi rõ tình trạng tài sản của người được giám hộ, quyền, nghĩa vụ phát sinh
trong quá trình thực hiện việc giám hộ để chuyển giao cho người giám hộ mới với
sự chứng kiến của người giám sát việc giám hộ.
Những điểm mới về giám hộ trong Bộ luật dân sự năm 2005 so với Bộ luật dân
sự 1995
Giám hộ là chế định quan trọng trong Bộ luật dân sự (BLDS) nhằm mục đích để
thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành
niên, người mất năng lực hành vi dân sự.
Chế định giám hộ được quy định ở mục 4, Chương III Phần thứ nhất BLDS năm
2005 với 16 điều (từ Điều 58 đến Điều 73), với những sửa đổi bổ sung quan trọng
so với các điều của tương tự của BLDS 1995.
* Khái niệm giám hộ
Điều 58 BLDS 2005 đã đưa ra khái niệm giám hộ:
So với khái niệm giám hộ quy định tại Điều 67 BLDS 1995 thì khái niệm giám hộ
nêu ở Điều 58 BLDS 2005 ngoài việc sửa đổi từ ngữ còn sửa nội dung câu “người
bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được
hành vi của mình” bằng câu “người mất NLHV dân sự”.
Việc thay đổi này làm cho điều luật vừa ngắn ngọn vừa thể hiện được sự chặt chẽ
và chính xác hơn. Vì khái niệm mất NLHV dân sự đã được quy định tại Điều 24
BLDS 1995, Điều 22 BLDS 2005. Vì vậy điều luật không cần mô tả lại những biểu
hiện của người mất NLHV dân sự.
* Giám sát việc giám hộ
Giám sát việc giám hộ quy định tại Điều 59 BLDS 2005 so với Điều 68 BLDS
25