Hai bà ở huyện Quốc Oai, cùng sinh năm 1946, chung một chồng và giờ họ
cùng gánh chung một gánh nặng nuôi nấng 5 người con, trong số đó có 2
người tật nguyền.
Mấy ngày trời đổ cơn mưa rào lớn, hai người phụ nữ quanh ra quẩn vào căn nhà
ngói lụp xụp chốc chốc lại thở dài đánh thượt: “Mưa gió thế này thì nát hết rau,
ngập hết lúa rồi lấy gì mà ăn”.
Họ cùng bận chiếc áo hoa nhàu nhĩ vá chằng vá đụp, cái quần nái đen xắn tới
bẹn. Khuôn mặt già nua, mái tóc bạc phơ, chân tay nhăn nheo, đầy vết chai sạn,
hai người phụ nữ nom già hơn cả chục năm so với cái tuổi 60.
Một bà tên Trương Thị Bích, một bà tên Dương Thị Duệ cùng ở huyện Quốc Oai,
cùng sinh năm 1946, chung một chồng và giờ cả hai người gánh chung một gánh
nặng nuôi nấng 5 đứa con cả tật nguyền lẫn lành lặn. Câu chuyện đời của hai
người phụ nữ bạc mệnh nhưng giàu lòng vị tha, đức hy sinh khiến không ít người
xúc động…
Gửi con hỏi vợ cho chồng…
Bà Bích sinh ra trong một gia đình nghèo, có 9 anh em tại xã Hòa Thạch, Quốc
Oai. Năm 20 tuổi bà gật đầu đồng ý lấy anh bộ đội Nguyễn Văn Thư (1944, Liệp
Tuyết, Quốc Oai) mà không có một ngày “tìm hiểu”, thậm chí cả hai còn chưa
chạm mặt trước… ngày cưới. Mới vừa “quen” mặt chồng được 10 ngày thì ông
Thư lại phải lên đường ra trận.
Hết chiến trường miền Bắc, Quảng Trị, lại sang Lào, Campuchia, ông Thư cứ đi
biền biệt, một năm mới vài bận về thăm người vợ trẻ. Mãi đến năm 1972, tình
yêu của họ mới đơm trái được một bé gái đặt tên là Nguyễn Thị Bài. Thế nhưng,
Bài sinh ra không được lành lặn như những đứa trẻ khác: thân hình quắt queo,
yếu ớt như con mèo hen, cổ nghẹo sang một bên, chân tay run lẩy bẩy. Kể từ
đây, một loạt những chuỗi bất hạnh liên tiếp ập xuống gia đình nghèo.
Hai người mẹ bên những đứa con tật nguyền.
Nhìn đứa con gái nhỏ không phát triển bình thường, suốt ngày lê la, miệng chảy
dớt dãi… bà Bích nuốt nước mắt tự an ủi là gắng sinh đứa thứ hai. Nhưng nỗi
đau như vỡ òa khi đứa con thứ hai vừa sinh ra đã chết yểu. Rồi đứa con trai thứ
3 (1976) cũng bị bệnh tương tự như người chị cả.
Lúc bấy giờ, bà Bích đi đến đâu quanh làng xã cũng bị dè bỉu bàn tán là kẻ mang
mầm bệnh, đẻ con quái thai. Thương vợ, bản thân đau ốm, ông Thư xin giải ngũ
về quê chăm nom mấy đứa con tật nguyền. Nhiều đêm thấy vợ ôm mặt khóc, xót
xa tủi phận, ông lại vỗ về an ủi bà cố sinh đứa nữa, may trời thương thì cho nó
khỏe.
Thế nhưng, dường như số phận đã cướp đi của hai người cả những niềm hy
vọng cuối cùng. Đứa con gái Nguyễn Thị Tịnh (1981) sinh ra cũng không “vẹn
người”. Chữa chạy cho các con không được, bà Bích ôm đứa con út còn ẵm
ngửa, gạt nước mắt khuyên chồng: “Bố nó đi tìm người khác đi. May ra người ta
sinh cho mình đứa con lành lặn”. Vạn bất đắc dĩ, ông Thư đành ngậm đắng nghe
lời vợ những mong tìm được “phép lạ”.
Nghe mai mối của ông trưởng họ, ông tìm đến nhà bà Duệ, thật thà thưa với bố
mẹ bà Duệ: “Tôi sinh mấy đứa cháu bị hen. Tôi muốn tìm một người vợ để trông
nom các cháu, cũng là đỡ đần việc gia đình”. Sau đích thân bà cả Bích gửi con
nhờ bà nội trông để đến hỏi vợ cho chồng.
Bà bảo, là người phụ nữ chẳng ai muốn nhường chồng cho người khác, nhưng
vì hoàn cảnh bà phải nuốt nước mắt để hỏi bà hai. Cũng là thương cho hoàn
cảnh gia đình ông Thư, bà Duệ gật đầu đồng ý theo bà cả về. Đám cưới ấy
không pháo hoa, không mâm cao cỗ đầy, chỉ vỏn vẹn có con gà, nắm xôi cúng
cụ.
Nhà bà hai cách một làng, từ bận ấy, cứ vài hôm ông lại sang. Những đêm đó bà
cả đều mất ngủ. Trong căn phòng lẻ bóng, chỉ có tiếng rưng rức tủi phận bọt bèo.
Nhìn con thơ đau ốm, lòng bà thêm quặn thắt. Thế nhưng, từ khi bà Duệ về làm
dâu cho tới khi ông Thư nằm xuống, đến cả bây giờ, trong căn nhà thưa chõng
này chưa ai nghe thấy một tiếng cãi vã giữa hai bà.
Người biết hy sinh như bà cả Bích không dễ gặp, và người trọn phận làm dâu
như bà hai có lẽ xưa nay hiếm. Bà hai Duệ dám vượt qua những lời đồn thổi,
những tai tiếng nhân gian về làm dâu ở ngôi nhà đau khổ này. Niềm hạnh phúc
vỡ òa khi ba đứa con của bà hai đều lành lặn, khỏe mạnh.
Hai người vợ, một mái nhà
Thấm thoắt đã hơn 20 năm trôi qua, ông Thư và cô con gái cả đã lìa trần, giờ bà
Duệ đã dọn về sống chung với mẹ con bà Bích. Người nào biết cũng chậc lưỡi
bảo bà Duệ là điên, "rước vạ vào thân". Bà Duệ chỉ giải thích: "Tôi may mắn hơn
mẹ con bà ấy. Tôi cũng thương mấy đứa trẻ tội nghiệp như khúc ruột mình đẻ
ra". Bà Bích nói chen vào: "Mẹ con tôi cũng biết ơn cô ấy lắm. Không nhờ cô ấy
thì chắc tôi chết rồi".
Hai người đàn bà ngán ngẩm nhìn cơn mưa rào, lại lo mấy đứa con đứt bữa.
Căn nhà từ thời ông Thư để lại giờ đã xơ xác lắm, cứ mưa là dột. Hai đứa con
tật nguyền vô tư "bậy" ra như đứa trẻ lên 2, khiến căn nhà đã vốn ẩm thấp lại xộc
lên mùi khăm khẳm.
Hai người đàn bà đã sang cái tuổi 60, một người bệnh tật lưng còng như bà lão
80 ngày ngày vẫn phải chăm lo thay giặt cho hai đứa con ngớ ngẩn , một người
vẫn lặc lè quanh gánh cấy hái 8 sào ruộng nuôi 7 miệng ăn. Số phận nghiệt ngã
đã kéo hai người đàn bà xích lại gần nhau, san sẻ việc, gắng tới giọt mồ hôi cuối
cùng kéo dài sự sống cho hai con và lo tương lai của ba đứa nhỏ. Huệ, Hoa vẫn
cắp sách đến trường, Được cũng đã tìm được công việc làm mướn. Cả ba đều
thương hai mẹ, những lúc rảnh rỗi vẫn phụ mẹ chăm sóc hai anh chị.
"Từ đồng mắm đến bữa rau đều trông chờ vào cây lúa. Lúc sâu bệnh, khi thì gặp
lũ, đầu tắt mặt tối mà cũng chẳng đủ ăn". Bà nói với tôi mà như nói với chính
mình: "Thằng Thu, con Được dăm bữa lại lên cơn sốt rét, đau ốm liên miên,
khoản vay lãi cho mấy đứa nhỏ đi học cũng không biết khi nào trả được...", bà
Duệ thở dài ngao ngán nhìn ra cơn mưa rào ngày càng nặng hạt.