Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (559.66 KB, 14 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>MỞ ĐẦU </b>
<b>1. Tính cấp thiết của đề tài </b>
Tư duy lý luận là cấp độ phát triển cao của nhận thức con người. ở cấp độ đó, nhận thức có khả năng nắm
<i>bắt tương đối chính xác về bản chất của các khách thể. Nhưng tư duy lý luận đòi hỏi hoạt động của các khái </i>
niệm. Những khái niệm trong tư duy lý luận diễn tả một cách có hệ thống về bản chất và quy luật của khách
<i>thể, đồng thời là mơ hình tinh thần tương đối đầy đủ về thực tiễn của con người với khách thể. Vai trò chỉ đạo </i>
thực tiễn con người của tư duy lý luận, vì vậy thể hiện tập trung và rõ nhất ở hoạt động của các khái niệm.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta chủ trương đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời
<i>sống xã hội mà trước hết là đổi mới tư duy, trong đó đổi mới tư duy kinh tế là khâu đột phá. Đổi mới tư duy </i>
nhằm khắc phục những gì đã trở nên lạc hậu, giáo điều, kinh nghiệm chủ nghĩa trong tư duy của cán bộ, đảng
<i>viên và nhân dân, song quan trọng là nâng cao năng lực tư duy lý luận của Đảng nhằm tích cực chỉ đạo thực </i>
tiễn xây dựng và phát triển đất nước.
Đổi mới tư duy trở thành đòi hỏi cấp bách hơn khi đất nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa và hiện đại hóa. Việc định hướng mục tiêu, xác định nhiệm vụ, nội dung, điều kiện, phương tiện, phương
pháp cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa là thuộc về chức năng của tư duy lý luận. Vậy, nhiệm vụ hiện nay của
<i>đổi mới tư duy ở nước ta, chủ yếu là phát triển năng lực tư duy lý luận khoa học, trước hết trong đội ngũ cán </i>
<i>bộ và đảng viên, nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa, đưa </i>
<i>đất nước mau chóng thốt khỏi nghèo nàn, lạc hậu và trở thành một nước tiên tiến. Nhiệm vụ này đòi hỏi </i>
chúng ta chú trọng, tăng cường nghiên cứu tư duy lý luận, trong đó nghiên cứu phương diện lơgíc của khái
niệm và sự vận động của khái niệm trong tư duy lý luận là một yêu cầu trọng tâm, có tính cấp thiết.
<i><b>Từ nhận thức trên đây, chúng tơi chọn vấn đề “lơgíc vận động của khái niệm trong tƣ duy lý luận” làm </b></i>
<b>đề tài luận án của mình. </b>
<b>2. Tình hình nghiên cứu đề tài </b>
<i>Trước Mác trong Khoa học lơgíc, Hêgen đã trình bày một cách tương đối có hệ thống biện chứng của </i>
<i>khái niệm trên lập trường duy tâm. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác trên căn bản đã xác lập quan điểm </i>
<i><b>duy vật biện chứng về tư duy, về khái niệm; đặc biệt, Tư bản của Mác là một mẫu hình lơgíc biện chứng hồn </b></i>
<i>chỉnh của sự vận động cũng như vận dụng các khái niệm được thể hiện ở một khoa học cụ thể. </i>
<i>Các nghiên cứu nhận thức luận, lơgíc học về tư duy và khái niệm đã được tiến hành trong Nguyên lý </i>
<i>lơgíc biện chứng của M.M. Rơdentan, Phương pháp nhận thức biện chứng của A.P. Séptulin, Lơgíc học biện </i>
<i>chứng của E.V. Ilencốp, Triết học hỏi & đáp của Khoa Triết học thuộc Đại học Quốc gia Lômônôxốp. Các </i>
<i>nghiên cứu tâm lý học về tư duy và khái niệm được thể hiện trong Hoạt động - ý thức - Nhân cách của A.N. </i>
<i>Lêônchép, Tuyển tập tâm lý học của L.X. Vưgốtxki, Tâm lý học trí khơn của J. Piaget. </i>
<i>Những phân tích về tư duy, khái niệm và các cấp độ của chúng có thể hiện trong Nhận thức thế giới vi </i>
<i>mô của tác giả Nguyễn Duy Quý và các bài: “Khái niệm với tính cách một vấn đề triết học” của tác giả Bùi </i>
Thanh Quất và Nguyễn Ngọc Hà, “Sự hình thành và phát triển của khái niệm” của tác giả Vũ Văn Viên,
“Khái niệm lý luận” của tác giả Lưu Hà Vĩ. Những vấn đề lơgíc biện chứng và vận dụng phép biện chứng duy
vật với tính cách là lơgíc học đã được bàn luận trong các bài: “Về cấu trúc, chức năng của lơgíc biện chứng”
và “Về những điều kiện và phương thức ứng dụng thành cơng lơgíc biện chứng” của tác giả Tơ Duy Hợp,
“Lơgíc và khoa học” và “Đổi mới tư duy lý luận, tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới” của tác giả Lại Văn
Toàn, “Một số chức năng của phép biện chứng duy vật đối với sự phát triển của khoa học hiện đại” của tác giả
Đặng Hữu Toàn.
Các cơng trình trên đây đã có những kết luận quan trọng, gợi mở nhiều cho chúng tơi trong q trình thực
hiện nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận án.
2
<i><b>Luận án có mục đích: phân tích các quy luật và chiều hướng có tính quy luật hợp thành lơgíc chủ yếu </b></i>
<i>của sự vận động khái niệm trong tư duy lý luận, làm rõ thêm lập trường duy vật biện chứng trong việc giải </i>
<i>đáp những vấn đề lý luận nhận thức và lơgíc học về tư duy và khái niệm, góp phần tìm hiểu cơ sở lơgíc của sự </i>
đổi mới, phát triển khái niệm và tư duy lý luận.
<i><b>Luận án có nhiệm vụ: </b></i>
- Làm rõ sự hình thành, bản tính hoạt động cùng các đặc trưng của tư duy và khái niệm, phân biệt các
cấp độ tồn tại, phát triển cơ bản của tư duy và khái niệm, bàn luận chung về sự vận động của khái niệm và
lơgíc của khái niệm.
- Phân tích các quy luật lơgíc biện chứng cơ bản, chi phối sự vận động của khái niệm trong tư duy lý
luận.
- Phân tích các chiều hướng cơ bản, có tính quy luật của sự vận động khái niệm trong tư duy lý luận.
<b>4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu </b>
<i>Cơ sở lý luận của luận án là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đặc biệt, phép </i>
<i>biện chứng duy vật được vận dụng với tư cách là phương pháp luận của việc nghiên cứu lơgíc vận động của </i>
<i>khái niệm trong tư duy lý luận. Luận án sử dụng có hệ thống và nhất quán các phương pháp: so sánh, chú </i>
giải, phân tích và tổng hợp tài liệu sẳn có; trừu tượng hóa và khái qt hóa, lơgíc và lịch sử, v. v...
<b>5. Những đóng góp của luận án </b>
<i>- Làm rõ thêm quan điểm duy vật biện chứng về sự hình thành và các đặc trưng của tư duy, về sự hình </i>
thành, các đặc trưng và cơ cấu biện chứng của khái niệm, về sự vận động và vai trò của khái niệm trong tư
duy lý luận.
<i>- Phân biệt rõ cấp độ kinh nghiệm và cấp độ lý luận của tư duy, của khái niệm, vạch ra tương đối đầy đủ </i>
<i>và có hệ thống các đặc trưng của tư duy lý luận, khái niệm lý luận. </i>
<i>- Vạch ra tương đối có hệ thống các quy luật và các chiều hướng có tính quy luật vừa hợp thành lơgíc </i>
<i>vận động của khái niệm vừa là cơ sở lơgíc của sự phát triển khái niệm cũng như tư duy lý luận. </i>
<i>- Góp phần làm sáng tỏ các phương diện nhận thức luận và lơgíc học của phép biện chứng duy vật. </i>
<b>6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án </b>
Góp phần khẳng định lập trường duy vật biện chứng trong các các vấn đề nhận thức luận và lơgíc học về
tư duy, khái niệm, các quy luật và chiều hướng có tính quy luật của sự vận động khái niệm trong tư duy lý
<b>7. Kết cấu của luận án </b>
<i><b>CHƢƠNG 1: </b></i><b>TƢ DUY VÀ KHÁI NIỆM</b>
<b>1.1. Tƣ duy và các cấp độ của tƣ duy </b>
<b>1.1.1. Tƣ duy </b>
<i>Tư duy với tư cách là hệ tri thức hoạt động sản sinh ra tri thức, xuất hiện ở con người khi lao động được </i>
<i>phản ánh trong ý thức của họ. Tư duy con người có những đặc trưng sau đây: </i>
Tư duy con người là dạng hoạt động trí óc diễn ra bên trong ý thức. Dạng hoạt động này có kết cấu bao
<i>gồm các hành động và thao tác trí óc, xét đến cùng có nguồn gốc từ thực tiễn. </i>
Tư duy con người là một dạng nhận thức nảy sinh khi có những hệ tri thức làm tiền đề. Các hệ tri thức
tiền đề được đem lại bởi nhận thức nhưng để được đưa vào q trình tư duy, chúng phải có nội dung hoạt
động.
Với tư cách là hệ tri thức hoạt động sản sinh ra tri thức, tư duy con người có những hình thức như khái
niệm, phán đốn, suy lý.., có các phương tiện thích hợp như các tín hiệu và dấu hiệu trực tiếp, ngơn ngữ, trong
đó ngơn ngữ là phương tiện hữu hiệu nhất.
Tư duy sáng tạo xuất hiện ở con người, khi trong cuộc sống họ vấp phải vấn đề và đó là đối tượng mới
của nó; đây là q trình huy động tri thức nhằm tìm ra các giải pháp mới để giải quyết vấn đề và qua đó sản
sinh ra tri thức mới.
Tư duy con người là một chức năng của bộ não và với tư cách đó, nó là một q trình tự nhiên; nhưng tư
duy con người cũng khơng tồn tại bên ngồi xã hội, bên ngoài khối kiến thức cùng các phương thức hoạt động
mà nhân loại đã sáng tạo và tích lũy được qua lịch sử.
<b>1.1.2. Các cấp độ của tƣ duy </b>
<i>Tư duy con người có hai cấp độ tồn tại, phát triển cơ bản khác nhau về chất: tư duy kinh nghiệm và tư </i>
<i>duy lý luận. Đối tượng của tư duy kinh nghiệm là những gì cảm nhận được bằng giác quan, tồn tại hữu hình </i>
<i>trong khơng gian và thời gian cụ thể cảm tính; đối tượng của tư duy lý luận là những cấu trúc trừu tượng phổ </i>
<i>quát, thuần khiết, lý tưởng do chính tư duy tạo dựng nên. Tư duy kinh nghiệm tiếp cận khách thể trong tính </i>
<i>phân hóa, ở đây tính cá thể và đứt đoạn của đối tượng được chú trọng; tư duy lý luận tiếp cận khách thể trong </i>
<i>tính chỉnh thể, ở đây tính thống nhất nội tại và tính sinh thành lịch sử của đối tượng được chú trọng. Tư duy </i>
<i>kinh nghiệm dựa chủ yếu vào các phương pháp nhận thức có tính thực tiễn trực tiếp như quan sát và thí </i>
<i>nghiệm; tư duy lý luận dựa chủ yếu các phương pháp nhận thức lý thuyết như phân tích và tổng hợp, lơgíc và </i>
<i>lịch sử, trừu tượng và cụ thể... Tri thức kinh nghiệm thường có hình thức là cái đơn nhất, cịn tri thức lý luận </i>
<i>có hình thức là cái phổ biến. Tri thức kinh nghiệm có nội dung thường là những qui định có khn hình cụ thể </i>
cảm tính và hữu hạn; tri thức lý luận có nội dung chủ yếu thường là những qui định phổ biến, khơng có khn
hình cụ thể cảm tính.
<b>1.1.3. Những đặc trƣng của tƣ duy lý luận </b>
Tư duy lý luận có những đặc trưng sau đây:
<i>Tư duy lý luận có đối tượng là những cấu trúc trừu tượng phổ quát. Đó là những cấu trúc do chính tư </i>
duy tạo dựng theo cách trừu tượng hóa, khái quát hóa và lý tưởng hóa các quan hệ khách thể. Cho nên trong
<i>tư duy, chúng tồn tại dưới dạng thuần khiết vươn vượt khỏi giới hạn không gian và thời gian cụ thể cảm tính. </i>
<i>Tư duy lý luận tiếp cận khách thể trong tính chỉnh thể tức phản ánh khách thể trong tính thống nhất nội </i>
<i>tại và tính sinh thành lịch sử, tự phát triển, vươn vượt khỏi tính bộ phận, mảnh đoạn, đơn nhất và hữu hạn của </i>
lĩnh vực đối tượng của tư duy kinh nghiệm.
<i>Tư duy lý luận sử dụng thường xuyên, một cách tất yếu và có hệ thống các phương pháp nhận thức lý </i>
<i>thuyết như phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, lơgíc và lịch sử, trừu tượng và cụ thể... </i>
<i>Tư duy lý luận sản sinh ra các tri thức gián tiếp thường có nội dung là những tính quy định tất yếu, bản </i>
<i>chất và phản ánh khách thể dưới hình thức cái phổ biến. </i>
4
<b>1.2.1. Khái niệm </b>
<i>Trong tư duy, khái niệm là hình thức phản ánh những mối liên hệ và thuộc tính bản chất của sự vật </i>
<i>riêng rẽ hay lớp sự vật, hiện tượng nhất định bằng các dấu hiệu khác biệt cơ bản. Sự hình thành khái niệm </i>
<i>gắn với q trình phát triển của nhận thức từ cảm tính lên lý tính, thơng qua tác động của ngơn ngữ, các thao </i>
<i>tác tư duy và thực tiễn. ở bước đầu sử dụng ngôn ngữ, nhận thức con người đã vượt qua các cảm nhận giác </i>
<i>quan và tiến lên tư duy trừu tượng, nhưng tại đó mới có những ý niệm mà chưa thể có ngay khái niệm. Xây </i>
<i>Khái niệm là sự hiểu biết tương đối toàn diện và có hệ thống về bản chất, quy luật của đối tượng. Một sự </i>
hiểu biết chưa có tính tồn diện và hệ thống thì chưa phải là khái niệm.
<i>Khái niệm có bản tính hoạt động, đó là một cơ cấu gồm các ý nghĩ đã định hình và các thao tác tư duy đã </i>
<i>nhóm hợp lại. Các ý nghĩ và thao tác tư duy, xét về nguồn gốc (trực tiếp hay gián tiếp) là hình thức tinh thần </i>
<i>hóa của những hành động và thao tác thực tiễn. </i>
<i> Phương thức biểu đạt của khái niệm là thuật ngữ. Thuật ngữ dùng để chỉ khái niệm chứ không phải là </i>
khái niệm, nhưng giữa chúng cũng có sự gắn bó với nhau. Những thuật ngữ chỉ khái niệm bao hàm các nghĩa
mà trong bản thân chúng là thực tiễn và nhận thức của con người đã đúc kết lại.
<i>Là hình thức khái quát, cô đọng của những tri thức và ý nghĩ về bản chất quy luật của đối tượng, khái </i>
<i>niệm chỉ đạo một cách có hiệu quả hoạt động thực tiễn của con người. Những công cụ, sản phẩm, hành động </i>
và thao tác của thực tiễn, theo nghĩa nhất định, là kết quả của q trình hiện thực hóa các khái niệm.
<b>1.2.2. Các cấp độ của khái niệm </b>
<i>Trong tư duy, khái niệm cũng có hai cấp độ tồn tại, phát triển cơ bản khác nhau về chất: khái niệm kinh </i>
<i>nghiệm và khái niêm lý luận. Đối tượng của khái niệm kinh nghiệm tồn tại hiện có trực tiếp trong khách thể, </i>
<i>có thể cảm nhận giác quan và được phản ánh với tư cách cái đơn nhất, hữu hình; đối tượng của khái niệm lý </i>
<i>luận là những cấu trúc trừu tượng phổ quát, thuần khiết do chính tư duy tạo dựng lên theo cách trừu tượng </i>
<i>hóa, khái quát hóa và lý tưởng hóa các quan hệ khách thể. Khái niệm kinh nghiệm là sự phản ánh có tính </i>
<i>phân hóa về khách thể, trong đó đối tượng được phân chia theo những biểu hiện cá biệt; khái niệm lý luận là </i>
<i>sự phản ánh có tính chỉnh thể về khách thể, theo đó đối tượng được diễn tả trong tính thống nhất nội tại và </i>
<i>tính sinh thành lịch sử. Trong hoạt động, khái niệm kinh nghiệm dựa chủ yếu vào các quan sát và thí nghiệm, </i>
<i>cịn khái niệm lý luận dựa chủ yếu vào các phương pháp nhận thức lý thuyết. Hoạt động của khái niệm kinh </i>
<i>nghiệm có xu hướng làm sâu sắc thêm tính hữu hạn của đối tượng, còn hoạt động của khái niệm lý luận có xu </i>
<i>hướng mở rộng hơn nữa tính vơ hạn của đối tượng. Khái niệm kinh nghiệm có hình thức cái phổ biến được </i>
<i>tạo dựng từ những tri thức kinh nghiệm có hình thức cái đơn nhất; khái niệm lý luận có hình thức cái phổ </i>
<i>biến được xây dựng từ những tri thức lý luận cũng có hình thức cái phổ biến. </i>
Giữa hai cấp độ của khái niệm có quan hệ qua lại với nhau. Hoạt động của khái niệm kinh nghiệm sáng
tỏ các dữ kiện, kích thích và đặt ra những nhiệm vụ mới cho cấp độ lý luận của nó, cịn hoạt động của khái
niệm lý luận mở ra viễn cảnh rộng lớn cho cấp độ kinh nghiệm của nó tìm kiếm tài liệu và hoàn thiện các
phương pháp.
<b>1.2.3. Lơgíc của khái niệm </b>
Phân tích các quan niệm của Hêgen, Lênin và Ilencốp, chúng ta thấy quy luật và tính quy luật là đặc
<i>trưng tổng hợp của lơgíc. Vậy, lơgíc là hệ thống những mối liên hệ và trình tự có tính quy luật của các sự vật, </i>
hiện tượng. Có thể chia lơgíc thành hai loại: lơgíc khách quan và lơgíc chủ quan; trong đó lơgíc khách quan là
<i>“ngun mẫu” của lơgíc chủ quan. Lơgíc chủ quan bao hàm lơgíc của khái niệm. Lơgíc của khái niệm là hệ </i>
Đối với tư duy lý luận, các khái niệm là hình thức thể hiện đầy đủ nhất đối tượng và nội dung tri thức
của nó, là mơ hình tinh thần tương đối đầy đủ và chính xác về thực tiễn của con người với khách thể. Bởi vậy,
Do bản tính vận động của khách thể và thực tiễn cùng bản tính mâu thuẫn của nội dung tri thức, mà các
khái niệm chỉ tồn tại trong tư duy thông qua vận động. Mỗi vận động cụ thể của khái niệm, xét về cơ cấu là
<i>một thể thống nhất biện chứng của các mặt đối lập: ổn định và biến hóa. Nhưng lơgíc học có thể nghiên cứu </i>
<i>khái niệm theo những cách khác nhau. Lơgíc hình thức xét khái niệm như cái được cho, có sẵn và “tĩnh tại”, </i>
<i>cịn lơgíc biện chứng xét khái niệm trong sự vận động tức trong sự thống nhất giữa ổn định và biến hóa. Nói </i>
<i>cách khác, lơgíc hình thức nghiên cứu lơgíc tĩnh của khái niệm, cịn lơgíc biện chứng nghiên cứu lơgíc vận </i>
<i>động của khái niệm. </i>
<i>Lơgíc vận động của khái niệm là hệ thống những mối liên hệ và trình tự có tính quy luật của sự triển khai </i>
(vận động) khái niệm. Hiểu như vậy, theo chúng tơi, lơgíc vận động của khái niệm trong tư duy lý luận có hai
<i>nội dung chính. Một là, hệ thống những quy luật lơgíc biện chứng chi phối sự vận động của các khái niệm. </i>
<i>Hai là, những chiều hướng có tính quy luật của sự vận động khái niệm. </i>
<i><b>Chƣơng 2: </b></i><b>CÁC QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA SỰ VẬN ĐỘNG </b>
<b>KHÁI NIỆM TRONG TƢ DUY LÝ LUẬN</b>
Chúng tơi phân tích các quy luật cơ bản của sự vận động khái niệm trong tư duy lý luận, trên quan điểm
vận dụng triệt để phép biện chứng duy vật.
<b>2.1. Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lƣợng thành những thay đổi về chất và ngƣợc lại </b>
Mỗi khái niệm trong sự vận động, là một thể thống nhất biện chứng giữa ổn định và biến hóa. Điều đó
thể hiện tác động của quy luật chuyển hóa những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại,
trong sự vân động của các khái niệm.
<i>Tác động của quy luật này, trước hết thể hiện ở trình tự “chất - lượng - độ” của sự vận động khái niệm </i>
<i>với tư cách là quá trình nhận thức đối tượng. Trình tự đó chi phối sự vận động của khái niệm qua ba giai </i>
<i>đoạn. Giai đoạn đầu, khái niệm trong sự vận động, nhận thức đối tượng về mặt chất; đối tượng được nói lên </i>
<i>nó là cái gì trong khái niệm của nó. Giai đoạn thứ hai, khái niệm trong sự vận động, nhận thức đối tượng về </i>
<i>mặt lượng; đối tượng được nói lên nó là như thế nào trong khái niệm của nó. Giai đoạn thứ ba, khái niệm </i>
<i>trong sự vận động, nhận thức đối tượng với tính cách thống nhất của chất và lượng tức là “độ”, tạo điều kiện </i>
<i>tái hiện tương đối toàn diện bản chất đối tượng vào trong khái niệm của nó. </i>
<i>Quy luật chuyển hóa những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại, còn chi phối sự </i>
<i>vận động của các khái niệm xét như những hiện tượng độc lập. Sự vận động của khái niệm, trong đó bước </i>
chuyển từ khái niệm này sang khái niệm khác hay từ thang bậc này sang thang bậc khác của cùng một khái
niệm, đều là thay đổi về chất, mà đặc trưng của nó là tạo ra hệ thống tri thức mới diễn tả bản chất đối tượng
đầy đủ và sâu sắc hơn. Nhưng thay đổi về chất bao giờ cũng có cơ sở từ những thay đổi về lượng. Thay đổi về
lượng biểu hiện ở sự bổ sung, gia tăng dần khối lượng tri thức thành phần mà trong “giới hạn độ”, nó thống
<i>nhất với chất của khái niệm. Thống nhất giữa chất và lượng qui định sự vận động có tính liên tục của khái </i>
<i>niệm. Sự tích lũy dần khối lượng tri thức thành phần đến lúc vượt quá giới hạn độ thì trở nên xung đột với </i>
<i>chất của khái niệm, phá vỡ chất cũ và thiết lập chất mới. Xung đột giữa lượng và chất qui định sự vận động có </i>
<i>tính gián đoạn của khái niệm. Chất mới xuất hiện lại mở ra vòng khâu mới của sự vận động có tính liên tục </i>
của khái niệm. Tất cả, làm cho các khái niệm trong tư duy lý luận vận động theo những quá trình vừa liên tục
vừa gián đoạn.
<b>2.2. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập </b>
6
<i>Thứ nhất, những mâu thuẫn thuộc về đối tượng, mà các khái niệm trong tư duy lý luận là những phản </i>
ánh của chúng. Sự phản ánh mâu thuẫn đối tượng trong vận động của khái niệm là một quá trình: bước đầu,
<i>đối tượng xét như cái thống nhất trực tiếp được phân chia thành các mặt đối lập; tiếp đến, sự phân tích tìm </i>
<i>thấy những tính qui định, ràng buộc lẫn nhau giữa các mặt đối lập; cuối cùng tái diễn mâu thuẫn đối tượng </i>
<i>vào trong tri thức khái niệm, làm cho mâu thuẫn “tự nó” trở thành mâu thuẫn “cho ta”. </i>
<i>Thứ hai, những mâu thuẫn của nhận thức giữa chủ quan và khách quan, cảm tính và lý tính. Chính nhận </i>
thức thực hiện quá trình thâm nhập lẫn nhau giữa chủ quan và khách quan, cảm tính và lý tính, đã đưa các mặt
<i>đối lập ấy vào khái niệm và cấu tạo chúng thành những mâu thuẫn biện chứng của khái niệm. Sự thâm nhập </i>
lẫn nhau làm cho các mặt đối lập ấy đều được cải tạo đi, mâu thuẫn được giải quyết dẫn đến thiết lập nên
những hình thức thống nhất mới của chúng, đưa khái niệm lên thang bậc cao hơn.
<i>Thứ ba, các khái niệm trong tư duy lý luận, xét về cơ cấu hoạt động cũng bao hàm những mâu thuẫn biện </i>
<i>chứng. Đó là mâu thuẫn giữa cái phổ biến và cái đơn nhất, phân tích và tổng hợp, qui nạp và diễn dịch.., mà </i>
sự thâm nhập lẫn nhau giữa các mặt đối lập của chúng làm nên nguồn gốc, động lực “bên trong” của sự vận
động khái niệm.
ở các trường hợp nói trên, sự triển khai mâu thuẫn được thực hiện thông qua thâm nhập lẫn nhau giữa các
mặt đối lập, còn sự giải quyết mâu thuẫn được thực hiện thơng qua việc thiết lập hình thức thống nhất mới,
cao hơn của các mặt đối lập.
<b>2.3. Quy luật phủ định của phủ định </b>
Sự chuyển hóa biện chứng giữa chất và lượng, sự triển khai và giải quyết mâu thuẫn, làm cho các khái
niệm trong tư duy lý luận vận động tuân theo quy luật phủ định của phủ định.
<i>Tác động của quy luật này, trước hết thể hiện ở trình tự “khẳng định - phủ định - phủ định của phủ </i>
<i>định” của sự vận động khái niệm với tư cách là quá trình nhận thức đối tượng. Trình tự đó chi phối sự vận </i>
<i>động của khái niệm qua ba giai đoạn. Giai đoạn đầu, khái niệm trong sự vận động, nhận thức đối tượng với </i>
<i>tính cách cái khẳng định, phát hiện ra các yếu tố có tác dụng duy trì sự tồn tại và nói lên tính ổn định, tính xác </i>
<i>định của đối tượng. Giai đoạn thứ hai, khái niệm trong sự vận động, nhận thức đối tượng với tính cách là cái </i>
<i>phủ định, phát hiện ra những yếu tố đó có tác dụng đẩy cho đối tượng đi vào biến đổi, chuyển hóa thành cái </i>
<i>khác. Giai đoạn thứ ba, khái niệm trong sự vận động, nhận thức đối tượng với tính cách là cái phủ định của </i>
<i>phủ định, khám phá bản chất đối tượng bằng việc tổng hợp trên trình độ cao cái phủ định với cái khẳng định, </i>
vạch ra tính thống nhất nội tại của chúng.
<i>Quy luật phủ định của phủ định còn chi phối sự vận động của các khái niệm xét như những hiện tượng </i>
<i>độc lập. Tác động của quy luật làm cho các khái niệm vận động theo những chu kỳ. Trong mỗi chu kỳ vận </i>
<i>động, khái niệm trải qua hai lần phủ định cơ bản. Phủ định lần thứ nhất làm cho khái niệm trở thành đối lập </i>
<i>với cái ban đầu của nó; phủ định lần thứ hai làm cho khái niệm tái hiện lại một số nội dung của cái ban đầu </i>
<i>ấy trên cơ sở cao hơn. Phủ định lần thứ hai tổng hợp ở trình độ cao các thang bậc trước đây của khái niệm và </i>
<i>hoàn thành mỗi chu kỳ vận động của nó, là phủ định của phủ định. Nhờ sự tổng hợp trong phủ định của phủ </i>
<i>định, khái niệm vận động lên thang bậc hồn thiện hơn của nó. Tính chu kỳ nói lên hình thức xốy ốc của sự </i>
vận động khái niệm trong tư duy lý luận.
<b>2.4. Quy luật đi từ trừu tƣợng đến cụ thể </b>
Tác động có tính tổng hợp các quy luật trên đây tạo thành hình thức thống nhất các u cầu của chúng, và
<i>đó chính là quy luật đi từ trừu tượng đến cụ thể nói lên hình thái tổng thể của sự vận động các khái niệm trong </i>
tư duy lý luận.
<i>Tác động của quy luật này trước hết biểu hiện thành quá trình, tư duy lý luận xây dựng, triển khai và cấu </i>
<i>tạo các khái niệm thành hệ thống, theo đó diễn tả tương đối đầy đủ bản chất của đối tượng. Về toàn bộ, tư </i>
<i>cụ thể nhất (theo nghĩa tương đối) với hai điều kiện chính. Một là, trước đó tư duy phải tiến hành q trình </i>
phân tích và trừu tượng hóa để rút ra những tính qui định cho việc xây dựng các khái niệm (trừu tượng) ban
<i>đầu về đối tượng. Hai là, bản thân đối tượng trong thực tế đã trưởng thành. Cùng với những điều kiện đó, việc </i>
<i>triển khai hệ thống khái niệm đi từ trừu tượng đến cụ thể còn phải tuân thủ một loạt yêu cầu: quán triệt quan </i>
điểm phát triển, thường xuyên liên hệ với hiện thực, kinh nghiệm và thực tiễn, trong mỗi bước tiến phải gắn
tổng hợp với phân tích, qui nạp với diễn dịch, v.v...
<i>Quy luật đi từ trừu tượng đến cụ thể còn chi phối sự vận động của mỗi khái niệm, xét một cách riêng rẽ. </i>
Mỗi khái niệm là một cơ cấu biện chứng của các mặt đối lập, cái đơn nhất và cái phổ biến. Vận động của khái
niệm được triển khai theo hai vòng khâu đồng thời của sự thâm nhập lẫn nhau giữa cái đơn nhất và cái phổ
<i>biến. Sự thâm nhập của cái đơn nhất vào cái phổ biến chủ yếu bằng phân tích, thể hiện sự vận động khái niệm </i>
<i>đi từ cụ thể đến trừu tượng. Sự thâm nhập của cái phổ biến vào cái đơn nhất chủ yếu bằng tổng hợp, thể hiện </i>
sự vận động khái niệm đi từ trừu tượng đến cụ thể. Tính đồng thời của các vòng khâu này, cho thấy trong sự
vận động của khái niệm, cứ mỗi bước tiến lên trừu tượng lại bao hàm cả một bước tiến gần đến cụ thể. Tuy
nhiên, mỗi khái niệm trong tư duy lý luận trước hết là cái phổ biến, cho nên vận động của nó tập trung ở hoạt
<i>động của cái phổ biến, với sự thâm nhập của cái phổ biến vào cái đơn nhất là vịng khâu chính. Vậy đi từ trừu </i>
<b>2.5. Quy luật thống nhất giữa lơgíc và lịch sử </b>
Quy luật đi từ trừu tượng đến cụ thể cho thấy sự vận động của các khái niệm trong tư duy lý luận còn
chịu chi phối bởi tương quan giữa lơgíc và lịch sử. Tương quan này có hai trường hợp.
<i>Trường hợp đầu tiên là tương quan giữa khái niệm vận động trong tư duy lý luận và đối tượng tồn tại </i>
<i>trong khách thể nhận thức. ở đây, tương quan lơgíc và lịch sử của sự vận động khái niệm có ba nội dung </i>
<i>chính. Thứ nhất, quan hệ giữa lơgíc vận động của khái niệm và đối tượng tồn tại trong khách thể nhận thức: </i>
lơgíc phản ánh lịch sử, theo cách nắm lấy cái có tính quy luật và lột bỏ đi những gì chỉ có tính đơn nhất, bề
<i>ngoài và ngẫu nhiên. Thứ hai, quan hệ giữa lơgíc vận động của khái niệm và những trực quan, kinh nghiệm về </i>
đối tượng: lơgíc gạt bỏ vẻ bề ngồi, ngẫu nhiên, tính sự kiện nhất thời của những trực quan và kinh nghiệm
(cái lịch sử) đồng thời giữ lại, uốn nắn, sắp xếp một cách nhất qn những gì của chúng mách bảo tính quy
<i>luật. Thứ ba, quan hệ giữa con đường lơgíc và con đường lịch sử của sự nhận thức đối tượng trong vận động </i>
của khái niệm; con đường lơgíc rút ngắn, nâng cao và hoàn thiện con đường lịch sử.
<i>Trường hợp tiếp theo là tương quan giữa sự vận động khái niệm trong tư duy lý luận và sự vận động khái </i>
<i>niệm trong lịch sử nhận thức của nhân loại. ở đây, tương quan lơgích và lịch sử của sự vận động khái niệm có </i>
<i>hai nội dung chính. Thứ nhất, lơgíc vận động của khái niệm trong tư duy lý luận của cá nhân tái lập lại dưới </i>
<i>dạng rút ngắn lịch sử của nó trong nhận thức nhân loại. Thứ hai, lơgíc vận động của khái niệm trong tư duy lý </i>
<i>luận của con người xã hội là sự rút gọn, tổng kết và nâng lên trình độ cao nhất (trình độ hiện đại) lịch sử của </i>
nó trong nhận thức nhân loại.
<i>Hai trường hợp của tương quan lơgíc và lịch sử, chính là nội dung của quy luật thống nhất giữa lơgíc và </i>
<i>lịch sử của sự vận động khái niệm trong tư duy lý luận. Tác động của nó vừa nói lên các phương diện phổ </i>
<i>biến của sự vận động khái niệm, vừa đặt ra một loạt yêu cầu của nguyên tắc thống nhất lơgíc và lịch sử đối </i>
với việc xây dựng, triển khai, vận dụng các khái niệm trong tư duy lý luận.
ở trường hợp tương quan giữa khái niệm vận động trong tư duy lý luận và đối tượng tồn tại trong khách
<i>thể nhận thức, nguyên tắc này có hai yêu cầu chủ yếu. Một là, để vạch ra quy luật, bản chất của đối tượng, sự </i>
<i>vận động của khái niệm phải bao quát nó trong tính tồn bộ lịch sử. Hai là, để tái hiện được một cách tương </i>
<i>đối đầy đủ bản chất đối tượng cần triển khai khái niệm theo những liên hệ và trình tự có tính quy luật. </i>
8
<i>triển khai, vận dụng mỗi khái niệm hay hệ thống khái niệm nào trong tư duy lý luận, cần thiết phải theo dõi, </i>
<i>tổng kết và khái quát hóa lịch sử của nó trong nhận thức nhân loại. Hai là, việc xây dựng, triển khai, vận dụng </i>
<i>mỗi khái niệm hay hệ thống khái niệm về mặt lơgíc phải phù hợp trên những nét chính với lịch sử của nó, </i>
<i>đồng thời phải nâng lên trình độ cao nhất (trình độ hiện đại) của nhận thức nhân loại. </i>
<i><b>Chƣơng 3: </b></i><b>CÁC CHIỀU HƢỚNG CƠ BẢN CỦA SỰ VẬN ĐỘNG </b>
<b> KHÁI NIỆM TRONG TƢ DUY LÝ LUẬN</b>
Chịu chi phối bởi hệ thống các quy luật lơgíc biện chứng và hệ tương tác giữa khách thể, thực tiễn với tư
<i>duy, các khái niệm trong tư duy lý luận có sự vận động theo ba chiều hướng cơ bản. </i>
<b>3.1. Sự vận động của khái niệm theo hƣớng sâu sắc thêm nội hàm và mở rộng thêm ngoại diên </b>
Các khái niệm trong tư duy lý luận đều tồn tại thông qua vận động. Trong vận động, các khái niệm
thường xuyên được mở rộng ra và nâng cao lên, bao quát ngày càng đầy đủ và sâu sắc hơn khách thể nhận
<i>thức. Đó là sự vận động của các khái niệm theo hướng vừa mở rộng thêm ngoại diên vừa làm sâu sắc thêm </i>
<i>nội hàm. Sự vận động của khái niệm theo chiều hướng này được thể hiện ngay trong cơ cấu biện chứng của </i>
nó. Mỗi khái niệm, xét về cơ cấu là một thể thống nhất biện chứng của cái đơn nhất và cái phổ biến; trong đó
cái đơn nhất thể hiện ngoại diên, còn cái phổ biến thể hiện nội hàm.
Vận động của khái niệm là một q trình diễn ra với hai vịng khâu thâm nhập lẫn nhau giữa cái đơn nhất
<i>và cái phổ biến. Vòng khâu thứ nhất, cái đơn nhất thâm nhập vào cái phổ biến đồng thời tạo dựng nên cái phổ </i>
biến; sự thâm nhập thường xuyên của cái đơn nhất làm cho nội dung của cái phổ biến luôn được bổ sung, đổi
<i>mới và trở nên sâu sắc hơn trong vận động của khái niệm. Vòng khâu thứ hai, cái phổ biến thâm nhập vào cái </i>
đơn nhất đồng thời được triển khai ra trong cái đơn nhất; cái phổ biến quán triệt ngày càng đầy đủ hơn cái đơn
<i>nhất, làm cho cái đơn nhất cũng biến đổi, được bổ sung và mở rộng ra trong sự vận động của khái niệm. Cái </i>
<i>phổ biến trở nên sâu sắc hơn chính là sự phát triển của nội hàm; còn cái đơn nhất càng được quán triệt đầy </i>
<i>đủ hơn chính là sự mở rộng của ngoại diên. Nhưng trong vận động của khái niệm, hai vòng khâu này là đồng </i>
thời; cái đơn nhất thâm nhập vào cái phổ biến ở trình độ và mức độ nào, thì cũng ở trình độ và mức độ ấy cái
phổ biến thâm nhập vào cái đơn nhất. Cho nên, mỗi khi ngoại diên được mở rộng ra trong sự vận động của
<i>khái niệm, thì nội hàm của nó không bị nghèo nàn đi mà ngược lại, trở nên đầy đủ và sâu sắc hơn. Vậy cả nội </i>
<i>hàm và ngoại diên đều khơng có sẵn và bất biến, mà được tạo lập và tái tạo lập đồng thời biến đổi trong sự </i>
<i>vận động của khái niệm. Nói cách khác, nội hàm và ngoại diên phụ thuộc vào trình độ, mức độ thâm nhập lẫn </i>
nhau giữa cái đơn nhất và cái phổ biến, nghĩa là phụ thuộc vào trình độ và phạm vi hoạt động của khái niệm
trong tư duy lý luận.
Mặc dù được thể hiện và giải thích thơng qua sự thâm nhập lẫn nhau giữa cái đơn nhất và cái phổ biến,
song dễ thấy rằng chi phối sự vận động của khái niệm theo hướng mở rộng ngoại diên và sâu sắc thêm nội
hàm chính là hệ thống các quy luật lơgíc biện chứng. Đây thực chất là q trình đi từ trừu tượng đến cụ thể và
dĩ nhiên con đường lơgíc này của sự vận động mỗi khái niệm bao hàm các vòng khâu biện chứng của sự tổng
kết và rút gọn cái lịch sử, sự chuyển hóa chất và lượng, sự triển khai và giải quyết mâu thuẫn, sự phủ định và
<b>3.2. Trong tƣơng tác với nhau, các khái niệm vận động theo hƣớng sản sinh ra khái niệm mới </b>
Nhận thức của con người xây nên trong tư duy lý luận các hệ thống vận động hay hệ thống tương tác của
<i>các khái niệm. Trong tương tác với nhau, các khái niệm vận động theo hướng sản sinh ra khái niệm mới. </i>
<i>Tương tác khái niệm có hai hệ quả: một là, các khái niệm tham gia tương tác thâm nhập, cải tạo, bổ sung lẫn </i>
<i>nhau về nội hàm và ngoại diên; hai là, sự thâm nhập lẫn nhau giữa các khái niệm tham gia tương tác làm xuất </i>
nên khái niệm mới. Tương tác khái niệm theo hướng sản sinh ra khái niệm mới trong tư duy lý luận, đòi hỏi
ba điều kiện.
<i>Điều kiện thứ nhất, tham gia tương tác với nhau trong tư duy lý luận là những khái niệm vận động. Đây </i>
là các khái niệm có nội dung tri thức dường như bao chứa hết dưới dạng cô đọng các quy luật biện chứng hợp
<i>thành lơgíc vận động nội tại của chúng và vì thế chúng tồn tại trong tư duy lý luận như những hiện tượng vận </i>
<i>động tự thân. </i>
<i>Điều kiện thứ hai, các khái niệm tham gia tương tác phải phản ánh được những khách thể có quan hệ </i>
<i>hữu cơ với nhau trong sự phát triển. Điều kiện này đảm bảo cho mỗi khái niệm trong tương tác trở thành </i>
“khâu trung giới” cho khái niệm khác. Khi được trung giới, các khái niệm tham gia tương tác chuyển hóa
nhau làm hình thành nội hàm và ngoại diên của khái niệm mới.
<i>Điều kiện thứ ba, trong tương tác có tối thiểu một khái niệm “chủ”. Đây là khái niệm chi phối sự biến </i>
đổi nội hàm cũng như ngoại diên của các khái niệm tham gia tương tác, đồng thời quyết định sự hình thành
nội hàm và ngoại diên của khái niệm mới. Sự vận động của một hệ thống khái niệm trong trường hợp này, nếu
<i>tạm thời gác lại khơng tính đến khách thể và thực tiễn, thì được quyết định bởi tương tác của khái niệm chủ </i>
<i>với các khái niệm khác. </i>
Mỗi hệ thống vận động của khái niệm hình thành và triển khai trong quan hệ tương tác, có trình độ và
phạm vi phản ánh khách thể như thế nào là phụ thuộc chủ yếu vào trình độ và phạm vi hoạt động của khái
niệm chủ. Sự mở rộng phạm vi và nâng cao trình độ hoạt động của khái niệm chủ, cũng là sự mở rộng thêm
ngoại diên và làm sâu sắc thêm nội hàm của nó. Vì vậy, đứng trên quan điểm về các khái niệm tương tác, ta
<i>hình dung được sự vận động của mỗi hệ thống khái niệm trong tư duy lý luận với hai mặt có quan hệ hữu cơ </i>
với nhau.
<i>Một mặt, với mỗi trình độ và phạm vi hoạt động xác định của khái niệm chủ, thông qua tương tác khái </i>
<i>niệm, tư duy lý luận tạo dựng nên mỗi thang bậc xác định của hệ thống khái niệm có trình độ và phạm vi </i>
phản ánh tương ứng. Mỗi thang bậc là một chất lượng xác định của hệ thống khái niệm, mà sự tồn tại của nó
<i>có thể nói là phụ thuộc vào “tương tác có tính đồng đại” giữa khái niệm chủ với các khái niệm khác. Chủ </i>
nghĩa xã hội khoa học với tính cách là hệ thống vận động của các khái niệm cũng có những thang bậc như thế;
trình độ và phạm vi phản ánh của mỗi thang bậc vừa tương ứng vừa phụ thuộc vào trình độ và phạm vi hoạt
động của khái niệm giai cấp vô sản. Vậy, một trong những nhiệm vụ lúc này của đổi mới tư duy lý luận về
<i>chủ nghĩa xã hội là, thông qua tương tác có tính đồng đại giữa các khái niệm, xây dựng thang bậc mới của hệ </i>
<i>thống khái niệm của chủ nghĩa xã hội khoa học, tương ứng với trình độ và phạm vi hoạt động hiện nay của </i>
<i>khái niệm giai cấp vô sản. </i>
<i>Mặt khác, sự bổ sung về cả nội hàm và ngoại diên làm cho khái niệm chủ vận động đi từ trừu tượng đến </i>
cụ thể, đến lượt thông qua tương tác khái niệm, nó kéo theo sự vận động của hệ thống khái niệm tương ứng
cũng đi từ trừu tượng đến cụ thể. Nghĩa là, trong tư duy lý luận diễn ra sự vận động của mỗi hệ thống khái
<i>khái niệm giai cấp vô sản với các khái niệm khác, đưa hệ thống khái niệm của chủ nghĩa xã hội khoa học lên </i>
<i>thang bậc mới, hoàn thiện và cụ thể hơn. </i>
10
<i>Tư duy lý luận bao gồm những khái niệm luôn tồn tại trong sự vận động. Trong quan hệ với thực tiễn, </i>
<i>các khái niệm của tư duy lý luận có sự vận theo hướng bổ sung, đổi mới tri thức và được hiện thực hóa. </i>
<i>Sự bổ sung và đổi mới của những tri thức khái niệm, trước hết là hệ quả trực tiếp của hoạt động tư duy. </i>
Nhưng để thực hiện được điều đó, tư duy lý luận phải liên hệ thường xuyên với thực tiễn, tiến hành tổng kết
và khái quát hóa thực tiễn cùng những tài liệu kinh nghiệm của nó. Những quan niệm mới hiện nay của Đảng
ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước, chủ yếu là kết quả của sự tổng kết,
khái quát hóa kinh nghiệm và thực tiễn lịch sử, nhất là kinh nghiệm và thực tiễn của quá trình đổi mới.
<i>Khái niệm trong tư duy lý luận là mơ hình tinh thần về đối tượng và về cả hoạt động thực tiễn của con </i>
người với đối tượng. Cho nên khi thâm nhập vào thực tiễn, khái niệm định hướng và tổ chức các hành động
của chủ thể, cịn thực tiễn thì thể hiện như là sự vận dụng và hiện thực hóa khái niệm. ở đây, khái niệm tham
gia tích cực vào quá trình thực tiễn của con người cải biến hiện thực một cách sáng tạo; còn thực tiễn tự giác
<i>thì trở thành một phương diện hoạt động của các khái niệm và tư duy lý luận. Những tiến bộ gần đây trên đất </i>
nước ta về kinh tế - xã hội, có một phần quan trọng là thành quả của sự vận dụng và hiện thực hóa thơng qua
thực tiễn các quan niệm đã được đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội.
Sự vận động theo đó các khái niệm được bổ sung, đổi mới tri thức và hiện thực hóa thông qua quan hệ
<i>với thực tiễn không phải là một hiện tượng cá biệt, mà là chiều hướng phổ biến trong mọi khoa học. Các khái </i>
niệm đều bắt nguồn và phát triển trên cơ sở thực tiễn, đồng thời chúng thường xuyên thâm nhập vào thực tiễn
<i>và được hiện thực hóa. Nguyên tắc chung của sự vận động khái niệm theo chiều hướng này chính là sự phù </i>
<i>hợp, thống nhất biện chứng giữa lý luận (theo nghĩa hoạt động) và thực tiễn. Sự phù hợp giữa lý luận và thực </i>
tiễn trong vận động của khái niệm theo chiều hướng này, làm cho cái khách quan và cái chủ quan với tư cách
là những mặt đối lập của khái niệm luôn thâm nhập, cải tạo lẫn nhau và kết thành một toàn thể thống nhất
biện chứng. Vậy ở đây, cái được mang chở và giữ vai trò chi phối sự vận động của khái niệm cũng là hệ thống
<i>các quy luật lơgíc biện chứng. Điều đó, một mặt chứng tỏ sự bổ sung, đổi mới tri thức và hiện thực hóa là một </i>
<i>chiều hướng có tính quy luật của sự vận động các khái niệm trong tư duy lý luận, mặt khác chứng tỏ chiều </i>
hướng này bao hàm cả sự mở rộng ngoại diện đồng thời sâu sắc thêm nội hàm của mỗi khái niệm và sự sản
sinh ra khái niệm mới thông qua tương tác khái niệm, như những hệ quả khác nhau của nó.
Trên quan điểm thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn trong sự vận động của khái niệm, chúng
ta thấy các khái niệm lý luận (theo nghĩa hoạt động) là một phương diện của hoạt động thực tiễn của con
người và ngược lại, thực tiễn của con người (theo nghĩa tự giác) là một phương diện hoạt động của các khái
niệm lý luận. Nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn của sự vận động khái niệm, do đó có vai trị chỉ đạo
to lớn đối với chúng ta trong đổi mới tư duy, nhất là tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội. Có thể nói, nội dung
<i>tổng quát của đổi mới tư duy lý luận hiện nay về chủ nghĩa xã hội, là khái niệm hóa thực tiễn xây dựng chủ </i>
<i>nghĩa xã hội và thực tiễn hóa các khái niệm của chủ nghĩa xã hội khoa học. </i>
<b>KẾT LUẬN</b>
<i>Sự phản ánh lao động trong ý thức của con người, làm xuất hiện tư duy với tư cách là hệ tri thức hoạt </i>
<i>động sản sinh ra tri thức. Trong tư duy, khái niệm là hình thức phản ánh những mối liên hệ và thuộc tính bản </i>
<i>chất của sự vật riêng rẽ hay lớp sự vật, hiện tượng nhất định bằng các dấu hiệu khác biệt cơ bản. Tư duy và </i>
của các khái niệm. Mỗi vận động cụ thể của khái niệm, xét về cơ cấu là một thể thống nhất biện chứng giữa
<i>ổn định và biến hóa. Nghiên cứu khái niệm là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của lơgíc học. Lơgíc </i>
<i>hình thức nghiên cứu khái niệm như cái được cho, có sẵn và “tĩnh tại”, vạch ra lơgíc tĩnh của các khái niệm. </i>
<i>Lơgíc biện chứng nghiên cứu khái niệm trong sự thống nhất giữa ổn định và và biến hóa, vạch ra lơgíc vận </i>
<i>động của khái niệm. </i>
<i>Lơgíc vận động của khái niệm trong tư duy lý luận, trước hết bao gồm hệ thống các quy luật cơ bản: </i>
chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại, thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập, phủ định của phủ định, đi từ trừu tượng đến cụ thể, thống nhất giữa lơgíc và lịch sử.
Những quy luật này lần lượt nói lên cách thức, nguồn gốc và động lực, khuynh hướng, hình thái tổng thể, các
phương diện phổ biến của sự vận động khái niệm và giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ với nhau hợp thành
<i>một hệ thống. Đó chính là hệ thống quy luật lơgíc biện chứng của sự vận động cũng như sự phát triển tất cả </i>
<i>các khái niệm. Vậy, đây là nội dung chủ yếu nhất của lơgíc vận động các khái niệm, thể hiện rõ nhất hiệu lực </i>
của phép biện chứng duy vật với tính cách là phương pháp luận của việc nghiên cứu khái niệm và lơgíc vận
động của khái niệm.
Trong hệ tương tác biện chứng giữa khách thể, thực tiễn với tư duy và chịu chi phối bởi hệ thống quy luật
<i>lơgíc biện chứng, các khái niệm của tư duy lý luận có sự vận động theo ba chiều hướng cơ bản: mở rộng thêm </i>
ngoại diên và sâu sắc thêm nội hàm; sản sinh ra khái niệm mới thông qua tương tác khái niệm; bổ sung, đổi
mới tri thức và hiện thực hóa trong quan hệ với thực tiễn. Đó là những chiều hướng có tính quy luật hợp thành
<i>một nội dung chủ yếu nữa của lơgíc vận động của khái niệm và giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ với nhau </i>
trên cơ sở thực tiễn xã hội - lịch sử của con người. Vậy, có thể coi đây là ba phương diện hợp thành của một
toàn thể vận động cũng như phát triển các khái niệm trong tư duy lý luận tuân theo sự chi phối của hệ thống
quy luật lơgíc biện chứng với vai trò quyết định thuộc về thực tiễn của con người.
Với quan điểm vận dụng triệt để phép biện chứng duy vật, chúng tơi thấy lơgíc vận động của khái niệm
trong tư duy lý luận ngoài các quy luật và chiều hướng trên đây, thì hãy cịn những nội dung khác. Đó là các