Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

Đề án lạm phát trong nền kinh tế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326.03 KB, 43 trang )

ĐẺ ÁN LÝ THUYẾT TẢĨ CHÍNH TĨẺN TẺ
ĐÊ TÀI : LẠM PHÁT TRONG NÊN KINH TÉ THỊ TRƯỜNG

A. Lời mờ đầu .
Trong lịch sử và hiện tại, lạm phát luôn là một vấn đề nóng bỏng với từng
nước dù nước đó là một nước có nền kinh tế phát triển hay một nước có
nền kinh tế kém phát triển, nó luôn tồn tại song song với nền kinh tế thị
trường và được xem như là một vấn đề lớn đối với tất cả các nước ,khi tồn
tại nó trong nền kinh tế nó ảnh hưởng rất lớn đến tất cả các mặt của một
nên kinh tế như sự ổn định của một nền kinh tế các vấn đề khác như tăng
trưởng , thất nghiệp ổn định chính trị xã hội.............và đã có rất nhiều hậu quả
xấu do lạm phát gây ra . Trong lịch sư đã chứng kiến những “cơn” lạm
phát ,tiêu biểu như siêu lạm phát ở Đức ( 1921-1923 ) các nước mỹ la tinh
(1980-1990 ) siêu lạm phát ở việt nam cuối thập kỉ 80 .. .Những hậu quả mà
lạm phát cao gây ra cho nền kinh tế các nước đã chịu là rất to lớn nên chính
phủ các nước ln ln tìm mọi cách để khống chế lạm phát ở mức có thể
kiểm sốt được .Các nhà kinh tế học các nhà kinh tế học đã tìm rất nhiều
chứng cứ biện pháp, giải pháp đê luận giải và kiểm sốt lạm phát ở mức có
thể để giữ cho nền kinh tế ổn định và có thể phát triến .Và việc kiểm soát
lạm phát như thế nào là vấn đề hàng đầu trong các cuộc tranh luận về chính
sách kinh tế .
..Vì vậy việc nghiên cứu về lạm phát luôn luôn được quan tâm hàng đầu
trong nền kinh tế thị trường ..để cho nó phù hợp với từng giai đoạn phát
triển của nền kinh tế .


Trong đề án này chúng ta sẽ nghiên cứu về vấn đề lạm phát thực chất nó
như thế nào khi xãy ra trong nền kinh tế thì nó sẽ diễn biến trong nền kinh
tế với hình thái ra sao nó sẽ tác động đến những gì trong nền kinh tế và
điều đặc biệt quan trọng là khi tồn tại nó trong nền kinh tế thị trường thì do
những nguyên nhân gì và từ đó chúng ta sẽ có những giải pháp đế khắc


phục tình trạng đó và dự đốn cũng như có những dự trù trước cho những
chính sách về các lĩnh vực trong nền kinh tế trong tương lai. và chúng ta sẽ
nghiên cứu về những cuộc lạm phát đã điễn ra trong quá khứ.. Những
nguyên nhân , hậu quả và những gì đã làm của các nước đế đối phó với nó .
Đồng thời sẽ có những định hướng riêng cho từng nền kinh tế cho từng
nước
Với đề án này nhằm giúp cho người đọc có thể hiểu một cách tổng quan
về vấn đề lạm phát bản chất,nguyên nhân và hậu quả và rõ hơn về thực tế
lạm phát tại việt nam qua các giai đoạn và có thể định hướng về mức lạm
phát trong tương lai

B. Phần hai: Nôi dung của đề án .
I

. Cơ sở thuyết :

1. lạm phát là gì ? Mọi hàng hóa trên thị trường đều có giá cả của nó ,
giá của hàng hóa được đo bằng lượng tiền phải bỏ ra để trao đổi .Người ta
gọi một cuốn sách có giá 20000 VND vì nếu muốn sở hửu cuốn sách đó
phải bỏ ra 20000 VND để trao đối . Neu cũng cuốn sách đó vào thời điểm
hiện tại có giá 20000 VND nhưng vào đúng ngày này năm sau nó có giá lên
đến 25000 VND người ta gọi một cách dân dã đó là sách đã lên giá .Đây là
đối với một hàng hóa cá biệt nhưng nếu giá cả của tất cả các loại hàng hóa
khác trên thị trường ( có thể là ở những tỷ lệ khác nhau ) chứ không riêng


đối với sách , thì người ta gọi hiện tượng đó là lạm
phát giá cả ,hay nói cách
khác là nền kinh tế đang trong tình trạng lạm phát
giá cả .như vậy ta có thể

hiểu lạm phát là tình trạng giá cả của tất cả các mặt
hàng tăng lên so với
một thời điểm bất kì trước đó . Tiền có giá cả ,giá
cả của tiền là số lượng
đơn vị hàng hóa mà mỗi đơn vị tiền có thế trao đối
được .Neu gọi giá cả của
hàng hóa là p,thì giá cả của một đơn vị tiền tệ sẽ
bằng : 1 / p , như vậy các
hàng hóa dùng đơn vị tiền tệ để đo lường giá cả , thì
tiền tệ, ngược lại sử
dụng các đơn vị hàng hóa để đo lường giá cả của chính
nó. Đẳng thức trên
cho ta thấy khi giá cả p của các hàng hóa càng lớn
thì giá cả của một đơn vị
tiền tệ càng nhỏ,tiền bị mất giá trầm trọng .Do vậy
chúng ta lại có thể hiểu
lạm phát theo cách thứ hai là tình trạng mất giá của
tiền tệ . Ví dụ: tháng
1/1922 một cốc nước ngọt ở Đức có giá là 1 DM thế
nhưng đến tháng
20/1923 1 cốc nước ngọt như vậy có giá là 192 triệu
DM như vậy ngày


tháng 1/1922 giá cả của 1 DM là l/p =1/1 hàng hóa
(cốc nước ngọt ) và
tháng 10/1923 giá của một DM là 1/192000000 (cốc nước
ngọt ) .Gía trị
của DM hay sức trao đổi thành nước ngọt giảm xuống
một cách khủng

khiếp trong vịng 22 tháng. Như vậy có thể hiểu một
cách khái quát rằng :
lạm phát là sự giảm giá trị hay sức trao đổi thành
hàng hóa khác của tiền.
Vậy đế làm rõ hơn thực chất lạm phát là gì ? Trong
lịch sử đã có rất nhiều
quan điểm về thực chất lạm phát là gì ,đế có được cái
nhìn tồn diện hơn về
lạm phát ta xem xét một số quan điểm sau :
a. Quan điểm về lạm phát
- Quan điểm của Mác về lạm phát : Quan điểm của Các Mác : Theo quan
điểm của các nhà kinh tế học cổ điển và cận đại thì lạm phát dưới chủ nghĩa
tư bản là sự tràn ngập trên các kênh và các luồng những tờ giấy bạc thừa
gây nên sự tăng lên của giá cả của các mặt hàng trong nền kinh tế ,đại biểu


- cho quan điểm này là Mac, Ồng quan niệm ràng lạm
phát là do nhà nước tư
bản tạo ra đế nhằm bóc lột giai cấp cơng nhân ,lạm
phát hồn tồn mang
tính chất chính trị , như vậy theo ơng muốn loại bỏ
hồn tồn lạm phát thì
phải tiêu diệt nhà nước tư bản vì chính nhà nước tư
bản là gốc rể sinh ra
lạm phát nhưng trên thực tế lại cho thấy lại hồn
tồn khác ở các nước
CNXH cũ thì lạm phát vẫn tồn tại như các nước đông Âu
,Liên xô cũ ,việt
nam ...do vậy có thể chắc chắn mà khắng định rằng lạm
phát khơng mang

tính chích trị mà lạm phát là một hiện tượng kinh
tế ,muốn tìm hiểu về lạm
phát phải quan sát dưới góc độ và các phương pháp
phân tích kinh tế phù
hợp ,đây là một quan điếm khơng tồn diện về lạm phát
vì Mác khơng xem
xét lạm phát dưới góc độ là một hiện tượng kinh tế
- Quan điểm của phái tiền tệ (Milton Friedman): thứ nhất chúng ta
hãy nhìn kết quả của việc cung tiền tệ tăng lên và kéo dài, khi sử dụng cách
phân tích của phái tiền tệ ( Hình 1 ) :ban đầu nền kinh tế ở điểm cắt nhau
của AD1 và AS1 với sản phẩm ở tại mức tỷ lệ tụ’ nhiên và mức giá cả tại
P1 .Neu cung tiền tệ tăng lên đều đặn và dần dần trong suốt cả năm thì
đường tổng cầu di chuyển dần dần sang phải đến AD2 .Trước tiên trong
một thời gian rất ngắn ,nền kinh tế có thể chuyển động đến điểm 1 ’ và sản
phẩm có thể tăng lên trên mức tỷ lệ tự nhiên đến Y\nhưng kết quả giảm
thất nghiệp xuống dưới mức tỷ lệ tự nhiên sẽ làm cho lương tăng lên và
đường tổng cung sẽ nhanh chóng di chuyển vào ,nó sẽ dừng di chuyến khi
nào đạt đến AS2, tại thời điểm đó nền kinh tế quay trở lại mức tự nhiên của
sản phẩm trên đường tổng cung dài hạn , ở điểm cân bằng mới ,điểm 2 mức
giá tăng từ P1 lên P2


Neu năm sau đó cung tiền tệ tăng lên ,đường tổng cầu sẽ lai di chuyển đến
AD3 và đường tổng cung sẽ di chuyển vào tư AS2 đến AS3 nền kinh tế sẽ


chuyển động sang điểm 2’và sau đó sang 3 ,tại đây mức giá cả tăng đến
P3 .Neu cung tiền tệ tiếp tục trong những năm tiếp theo ,thì nền kinh tế sẽ
tiếp tục chuyển động đến mức giá càng cao hơn nữa. Khi mà cung tiền tệ
cịn tăng thì q trình này sẽ tiếp tục và lạm phát sẽ xãy ra.

AS4

Các nhà tiền tệ có tin rằng một mức giá cả tăng kéo dài có thể do bất kì
ngun nhân nào khác ngoài việc tăng cung tiền tệ gây nên khơng ? Câu trả
lời là “khơng” .Trong cách phân tích của phái tiền tệ cung tiền tệ được coi
là nguyên nhân duy nhất làm di chuyến đường tống cầu ,do vậy khơng có
cái gì nữa có thể làm cho nền kinh tế chuyển từ điểm 1 sang 2 ,3 và xa hơn
nữa. Cách phân tích của phái tiền tệ chỉ ra rằng lạm phát nhanh có thể do sự
tăng cao của cung tiền tệ thúc đẩy .

Quan điểm của phái Keynes : cách phân tích của phái Keynes chỉ
ra rằng cung tiền tệ tăng kéo dài sẽ có ảnh hưởng sẽ có ảnh hưởng như nhau


đối với đường tổng cầu và đường tống cung mà chúng ta thấy trong hình 1;
đường tổng cầu sẽ dichuyển sang phải và đường tổng cung sẽ di chuyển
vào ,giống như kết luận của phái tiền tệ việc tăng nhanh cung tiền tệ sẽ làm
cho mức giá tăng kéo dài với tỷ lệ cao ,do vậy gây nên lạm phát.
Chính sách tài chính tự nó có thể gây nên lạm phát không ? đế xem xét vấn
đề này chúng ta hãy xem hình 2 (minh họa ảnh hưởng của việc tăng thường
xuyên từng đợt chi tiêu của chính phủ- chẳng hạn như từ 500 tỷ VND lên
600 tỷ VND) đối với tổng sản phẩm và mức giá cả . Lúc đầu chúng ta đang
ở điểm l,tại đó sản phẩm ở mức tự nhiên và mức giá cả Pl. Tăng lên trong
chi tiêu của chính phủ di chuyển đường tổng cầu ra đến AD2 và chúng ta
chúng ta chuyển đến điểm 1’ tại đó sản phẩm ở trên mức tự nhiên tại
Y1 .Đường tổng cung sẽ bắt đầu di chuyển vào ,cuối cùng đạt đến điểm
AS2 tại đó nó cắt đường tổng cầu AD2 tại điểm 2 ở đó sản phẩm lại ở mức
tự nhiên và mức giá tăng lên đến P2
p


Hình2

P2
P1

0

Y1

Ket quả của việc tăng thường xuyên từng đợt chi tiêu của chính phủ là việc
tăng thường xuyên từng đợt của mức giá cả .Khi có một đợt tăng chí tiêu
mới của chính phủ thì dẫn đến việc sẽ có một tỷ lệ lạm phát dương (từ 1 lên
V) ,nhưng cuối cùng chúng ta đến điểm 2 thì tỷ lệ lạm phát quay trở lại


bàng khơng .Nên ta có thể thấy rằng việc tăng một đợt
trong chi tiêu của
chính phủ chỉ đưa đến một đợt gia tăng tạm thời của lạm
phát chứ không
phải một mức lạm phát mà trong đó mức giá cả tăng kéo
dài
Tuy nhiên nếu chi tiêu của chính phủ gia tăng kéo dài thì chúng ta sẽ có một
mức lạm phát tăng kéo dài ,nhưng việc tăng chi tiêu kéo dài khơng phải là
một việc có thể dễ dàng thực hiện được vì có giới hạn của ngân sách chính
phủ . Tuy nhiên điều này cho chúng ta thấy rằng có thể bác bỏ quan điểm
của Friedman là lạm phát lúc nào cũng là kết quả của sự tăng trưởng tiền tệ
Tóm tắt :

Việc phân tích tổng cung và tổng cầu của chúng ta cho thấy


rằng các quan điểm của các trường phái Keynes và trường phái tiền tệ về
quá trình lạm phát không khác nhau lắm , cả hai đều tin rằng lạm phát cao
có thể xảy ra chỉ với một tỷ lệ tiền tệ tăng trưởng cao . Thừa nhận rằng lạm
phát có nghĩa là một sự tăng kéo dài của mức giá cả với tỷ lệ nhanh ,đại đa
số các nhà kinh tế đều tán thành với Milton Friedman rằng :”Lạm phát bao
giờ và ở đâu cũng là một hiện tượng tiền tệ”
Quan điếm của các nhà kinh tế học tân cố điển (P.Samelson): lạm
phát chính là sự tăng lên của giá bánh mỳ ,giá ô tô tăng, chi phí sản xuất
tăng tất cả các thứ này cho chúng ta biết rằng lạm phát chính là sự gia tăng
của mặt bằng giá cả của tất cả các lĩnh vực trong nền kinh tế . “Đọc cuốn
Kinh tế học của Paul A. Samuelson và W.D. Nordhaus.. thì chúng ta sẽ bắt
gặp khái niệm “lạm phát giá cả” và những luận giải của ơng về quan điểm
của mình .
Sau khi đã tìm hiều các quan điểm của các nhà kinh tế học ,các
trường phái kinh tế chúng ta có thể hiểu được thế nào là lạm phát và bản


chất kinh tế của lạm phát một cách tương đối đầy đủ . Như theo
R.Jackman.C.Muley và J.Trevithich thì “Lạm phát có thể được định nghĩa
đúng nhất là xu hướng duy trì mức giá chung cao”. Hoặc “lạm phát là một
quá trình tăng giá liên tục ,tức là mức giá chung tăng lên hoặc là quá trình
đồng tiền liên tục giảm giá “...........
b. Phân loại lạm phát :

Ta có thể phân loại lạm phát về theo mặt

định tính hoặc định lượng . về mặt định tính chúng ta sẽ chia lạm phát
thành : lạm phát thuần túy ,lạm phát cân bằng và lạm phát không cân
bằng ... .nhưng trong thực tế chúng ta thường hay sử dụng đó là cách phân
loại lạm phát trên mặt định lượng là chủ yếu ...Chúng ta sẽ tiếp cận lạm

phát trên mặt định lượng
Dựa trên độ lớn nhỏ của tỉ lệ % lạm phát tính trên năm người ta chia lạm
phát tính trên năm ,người ta chia lạm phát làm các loại :
lạm phát một chữ số (lạm phát vùa phải): đây là loại lạm phát nhỏ hơn 10%
một năm ,nếu nền kinh tế đang trong tình trạng lạm phát ở mức này thì có
thê nói đây là một nên kinh tê khá ơn định . ơ mức lạm phát này khơng
những nó khơng ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế mà nó cịn ảnh hưởng một
cách tích cực nhiều hơn ,nó đảm bảo cơng ăn việc làm ,duy trì lực lượng lao
động và tình trạng thất nghiệp , kích thích các doanh nghiệp sản xuất với
mức sản lượng lớn hơn . Đối với loại này thì tuỳ theo chiến lược và chiến
thuật phát triển kinh tế mỗi thời kỳ mà các Chính phủ có thể chủ động định
hướng mức khống chế trên cơ sở duy trì một tỷ lệ lạm phát là bao nhiêu để
gắn với một số mục tiêu kinh tế khác: Kích thích tăng trưởng kinh tế, tăng
cường xuất khẩu và giảm tỷ lệ thất nghiệp trong các năm tài khoá nhất định


Lạm phát hai chữ số (lạm phát phi mã ) : khi giá cả bắt đầu tăng đến hai chữ
số mỗi năm , Đây là tỷ lệ lạm phát vượt ra ngồi khả năng kiểm sốt của
NHTW thì lạm phát sẽ trở thành kẻ thù của sản xuất và thu nhập thực tế ,nó
sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ và để lại những hậu quả xấu cho nền kinh tế như
thất nghiệp,phân phối thu nhập , tệ nạn với sản lượng của nền kinh tế ,tới nợ
nước ngồi .. .v..v..nó sẽ trở thành nỗi lo ngại đối với các nền kinh tế ..
Siêu lạm phát (lạm phát trên 100%) :Trong lịch sử đã chứng kiến nhiều
“cơn “lạm phát ở rất nhiều nước lên tới trên ba chữ số như lạm phát ở
Bolivia năm 1985 đến 11000 %/năm, đó là tình trạng vào 1/1/1985 nếu một
chiếc bánh ngọt có giá bằng 1 đồng Bolivia ,thì đến 1/1/1986 (sau một năm )
nó có giá là 111 đồng (hay tăng lên gấp 111 lần ) và điển hình nhất là siêu
lạm phát ở Đức (1922-1923) kể từ tháng 11/1922 đến tháng 11/1923 giá cả
hàng hóa bình qn ở Đức tăng 1500 tỷ lần so với mức trước năm
1914 ,điều đó tương đương với việc mua một con tem vào năm 1914 có giá

là 29 xen MỸ thì đến năm 1923 con tem ấy có giá là 435 USD . Rồi siêu
lạm phát ở việt nam vào những năm 80 của thế kỉ trước lên tới hơn 700%
và hậu quả nó gây ra cho các nền kinh tế là rất to lớn
c . Đo lường lạm phát :

Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi

sự thay đổi trong giá cả của một lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong
một nền kinh tế , Các giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ được tố hợp
với nhau để đưa ra một chỉ số giá cả để đo mức giá cả trung bình, là mức
giá trung bình của một tập hợp các sản phẩm . Tý lệ lạm phát là tỷ lệ phần
trăm mức tăng của chỉ số này ,
Điều này được thể hiện qua công thức sau : Lt = ( Pt-Pt-1 ) / Pt-1 .
Trong đó : Lt - tỷ lệ lạm phát giai đoạn t


t - là giai đoạn tính lạm phát
Pt - là tồng giá cả

giai đoạn t

Pt-1 -là tổng giá cả giai đoạn t-1
(t-1 và t là hai giai đoạn kế tiếp nhau )

Trên thực tế không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát
vì giá trị của chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi
hàng hóa trong chỉ số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà
nó được thực hiện. Các phép đo phổ biến của chỉ số lạm phát bao gồm :
Trong thực tế đa số ở các nước trên thế giới người ta thường sử dụng hai chỉ
số chủ yếu :đó chính là chỉ số giá tiêu dùng và hệ số điều chỉnh GDP :

- Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là chỉ số quan trọng mà một số nước thường lấy
để đo tỷ lệ lạm phát và được xem là để đo lường chi phí liên quan đến rổ
hàng hóa và
(CPI)

dịch vụ cụ thể đượcngười tiêu dùng mua .

Chỉ số giá tiêu dùng

được tính theo cơngthức sau
CPI = (ỵ Pit.Qio) / (ỵ Pio.Qio)
Trong đó : Pit - là giá hàng hóa sản phẩm i trong giai đoạn t
Pio - là giá hàng hóa sản phẩm i trong giai đoạn cơ sở
Qio - là tổng lượng hàng hóa sản phẩm i (i=l đến n ). Trong

giai đoạn cơ sở( rổ hàng hóa được ấn định đối với một năm cơ sở và Q là
trọng số ,n là tổng sản phẩm ).


Cách tính CPI khơng phải là cộng các giá cả lại và chia cho tổng khối
lượng sản phẩm mà là cân nhắc từng mặt hàng theo tầm quan trọng của nó
trong nền kinh tế
-

Chỉ số giảm phát GDP được coi là chỉ số phản ánh bình quân giá của tất

cả các hàng hóa và dịch vụ được sản xuất trong nước . Do vậy ,chỉ số này
có thể nói là tồn diện hơn chỉ số giá GDP vì nó bao quát hết tất cả các loại
hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế .Chỉ số này được dùng để tính giảm
phát GDP danh nghĩa và GDP thực tế . Có thể tính chỉ số giảm phát GDP

theo cơng thức sau :
LGDP = GDP(danh nghĩa) / GDP (thực tế ) = (X Pit.
Qit) / X Pio.Qit)
Trong đó : LGDP - là chỉ số giảm phát GDP (chỉ số Paasche)
Qit - là lượng hàng hóa sản phẩm i ( i=l đến n) trong giai
đoạn t
Ngoài hai chỉ tiêu quan trọng trên thì trong thực tế người ta cịn sử
dụng một số chỉ tiêu khác như : - Chỉ số giá sinh hoạt (viết tắt tiếng Anh:
CLI)
-

Chỉ số giá sản xuất ( PPI)

-

Chí số giá bán bn

-

Chí số giá hàng hóa

-

Chỉ số giá chi phí tiêu dùng cá nhân ( PCEPI).
Trên đây là các chỉ số để đo lường lạm phát trong nền kinh tế ,trong từng
nền kinh tế ,từng điều kiện cụ thể của từng quốc gia mà họ sẽ sử dụng


những chỉ số khác nhau để đo lường mức lạm phát của nước mình ,các chỉ
số này cho biết mức lạm phát chung của mình cũng như mức độ tăng giá

của từng mảng trong nền kinh tế ( như mảng về sản xuất ,tiêu dùng ...).

2 . Nguyên nhân của lạm phát
Sau khi đã hiểu về bản chất của lạm phát là như thế nào thì đặt ra cho chúng
ta câu hỏi tại sao lại có lạm phát ? Nguyên nhân gì đã sinh ra lạm phát ?
Trên thực tế thì lạm phát ở các nước khác nhau ,xãy ra ở những thời kì khác
nhau là do những nguyên nhân khác nhau ..Tuy nhiên khơng vì thế mà lạm
phát khơng có những nguyên nhân cụ thể ,..bằng việc tống hợp ở nhiều
nước trên thế giới và qua nhiều thời kì ,giai đoạn phát triển khác nhau của
các nền kinh tế thì theo các nhà kinh tế học hiện đại nguyên nhân của lạm
phát được xuất hiện từ ba nhóm chủ yếu sau : Đó là nhóm do cơ cấu , do
tăng trưởng tiền tệ và do thâm hụt ngân sách nhà nước............
Thứ nhất : Nguyên nhân do cơ cấu . Trong nhóm nguyên nhân gây ra lạm
phát này chúng ta sẽ đi vào hai nguyên nhân đó là hiện tượng cầu kéo và
hiện tượng chi phí đẩy
Hiện tượng cầu kéo :lạm phát do cầu kéo thực chất là do sự mất cân đối
giữa tơng cung và tổng cầu hàng hóa dịch vụ trong nền kinh tế ,do những cú
sốc về cầu diễn ra đột ngột
Xét một nền kinh tế đang ở mức tiềm năng Q1 tại đó mức giá chung của
nền kinh tế là tại p 1 đột nhiên nền kinh tế phải chịu ảnh hưởng của một cú
sốc cầu ,có thể là trong nước hay quốc tế (Ví dụ : như chiến lược phát triển
kinh tế của một nước chẳng hạn làm cho cầu đầu tư tăng lên một cách đột


biến ,làm đường tống cầu của nền kinh tế dịch sang phải
(từ AD1 sang
AD2 ) ,sau một thời gian làm cho mức cân bàng của nền
kinh tế chuyển
sang một trạng thái mới ( được giả thiết là nền kinh tế
đang ở mức tồn

dụng nhân cơng do đó khơng có sự thay đổi của tổng cung
đường tổng
cung không thay đổi ) ,tại đó mức sản lượng của nền kinh
tế tăng lên mức
Q2 ( Q2 lớn hơn Ql) và mức giá chung của nền kinh tế lên
đến mức P2( P2
lớn hơn Pl)...Nhưng mà trong thực tế thì khi cầu tăng sẽ
làm cho cung tăng
một lượng chút ít ,sự gia tăng của cung nhỏ hơn rất
nhiều so với sự gia tăng
của cầu do những giới hạn về nguồn lực, con người (Gia
tăng làm các hãng
tăng cường sản xuất đế thu lợi nhuận lớn hơn làm cho
đường tổng cung của
nền kinh tế dịch chuyển sang phải (từ AS1 sang AS2 ) ..
lạm phát do cầu
kéo sẽ làm mức sản lượng của nền kinh tế tăng lên và mức
giá chung của
nền kinh tế cũng tăng lên theo đó.............Đây là theo kinh tế học của Keynes
về phân tích tổng cung ,tổng cầu ( AD-AS ).


Trong khi đó, chủ nghĩa tiền tệ giải thích rằng do tổng cầu cao hơn tổng
cung, người ta có cầu về tiền mặt cao hơn, dẫn tới cung tiền phải tăng lên để
đáp ứng. Do đó có lạm phát.


• Hiện tượng chi phí đẩy :

Chi phí của sản xuất là yếu tố cấu thành nên giá


cả hàng hóa cho nên sự biến động của chi phí sản xuất là nguyên nhân thứ
hai có thể gây ra lạm phát,..các nhân tố có thể ảnh hưởng trực tiếp đến chi
phí sản xuất là : Nguyên vật liệu (do tính chất khan hiếm của NVL ,đirợc
khai thác trong tự nhiên nên khi trữ lượng giảm xuống sẽ làm giá cả của nó
tăng lên ). Thứ hai là chi phí để mua sức lao động .Thứ ba là chi phí vốn
( hiện nay chi phí huy động vốn ngày một cao hơn ) . Ngồi ra thì doanh
nghiệp cịn bị rất nhiều áp lực từ phía nhà nước có thể làm giá sản phẩm
tăng cao (như phí và thuế thu nhập..)
Các chi phí sản xuất này khi tăng trong cả nền kinh tế sẽ làm cho mặt bằng
giá cả của hàng hóa sẽ tăng cao gây nên lạm phát:
(Mức giá)

0

Q2

Q1

Q

Khi các yếu tố chi phí trên tăng lên ,làm cho tại mỗi mức giá lượng cung sẽ
giảm xuống làm đường tổng cung của nền kinh tế dịch chuyển sang phải
(AS1 lên AS2 -hình trên ) tại điểm cân bằng mới của nền kinh tế , sản
lượng giảm từ Q1 xuống Q2 và mức giá tăng từ P1 lên P2 nền kinh tế rơi
vào vừa suy thoái vừa lạm phát..


Ví dụ : Năm 1973 , 1978 OPEC nâng giá dầu mỏ ,năm 1990-1991 khủng
hoảng vịnh persian ,cả ba lần giá cả hàng hóa bình qn ở hầu hết các nước

trên thế giới đều tăng
Trên đây chúng ta đã tìm hiểu nguyên nhân thứ nhất của lạm phát
đó là lạm phát do cơ cấu (cầu kéo và chi phí đẩy ) ,tiếp theo chúng ta sẽ tìm
hiểu nguyên nhân thứ hai sinh ra lạm phát đó là nguyên nhân do nguyên
nhân từ phía tiền tệ .
Nguyên nhân thứ hai : Nguyên nhân tăng trưởng tiền tệ .
Khi có nền kinh tế có sự tăng trưởng tiền tê một cách quá

mức và kéodài

thì cũng gây nên hiện tượng lạm phát ( khi Y tăng 1 % thì lượng tiền cung
ứng cần thiết cho lưu thơng hàng hóa chỉ cần tăng nhỏ hơn 1% ,nhưng trong
thực tế khi Y tăng lên 1% thi lượng cung tiền thực tế thường tăng với một
mức độ lớn hơn 1% đây chính là tăng quá mức và quá trình này kéo dài thì
sẽ gây nên lạm phát do tăng trưởng tiền tệ ) :
Neu gọi Ms là mức cung tiền danh nghĩa p là giá cả bình

quân và

L



mức cung tiền thực tế thì: Ls= ( Ms / p )
Gọi Ml là nhu cầu về tiền danh nghĩa thì Ld sẽ là nhu cầu về tiền thực
tế ,với :

Ld = ( Md / p )

Milton Friedman đặt tên cho các khái niệm này vào thập niên 50 của thế kỉ

trước .Và nhu cầu tiền thực tế trong nền kinh tế Ld được xác định bởi công
thức :

Ld = Md / p =a. YAb

Thị trường tiền tệ chỉ quân bình khi lượng cung về tiền thực tế là tương
đương với lượng cầu tiền thực tế . nghĩa là : Ls = Ld + a.YAb . Vì a và b


theo Friedman - là những hắng số khá ổn định về mặt dài
hạn ,nên thị
trường chỉ cân bằng nếu Ls và Ld tăng gần tương đương
với mức tăng của
Y . Do vậy khả năng ngược lại là khi Y cố định về mặt
ngắn hạn ,sự tăng
cung tiền tệ Ms sẽ chỉ có thể được cân đối nếu có sự
tăng tương ứng của
cầu tiền tệ danh nghĩa Md. Vì thị trường tiền tệ ln
ln có xu hướng quay
về cân bằng ở vị trí mà : Ms / p = Md / p = a.YAb
Neu Y không đổi ,a và b không đổi ,thì Ms chỉ tăng nếu một trong ba
trường hợp sau xảy ra : - Md phải tăng tương ứng để tạo thế cân bằng
p phải tăng
Md và p cùng tăng
Vì Md là cố đinh vào những lúc Ms tăng đột ngột cho nên chỉ có trường
hợp 2 xãy ra là một cách phố biến nhất :giá cả phải tăng đế tạo thế cân bàng
trên thị trường tiền tệ
về mặt thực tế khi cung ứng tiền danh nghĩa tăng một tỷ lệ là ÀMs , nó sẽ
gây ra lạm phát với tỷ lệ chính thức là bằng tỷ lệ tăng của cung ứng tiền
danh nghĩa trừ đi tỷ lệ tăng của nhu cầu tiền danh nghĩa chia cho tống của 1

cộng với tỷ lệ tăng trong nhu cầu tiền về danh nghĩa
Rõ ràng dù nhu cầu tiền danh nghĩa có tăng hay khơng thì mọi sự tăng lên
của cung ứng tiền tệ danh nghĩa - về mặt ngắn hạn -đều nhanh chóng gây


nên lạm phát ... Đây là một nguyên nhân khá phổ biến gây nên hiện tượng
lạm phát ở các quốc gia trên thế giới
c. Nguyên nhân thứ ba : Bội chi ngân sách nhà nước (Ngun nhân tị
phía chính phủ ).



×