Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Lễ hội miền bắc 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (341.61 KB, 7 trang )

Lễ hội đền Thái Vi


Sau cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ nhất
(1258), vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh) - lúc đó đã tuổi tròn 40
nhường ngôi cho con là Thái tử Hoảng (Trần Thánh Tông) lên làm
Thái Thượng Hoàng, về vùng núi Vũ Lâm tu hành lập hành cung
Vũ Lâm, lập Am Thái Vi ở giữa động Vũ Lâm (một thung lũng
rộng chừng 20 mẫu ở phía Tây thôn Văn Lâm, xã Ninh Hải, huyện
Hoa Lư ngày nay).


Tại đây, Trần Thái Tông đã biến khu rừng rậm và vùng đất hoang
hóa thành nơi dân cư đông đúc. Thái Thượng Hoàng chiêu dân ra
lập làng Văn Lâm, khuyên nhân dân khẩn hoang được 155 mẫu
ruộng. Đó cũng là hậu cứ của cuộc kháng chiến chống quân
Nguyên - Mông lần thứ 2 (1285) của dân tộc.


Công lao của Trần Thái Tông rất lớn. Vì vậy sau khi ông mất, thọ
60 tuổi (1218- 1277) nhân dân đã xây dựng đền thờ Trần Thái
Tông, Hiển Từ Hoàng Thái Hậu (tức Hoàng hậu Thuận Thiên) và
Trần Thánh Tông tên là "Thái Vi Từ". Gọi là Thái Vi, vì là nơi
Hoàng đế nhà Trần xuất gia.


Thái Vi Từ được xây dựng theo kiểu "nội công ngoại quốc" (nghĩa
là bên trong chữ công, bên ngoài chữ quốc". Trên hai cột đá hai
bên gian giữa của bái đường có trạm khắc câu đối:



"Nhất thống sơn hà, Thiên trường phủ vương hầu đệ trạch
Thiên thu hương hỏa, Thái Vi cung văn vũ y quan".

(Thu phục giang sơn, phủ Thiên Trường dựng vương hầu cung
thất

Ngàn năm hương hỏa cung Thái Vi quan văn võ đều về chầu).

Đền Thái Vi nguy nga trầm mặc giữa cảnh sơn thủy hữu tình
thuộc vùng đất Hoa Lư lịch sử. Trước đền có giếng ngọc xây bằng
đá xanh. Sau đền là dãy núi Cấm Sơn: "Tiền ngọc tỉnh, hậu Cấm
Sơn". Đền nằm ở khu đất thuộc thôn Văn Lâm. Tương truyền đây
chính là nơi trước đây Trần Thái Tông đã dựng am Thái Vi.


Điều độc đáo ở đền Thái Vi là tất cả các cột đều làm bằng đá
xanh nguyên khối, được chạm khắc rất công phu, tỉ mỉ, đường
nét uyển chuyển, tao nhã như chạm gỗ và có phần còn sắc sảo
tinh túy hơn. Những người thợ đá đã làm cho các cột đá có hồn,
mang tính nghệ thuật cao, thể hiện đặc điểm kiến trúc ở Ninh
Bình.


Từ xa xưa, hàng năm cứ đến ngày 14 tháng 3 (âm lịch) lễ hội
đền Thái Vi tổ chức được gọi là quốc lễ, liệt vào hàng "quốc gia tế
lễ" ngang với Đền Hùng ở Vĩnh Phú, đền Đinh ở xã Trường Yên
(Hoa Lư)... Ngày nay, lễ hội đền Thái Vi trở thành hội làng, được
mở từ ngày 14-3 đến 17-3 âm lịch. Đây là một dịp để nhân dân
Ninh Bình và nhân dân cả nước tưởng nhớ công lao của các vua
Trần, những người có công lớn với dân với nước, trên tinh thần

"uống nước nhớ nguồn".


Khác với lễ hội đền Đinh tổ chức rước nước, lễ hội đền Thái Vi tổ
chức rước kiệu. Nghi lễ của một đoàn rước kiệu đi đầu là một
chiếc chống cái do hai người khiêng và một người mặc áo thụng
đi hia, đội mũ cánh én (mặc thẩm phục) làm thủ hiệu trống, rồi
đến 5 người cầm 5 lá cờ ngũ hành, tiếp đó đến kiệu bát cống (8
người khiêng) trên đặt bài vị các vua Trần hoặc Hoàng hậu, hay
công chúa đời Trần, hương hoa lễ vật. Kiệu có lọng cắm, màu đỏ
đung đưa trông rất đẹp mắt. Tiếp đó là kiệu 4 người khiêng bày
lễ vật là hương hoa, oản quả. Sau đó là phường bát âm, rồi tới
ban tế do ông chủ tế dẫn đầu đi hàng hai. Tất cả đều mặc thẩm
phục.


Rước kiệu ở đền Thái Vi không chỉ có một đoàn, mà là trên dưới
30 đoàn rước kiệu của các xã trong huyện Hoa Lư và trong tỉnh
Ninh Bình. Sáng ngày 14 -3 kiệu từ các nẻo đường trong huyện,
trong tỉnh rước về đền Thái Vi trong không khí tưng bừng, náo
nhiệt, vui tươi của ngày hội. Các cỗ kiệu đèu được sơn son thếp
vàng lộng lẫy do các trai thanh nữ tú ăn mặc theo phong tục lễ
hội xưa, duyên dáng rược kiệu trang nghiêm, thành kính. Kiệu
tiến, kiệu lùi, bước đi nhịp nhàng, khoan thai, tạo nên không khí
náo nhiệt, sinh động.


Sau phần rước kiệu là phần tế. Tế là nghi lễ quan trọng, tổ chức
ở trước đền. Ban tế gồm từ 15 đến 20 người, gồm một ông chủ
tế (thường là người cao tuổi có uy tín nhất trong làng) hai ông

bồi tế (giúp cho ông chủ tế trong khi hành lễ), một ông đọc văn
tế, hai ông xướng tế và mỗi bên tả hữu có từ 5 đến 10 ông để
thực hiện việc tiến hương, tiến tửu.


Ông đọc văn tế đọc khúc văn tế ca ngời công đức của vua Trần
Thái Tông được trình bày qua nghệ thuật diễn xướng. Sau mỗi
khúc tế, lại có hai người phường trò, người nam chơi đàn, người
nữ dẫn giải bằng lối ca trù. Phần hội đền Thái Vi thực sự là phần
vui chơi giải trí của nhân dân và những người đến dự hội. Đó là
các trò múa lân, múa rồng, đánh cờ người, đấu vật, bơi thuyền
ngoạn mục.


Đến dự lễ hội đền Thái Vi là dịp chúng ta đi thăm các danh thắng
cảnh nổi tiếng của Ninh Bình. Đó là đền Thái Vi, Tam Cốc, Bích
Động, Động Tiên, Xuyên Thuỷ động, đều đẹp mê hồn, huyền
diệu. Cảnh núi non mây bể bao la được ngắm nhìn từ đây, chúng
ta sẽ thả bay trong gió những lo toan trần tục để hướng về cội
nguồn, cõi lòng lắng xuống, thảnh thơi thánh thiện.



Lễ hội đền Thượng

Ðền Thượng nằm trên đồi Hỏa Hiệu (đồi Mai Lĩnh) thuộc địa phận phường
Lào Cai - thành phố Lào Cai - tỉnh Lào Cai, nơi hợp thủy giữa sông Hồng
và sông Nậm Thi.
Ðền Thượng thờ Quốc Công Tiết Chế Trần Hưng
Ðạo - tướng lừng danh, năm 1257 đã chỉ huy quân

đội Ðại Việt phòng thủ ở Lào Cai, người đã giữ yên
bờ cõi giành lại hòa bình cho dân tộc. Nhớ công ơn
to lớn của người, nhân dân đã lập đền thờ trên đồi
Hỏa Hiệu và đền có tên là Ðền Thượng. Gần đền
Thượng là đền Mẫu, thờ bà Chúa Thượng ngàn
cùng các vị thánh mẫu. Ðền Thượng, đền Mẫu, c
Lê Lợi và đền Cấm tạo thành một quần thể di tích.
hùa
Qua bao cơn binh lửa, tuy đã được trùng tu nhưưng
ổi
đền Thượng vẫn mang phong cách kiến trúc cổ xưa
với hệ thống "Tam quan ngoại" "Tam quan nội", "Hậu cung" và các nhà
"Tả vu", "Hữu vu". Hậu cung là nhà "phương đình" có 8 con rồng chầu, n
bật giữa phương đình có tấm bia đá khắc sự tích thờ Ðức Thánh Trần.
Tô điểm cho quần thể kiến trúc là cây đa cổ thụ sum suê mấy trăm tuổi
nhưng vẫn xanh cao với núi sông. Ðền Thượng, đền Mẫu, đền Cấm và
chùa Lê Lợi là chứng tích văn hóa truyền thống của người Việt trên vùng
biên giới. Du khách thập phương từ trong và ngoài nước, khi đến Lào C
dù bận mấy, vội mấy, ai ai cũng đều lên thắp nén nhang tưởng nhớ nhữ
người anh hùng dân tộc và chụp tấm hình kỷ niệm bên gốc đa cổ thụ bề
thế, uy nghi với mong muốn sẽ có sức trẻ, khỏe, hưng thịnh và hạnh phú


ai
ng
c.
Hàng năm cứ vào dịp ngày rằm tháng giêng là lễ hội Ðền Thượng lại được
ăn
Lễ hội năm này có nhiều hoạt động phong phú, hấp dẫn trong 2 ngày 15,


,

Lễ hội Ðền Thượng là nét đẹp văn hóa của các dân tộc Lào Cai đã và
g




Hội đền Trèm (Chèm)
Nằm ở vị trí bên tả ngạn sông Hồng, ngay trên con đê thuộc xã Thuỵ Phương,
huyện Từ Liêm, Hà Nội. Đền Trèm (từ trèm, biến âm của từ việt cổ T.lem, T.rem -
tổ chức để nhân dân và khách thập phương tới thăm quan và lễ. Xuân Tân
Tỵ này, đưược Ban chỉ đạo du lịch quốc gia, Tổng cục Du lịch giúp đỡ, tỉnh
Lào Cai mở lễ hội Ðền Thượng đón chào thiên niên kỷ mới với quy mô
lớn. UBND thị xã Lào Cai cùng ngành Thương mại - Du lịch và ngành V
hóa - Thông tin và thể thao được giao phối hợp tổ chức lễ hội này.
16 tháng giêng (tức là ngày 7, 8/2/200. Phần lễ bao gồm có khai hội, rước
kiệu vong linh, đọc văn tế, dâng hương. Phần hội là những màn trình diễn
văn nghệ, vũ hội dân gian mang đậm phong cách dân tộc, cùng các tiết
mục nghệ thuật của đoàn văn nghệ Quốc tế Hà Khẩu tỉnh Vân Nam -
Trung Quốc. Các môn thể thao truyền thống như: vật, kéo co, ném còn
đẩy gậy, cờ người, cầu lông, bóng bàn... Ðặc biệt mỗi huyện thị đều có
trích đoạn các lễ hội tiêu biểu và trưng bày những sản vật thủ công mỹ
nghệ cùng nền văn hóa ẩm thực với các món ăn truyền thống của đồng
bào vùng cao với du khách.
đang đưược bảo lưu và phát triển. Khách đến không những được tỏ lòn
thành kính với ngưười anh hùng dân tộc, thăm quan vãn cảnh đền, cầu
chúc cho năm mới may mắn tốt lành, mà còn đưược thưởng thức không
khí vui tươi, nhộn nhịp của các hoạt động lễ hội. Hội xuân Ðền Thượng
chắc chắn sẽ tạo nên một ấn tượng tốt đẹp, góp phần quảng bá cho hình

ảnh của du lịch Lào Cai là điểm đến của du khách trong thiên niên kỷ mới.
Trè
khi đã
hết, cả khi còn trong nước lẫn khi ở nước ngoài (Trung Quốc) đã trở thành biểu

ệm Lý Ông Trọng.
ở đầu là lễ rước nước sáng sớm ngày 15. Nước được lấy ở giữa dòng sông để
n
hi các nghi lễ tiến hành xong cũng là thời điểm dân làng và khách thập phương
hung vui không khí hội hè: thả chim bồ câu, chèo thuyền, đánh cờ, đấu vật...
ồng
ức và tập tục: rước nước, tắm tượng, chèo thuyền, thả chim... là
ình ảnh mờ nhạt của các lễ nghi nông nghiệp xa xưa, qua đắp đổi của thời gian và
ộc đáo lễ hội đình Châm Khê

hôn Châm Khê, xưa kia có tên chữ Bùi Xá, tên nôm làng Bùi, vốn là một
làng Việt cổ nằm bên bờ nam sông Ngũ Huyện Khê (nay thuộc xã Phong Khê,

cao, rộng, ngay cạnh và hướng mặt ra
sông Ngũ Huyện Khê. Đình được khởi dựng từ lâu đời, đến thời Lê Trung
m) đã chứng kiến bao mùa đổi dòng thay hướng của con sông Hồng vừa hiền
hoà vừa dữ dằn mỗi mùa con nước. Đây chính là nơi thờ Lý Ông Trọng.

Câu chuyện về tài năng, đức độ cũng như oai linh của ông cả khi sống lẫn
c
tượng của sức mạnh và chính nghĩa. Nhưng với dân làng Thuỵ Phương ông vẫn
tồn tại như một phúc thần bảo hộ cho dân làng, tượng ông cùng phu nhân được th
phối hưởng trong đền và tôn kính gọi là Đức ông, Đức Bà.

Hằng năm hội đền Trèm mở 3 ngày (từ 14-16/4) để tưởng ni

M
phục vụ cho lễ tắm tượng. Sau đó là lễ rước văn (rước bài văn tế từ nhà người
trưởng văn ra đình), cuối cùng là lễ tụng kinh cầu siêu do thầy chùa phụ trách tiế
hành trong đêm Rằm.


K
c
Trong đó hấp dẫn nhất vẫn là hội thi thả chim và chèo thuyền. Với sự tham dự của
nhiều chủ chim có khi tới dăm chục thậm chí hàng trăm đàn chim chờ đợi mở l
tung cánh, đua tài cao thấp trong ngày hội càng làm cho không khí hội đền Trèm
thêm náo nhiệt.

Từ những nghi th
h
các dòng văn hoá cho đến nay chỉ còn hiện diện như một thú chơi tao nhã và tinh
thần thượng võ. Tất cả tạo nên sự hấp dẫn riêng của một làng quê nông nghiệp ven
đô.

Đ
T
huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh) từng nổi tiếng với ngôi đình cổ kính hàng
trăm năm tuổi và lễ hội “tắm phỗng”.

Đình Châm Khê toạ trên một khu đất
Hưng được tu dựng với quy mô lớn, sang thời Nguyễn (Năm Tự Đức thứ 5-
1852) lại được trùng tu. Dấu ấn trên kiến trúc từ đó đến nay vẫn giữ được
khá nguyên vẹn. Đó là tòa Đại đình hình chữ đinh gồm: 5 gian Tiền tế, 3 gian

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×