ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THANH TÂN
LÔGÍC VẬN ĐỘNG CỦA KHÁI NIỆM
TRONG TƢ DUY LÝ LUẬN
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Hà NộI - 2005
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THANH TÂN
LÔGÍC VẬN ĐỘNG CỦA KHÁI NIỆM
TRONG TƢ DUY LÝ LUẬN
Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử
Mã số: 5. 01. 02
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS. Bùi Thanh Quất
Hà NộI - 2005
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1 TƢ DUY VÀ KHÁI NIỆM 10
1.1. Tư duy và các cấp độ của tư duy 10
1.2. Khái niệm, các cấp độ và lôgíc của khái niệm 29
Chƣơng 2: CÁC QUY LUẬT CƠ BẨN CỦA VẬN ĐỘNG
KHÁI NIỆM TRONG TƢ DUY LÝ LUẬN 61
2.1. Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng
thành những thay đổi về chất và ngược lại 61
2.2. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập 71
2.3. Quy luật phủ định của phủ định 79
2.4. Quy luật đi từ trừu tượng đến cụ thể 89
2.5. Quy luật thống nhất giữa lôgíc và lịch sử 101
Chƣơng 3: CÁC CHIỀU HƢỚNG CƠ BẢN CỦA SỰ VẬN ĐỘNG
KHÁI NIỆM TRONG TƢ DUY LÝ LUẬN 115
3.1. Sự vận động của khái niệm theo hướng sâu sắc thêm nội hàm
và mở rộng thêm ngoại diên 116
3.2. Trong tương tác với nhau, các khái niệm vận động theo hướng
sản sinh ra khái niệm mới 130
3.3. Sự vận động của khái niệm theo hướng bổ sung, đổi mới tri thức
và hiện thực hóa, trong quan hệ với thực tiễn 147
KẾT LUẬN 164
CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 167
TÀI LIỆU THAM KHẢO 168
1
Mở ĐầU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử loài người cho thấy, mỗi bước tiến của các quốc gia và toàn
thể cộng đồng nhân loại đều gắn bó chặt chẽ với trình độ đạt được của sản
xuất vật chất, của tư duy và hệ các giá trị văn hóa nói chung. Trong một
tương quan như thế, tư duy không chỉ phản ánh mà còn trở thành nhân tố
thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của thực tiễn xã hội và hiện thực lịch sử.
Mác nhận xét:
Con nhện làm những động tác giống như động tác của người thợ
dệt, và bằng việc xây dựng những ngăn tổ sáp của mình, con ong
còn làm cho một số nhà kiến trúc phải hổ thẹn. Nhưng điều ngay
từ đầu phân biệt nhà kiến trúc tồi nhất với con ong giỏi nhất là
trước khi xây dựng những ngăn tổ ong bằng sáp, nhà kiến trúc đã
xây dựng chúng ở trong đầu óc của mình rồi. Cuối quá trình lao
động, người lao động thu được cái kết quả mà họ đã hình dung
ngay từ đầu quá trình ấy, tức là đã có trong ý niệm rồi [76, 266-
267].
Trong thực tiễn, trước khi có những hành động vật chất làm thay đổi hoàn
cảnh khách quan của mình, con người đã xây dựng “mô hình tinh thần” của
những hành động ấy trong đầu óc và công việc đó là thuộc về tư duy của
họ. Cấp độ phát triển cao của tư duy con người là tư duy lý luận. ở cấp độ
này, tư duy có khả năng đi sâu vô hạn vào các khách thể, nắm bắt tương đối
chính xác và hệ thống về bản chất, quy luật của chúng. Trong mỗi thời đại
khoa học, tư duy lý luận góp phần quan trọng đưa nhận thức của con người
phát triển lên những trình độ cao nhất. Chính vì thế, Ăngghen nhấn mạnh:
“Một dân tộc muốn đứng trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không
có tư duy lý luận” [74, 489]. Với khả năng nắm bắt được bản chất và các
quy luật của khách thể, tư duy lý luận chỉ đạo một cách có hiệu quả thực
tiễn cải tạo thế giới của con người và làm nên tính tự giác cho những hành
động của họ. Vậy sức mạnh cải tạo thế giới của con người sẽ được phát huy
đầy đủ hơn nữa, khi tư duy của họ phát triển lên cấp độ lý luận.
Tư duy lý luận đòi hỏi phải có các khái niệm. Những khái niệm trong
tư duy lý luận, diễn tả một cách có hệ thống các quy luật và bản chất của
khách thể, đồng thời là mô hình tương đối đầy đủ về đối tượng và hoạt
2
động thực tiễn của con người với đối tượng. Các khái niệm, do đó cũng
chứa đựng dưới dạng khái quát và cô đọng nội dung tri thức của tư duy lý
luận. Nhưng tư duy lý luận chỉ thực sự tồn tại với hoạt động của các khái
niệm. Không có hoạt động của các khái niệm thì tư duy lý luận không thể
tồn tại được. ở đây, hoạt động của các khái niệm là nội dung chủ yếu nhất
của tư duy lý luận. Vai trò chỉ đạo thực tiễn của tư duy lý luận, vì thế được
thể hiện tập trung trong hoạt động của các khái niệm. Thành công của thực
tiễn chứng minh cho hiệu lực hoạt động của các khái niệm, và chính thực
tiễn tự giác của con người vừa là cách thức vừa là hình thức hiện thực hóa
các khái niệm của tư duy lý luận.
Sự phát triển của tư duy lý luận có quan hệ chặt chẽ với số lượng và
chất lượng của hệ thống các khái niệm phản ánh cuộc sống thực tế phong
phú, phức tạp của con người và xã hội. Hệ thống các khái niệm hoạt động
trong tư duy lý luận, giúp cho con người nhận thức bản chất, qui luật và có
thể dự báo được sự phát triển tương lai của hiện thực và thực tiễn lịch sử.
Đối với Việt Nam, một nước đang phát triển, tư duy lý luận cùng hoạt động
của các khái niệm là một trong những nhân tố đảm bảo và thúc đẩy quan
trọng nhất sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước theo mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã chủ trương đổi
mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trước hết là đổi mới tư duy;
trong đó đổi mới tư duy kinh tế là khâu đột phá. Đổi mới tư duy có nhiệm
vụ khắc phục những gì đã trở nên lạc hậu, giáo điều xơ cứng, kinh nghiệm
chủ nghĩa trong tư duy của cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân, song
quan trọng hơn là nâng cao năng lực tư duy lý luận của Đảng nhằm tích
cực đáp ứng yêu cầu chỉ đạo có hiệu quả thực tiễn xây dựng và phát triển
đất nước. Trong những năm qua, đổi mới tư duy, tư duy lý luận đã góp
phần quan trọng vào những thành quả phát triển về kinh tế, xã hội, chính trị
và văn hóa trên đất nước ta.
Tác động của kỹ thuật - công nghệ hiện đại, của toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế, của kinh tế tri thức đem lại nhiều cơ hội cho đổi mới tư duy
nói chung và tư duy lý luận nói riêng, đồng thời cũng đặt ra những thách
thức lớn trước các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Có thể
thấy trong thời đại ngày nay, một quốc gia trên con đường phát triển của
mình với điểm xuất phát thấp, nếu thiếu sự chỉ đạo của tư duy lý luận khoa
3
học thì hầu như không thể thoát khỏi tình trạng đói nghèo và lạc hậu. Tình
hình phức tạp đòi hỏi chúng ta vừa có bản lĩnh chính trị để giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa vừa có tư duy lý luận khoa học đúng đắn, đủ sắc
bén để chủ động hội nhập quốc tế và chỉ đạo thành công sự nghiệp xây
dựng, phát triển đất nước.
Đổi mới tư duy, tư duy lý luận trở nên có tính thời sự và tính cấp
bách hơn nữa, khi đất nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa
và hiện đại hóa. Việc định hướng mục tiêu, xác định nhiệm vụ, nội dung và
phương pháp, tìm kiếm điều kiện và phương tiện cho quá trình công nghiệp
hóa và hiện đại hóa đất nước, nói chung trước hết là thuộc về chức năng của
tư duy lý luận. Thực tiễn công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở đất nước ta do
đó, hơn bao giờ hết, đòi hỏi sự chỉ đạo của tư duy lý luận khoa học. Vì vậy,
nhiệm vụ chủ yếu hiện nay của đổi mới tư duy ở nước ta là, phát triển năng
lực tư duy lý luận khoa học, trước hết trong đội ngũ cán bộ và đảng viên,
nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa và
hiện đại hóa, góp phần đưa đất nước nhanh chóng thoát khỏi nghèo nàn,
lạc hậu và trở thành một nước tiên tiến. Chính nhiệm vụ này đòi hỏi chúng
ta chú trọng, đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu cơ bản về tư duy, tư
duy lý luận. Trong đó, nghiên cứu phương diện lôgíc của khái niệm và sự
vận động của khái niệm trong tư duy lý luận là một yêu cầu trọng tâm, có
tính cấp thiết. Làm như vậy, chúng ta có điều kiện rút ngắn được con đường
phát triển năng lực tư duy lý luận của mình, xây dựng được một nền tư duy
lý luận có trình độ khoa học tiên tiến để chỉ đạo, tổ chức thực hiện thành
công quá trình công nghiệp hóa và hiện đại đất nước, trong bối cảnh nhân
loại đang ở cao trào toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Từ nhận thức trên đây, chúng tôi chọn vấn đề “
lôgíc vận động của
khái niệm trong tư duy lý luận
” làm đề tài luận án của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đề cập đến
những khía cạnh nhất định của đề tài.
Trước Mác, trong
Khoa học lôgíc
, Hêgen đã trình bày một cách
tương đối có hệ thống biện chứng của khái niệm, qua đó đoán được một
cách tài tình “những hình thức lôgíc và những quy luật lôgíc không phải là
một cái vỏ trống rỗng, mà là phản ánh của thế giới khách quan” [42, 191].
Nhưng yếu tố hợp lý ấy lại được ông lồng vào trong lập trường duy tâm
4
khách quan tuyệt đối, mang nặng tính tư biện và thần bí. Đứng trên lập
trường duy vật biện chứng, hẳn nhiên chúng ta chỉ có thể tiếp thu, cải tạo
yếu tố hợp lý và đồng thời phải gạt bỏ đi lập trường duy tâm thần bí của
lôgíc học Hêgen. Chính Lênin đã nhấn mạnh: “Người ta không thể áp dụng
nguyên xi lôgíc của Hêgen; cũng không thể coi nó như là một cái hiện có.
Cần phải
rút ra
từ trong đó những mặt lôgíc (nhận thức luận), sau khi đã
gạt bỏ tính thần bí của ý niệm” [42, 281].
Quan trọng nhất là những công trình của các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác. Các tác phẩm của Mác, Ăngghen và Lênin như
Bản thảo kinh
tế - triết học năm 1844
,
Tư bản
,
Biện chứng của tự nhiên
,
Chống
Đuyrinh
,
Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán
,
Bút ký
triết học
, v.v., trên căn bản đã hoàn thành việc xây dựng lập trường duy vật
biện chứng trong các vấn đề nhận thức luận và lôgíc học về ý thức, về tư
duy và khái niệm. Đặc biệt, bộ
Tư bản
của
Mác là một mẫu hình lôgíc biện
chứng hoàn chỉnh của sự vận động cũng như vận dụng các khái niệm trong
tư duy lý luận được thể hiện ở một bộ môn khoa học cụ thể - kinh tế chính
trị học, trên lập trường duy vật hiện đại. Như Lênin đã nhận xét: “Mác
không để lại cho chúng ta “Lôgíc học” (với chữ L. viết hoa), nhưng đã để
lại cho chúng ta lôgíc của “Tư bản” và cần phải tận dụng đầy đủ lôgíc đó để
giải quyết vấn đề mà chúng ta đang nghiên cứu” [42, 359]. Vì vậy, việc
quán triệt các quan điểm của Mác, Ăngghen và Lênin về ý thức, tư duy,
khái niệm và sự vận động của khái niệm, đối với chúng tôi là có ý nghĩa
quyết định trong quá trình thực hiện đề tài luận án.
Liên quan đến đề tài luận án, còn có các công trình chủ yếu sau:
Trong
Nguyên lý lôgíc biện chứng
(Nxb Sự thật, Hà Nội, 1962),
M.M. Rôdentan vạch ra các quy luật biện chứng của tư duy, phân tích cơ
cấu, tương quan biện chứng giữa nội hàm và ngoại diên của khái niệm, chỉ
ra bản tính mâu thuẫn biện chứng và vận động của các khái niệm. A.P.
Séptulin trong
Phương pháp nhận thức biện chứng
(Nxb Tiến bộ và Nxb
Sự thật, 1987), phân tích phép biện chứng duy vật với tính cách là lý luận
về nhận thức, vạch ra một cách tương đối đầy đủ, có hệ thống các đặc trưng
và nguyên tắc của phương pháp nhận thức biện chứng. E.V. Ilencốp trong
Lôgíc học biện chứng
(Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2003), phân tích
phép biện chứng duy vật dưới giác độ lôgíc học và những nguyên tắc xây
dựng lôgíc học, đã đưa ra cách hiểu tư duy như là thành tố tư tưởng của
5
hoạt động hiện thực của con người xã hội đang bằng lao động cải biến giới
tự nhiên bên ngoài và chính mình, rằng chỉ có con người ở trong sự thống
nhất với xã hội, với tập thể xã hội - lịch sử đang sản xuất ra đời sống vật
chất và tinh thần của mình mới tư duy; bàn luận các vấn đề của lôgíc biện
chứng về sự đồng nhất của lôgíc học với phép biện chứng và lý luận nhận
thức của chủ nghĩa duy vật, về mối quan hệ giữa cái trừu tượng và cái cụ
thể, cái lôgíc và cái lịch sử, cái đơn nhất và cái phổ biến, về mâu thuẫn như
là phạm trù của lôgíc biện chứng, v.v Trong cuốn
Triết học hỏi & đáp
(Trường Đại học Quốc gia Lômônôxốp - Khoa Triết học, Nxb Đà Nẵng,
2004), trên bình diện nhận thức luận, các tác giả đã có những khái quát nhất
định về tư duy và khái niệm, sơ bộ vạch ra sự khác nhau giữa cấp độ kinh
nghiệm và cấp độ lý luận của nhận thức khoa học. Các công trình trên đề
cập ở phạm vi khá rộng những vấn đề nhận thức luận và lôgíc học, thể hiện
sự vận dụng một cách tương đối đầy đủ phép biện chứng duy vật vào việc
nghiên cứu tư duy và khái niệm.
Trong
Hoạt động - ý thức - Nhân cách
(Nxb Giáo dục, Hà Nội,
1989), A.N. Lêônchép với “lý thuyết hoạt động” đã giải thích sự phát triển
của ý thức từ “ý thức - hình ảnh” thành “ý thức - hoạt động”, chỉ ra nguồn
gốc thực tiễn của sự xuất hiện những hành động và thao tác tư duy, gợi lên
một số nét của hình thức phát triển tư duy con người tức tư duy lý luận.
L.X. Vưgốtxki trong
Tuyển tập tâm lý học
(Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
1997) đã chỉ ra những con đường phát triển khác nhau giữa tư duy và ngôn
ngữ, từ đó khẳng định rằng tư duy ngôn ngữ, tư duy trừu tượng không phải
hình thức tự nhiên của hành vi mà là hình thức xã hội lịch sử. J. Piaget với
Tâm lý học trí khôn
(Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998), không đứng trên lập
trường mácxít đã nêu lên quan điểm về cấu trúc ý nghĩ và thao tác của hoạt
động tư duy, chỉ ra mối liên hệ phát triển giữa tư duy và nghĩa của từ ngữ,
gợi ý một số nét nhất định của hình thức tiền khái niệm của tư duy mà
chúng tôi gọi là ý niệm. Tuy thuộc lĩnh vực tâm lý học, các công trình này
chứa đựng tài liệu quan trọng, bổ ích cho những khái quát về tư duy và về
khái niệm.
Trong
Nhận thức thế giới vi mô
(Nguyễn Duy Quý, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội, 1998), phân tích quan niệm của các học giả nước ngoài về
nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận, tác giả đã đưa ra nhận định về
tính chất gián tiếp hóa hiện thực và tính sinh thành lịch sử của sự phản ánh
6
khách thể trong nhận thức lý luận, về tính phát triển của hệ thống tri thức
lý luận. Trong bài “
Khái niệm với tính cách một vấn đề triết học
” (Bùi
Thanh Quất và Nguyễn Ngọc Hà, Triết học, 6, 1997), các tác giả coi khái
niệm là sự hiểu biết đúng đắn, tương đối toàn diện và có hệ thống về bản
chất đối tượng, chỉ đạo có hiệu quả những hành động thực tiễn của con
người với đối tượng và bàn luận quá trình hình thành, phát triển của nhận
thức lý tính từ ý niệm đến khái niệm. Trong bài “
Sự hình thành và phát
triển của khái niệm
” (Vũ Văn Viên, Triết học, 6, 1998), tác giả xác định
khái niệm là một tư tưởng phản ánh những dấu hiệu bản chất khác biệt về
đối tượng của nhận thức, từ đó khái quát sự hình thành khái niệm với hoạt
động tích cực của tư duy thực hiện các thao tác lôgíc trên những tài liệu
cảm tính. Với bài “
Khái niệm lý luận
” (Lưu Hà Vĩ, Triết học, 6, 2003), tác
giả có sự phân loại khái niệm theo chiều sâu nhận thức với hai cấp độ kinh
nghiệm và lý luận, từ đó nhận định về vai trò của khái niệm lý luận.
Những vấn đề lôgíc biện chứng và sự vận dụng phép biện chứng duy
vật với tính cách là lôgíc học cũng đã được bàn luận trong các bài: “
Về cấu
trúc, chức năng của lôgíc biện chứng
” (Triết học, 1, 1982) và “
Về những
điều kiện và phương thức ứng dụng thành công lôgíc biện chứng
mácxít
” (Triết học, 2, 1986) của tác giả Tô Duy Hợp, “
Lôgíc và khoa học
”
(Triết học, 3, 1976) và “
Đổi mới tư duy lý luận, tư duy lý luận trong sự
nghiệp đổi mới
” (Triết học, 1, 1988) của tác giả Lại Văn Toàn, “
Một số
chức năng của phép biện chứng duy vật đối với sự phát triển của khoa
học hiện đại
” (Triết học, 3, 1988) của tác giả Đặng Hữu Toàn.
Mặc dù chưa đề cập một cách trực tiếp và giải quyết tập trung vấn đề
lôgíc vận động của khái niệm trong tư duy lý luận
, nhưng các công trình
trên đây đã có những kết luận quan trọng liên quan đến các khía cạnh và
gợi mở nhiều cho công việc nghiên cứu của chúng tôi. Vì vậy, để thực hiện
đề tài luận án, chúng tôi đã chú trọng tham khảo, tiếp thu có chọn lọc kết
quả của những công trình đó và nhiều công trình khác nữa (xem, danh mục
tài liệu tham khảo).
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Luận án có mục đích
:
Phân tích các quy luật và chiều hướng có tính quy luật hợp thành
lôgíc chủ yếu của sự vận động khái niệm trong tư duy lý luận, làm rõ thêm
lập trường duy vật biện chứng trong việc giải đáp những vấn đề lý luận
7
nhận thức và lôgíc học về tư duy và khái niệm, góp phần tìm hiểu cơ sở
lôgíc của sự đổi mới, phát triển khái niệm và tư duy lý luận.
Để đạt được mục đích nêu trên,
luận án thực hiện ba nhiệm vụ
:
- Làm rõ sự hình thành, bản tính hoạt động cùng các đặc trưng của tư
duy và khái niệm, phân biệt các cấp độ tồn tại, phát triển cơ bản của tư duy
và khái niệm, bàn luận chung về sự vận động và lôgíc của khái niệm.
- Phân tích các quy luật lôgíc biện chứng cơ bản, chi phối sự vận
động của khái niệm trong tư duy lý luận.
- Phân tích các chiều hướng cơ bản, có tính quy luật của sự vận động
khái niệm trong tư duy lý luận.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của luận án là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử; đặc biệt, phép biện chứng duy vật được vận dụng với
tư cách là phương pháp luận của việc nghiên cứu lôgíc vận động của khái
niệm trong tư duy lý luận.
- Luận án sử dụng có hệ thống và nhất quán các phương pháp: so
sánh, chú giải, phân tích và tổng hợp tài liệu sẳn có, trừu tượng hóa và khái
quát hóa, lôgíc và lịch sử, v. v
5. Những đóng góp của luận án
Luận án có những đóng góp nhất định sau đây:
- Làm rõ thêm quan điểm duy vật biện chứng về sự hình thành, các
đặc trưng của tư duy, về sự hình thành, các đặc trưng và cơ cấu biện chứng
của khái niệm, về sự vận động và vai trò của khái niệm trong tư duy lý luận.
- Phân biệt rõ cấp độ kinh nghiệm và cấp độ lý luận của tư duy, của
khái niệm; vạch ra một cách tương đối đầy đủ và có hệ thống các đặc trưng
của tư duy lý luận, khái niệm lý luận.
- Phân tích tương đối có hệ thống các quy luật và các chiều hướng cơ
bản có tính quy luật vừa hợp thành lôgíc vận động của khái niệm, vừa là cơ
sở lôgíc của sự phát triển khái niệm cũng như tư duy lý luận.
- Góp phần làm sáng tỏ các phương diện nhận thức luận và lôgíc học
của phép biện chứng duy vật.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Góp phần khẳng định lập trường duy vật biện chứng trong các vấn
đề nhận thức luận và lôgíc học về tư duy, khái niệm, các quy luật và các
8
chiều hướng có tính quy luật của sự vận động khái niệm trong tư duy lý
luận.
- Chứng tỏ hiệu lực của phép biện chứng duy vật với tính cách là
lôgíc học trong việc nghiên cứu tư duy, khái niệm và sự vận động của khái
niệm, góp phần thúc đẩy công tác nghiên cứu cơ bản về tư duy lý luận.
- Thiết thực bổ sung vào nguồn tài liệu học tập, nghiên cứu và giảng
dạy các học phần triết học liên quan đến lý luận nhận thức và lôgíc học.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận án
gồm có 3 chương (10 tiết).
9
Chương 1
TƢ DUY VÀ KHÁI NIỆM
Để vạch ra lôgíc vận động của khái niệm trong tư duy lý luận, trước
hết cần bàn luận những vấn đề chung về tư duy và các cấp độ của tư duy,
về khái niệm, các cấp độ và lôgíc của khái niệm.
1.1. Tƣ duy và các cấp độ của tƣ duy
1.1.1. Tƣ duy
Theo Mác, con người cũng giống với con vật, tồn tại nhờ có những
hoạt động sinh sống. Nhưng ông phân biệt:
Con vật đồng nhất trực tiếp với hoạt động sinh sống của nó. Nó
không tự phân biệt nó với hoạt động sinh sống của nó. Nó là hoạt
động sinh sống ấy. Còn con người thì làm cho bản thân hoạt động
sinh sống của mình trở thành đối tượng của ý chí và của ý thức
của mình. Hoạt động sinh sống của con người là hoạt động sinh
sống có ý thức. Đó không phải là cái tính qui định mà con người
trực tiếp hòa làm một với nó. Hoạt động sinh sống có ý thức phân
biệt trực tiếp con người với hoạt động sinh sống của con vật [84,
136].
Hoạt động sinh sống có ý thức phân biệt trực tiếp con người với hoạt động
sinh sống của con vật. Khẳng định này làm cho chúng ta phải chú ý đến hai
điểm. Một là, trong hoạt động sinh sống của mình, con người tự phân biệt
với con vật bởi họ có ý thức về chính hoạt động sinh sống ấy. Hai là, con
người khác với con vật bởi hoạt động sinh sống của họ có sự chỉ đạo của ý
thức. Dĩ nhiên, chỉ khi con người có ý thức về hoạt động sinh sống của
mình, thì ý thức ấy mới có thể trở thành nhân tố chỉ đạo hoạt động sinh
sống của họ. Nhưng ý thức là gì mà nhờ có nó trong hoạt động sinh sống
của mình, con người tự phân biệt với con vật? Mác cho rằng, ý thức “chẳng
qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc người và được cải
biến đi ở trong đó” [76, 35], còn theo Lênin thì ý thức là “hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan” [41, 138].
Có thể khái quát trên quan điểm duy vật biện chứng, ý thức là sự
phản ánh một cách năng động và sáng tạo về thế giới khách quan trong bộ
não của con người. Đây là sự phản ánh mà những thông tin về các đối
tượng vật chất ở bên ngoài được lựa chọn và “mã hóa” trong bộ não người
thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất hay được cải biến đi thành hình ảnh
10
chủ quan phi cảm tính. ý thức con người cũng không phải là sự phản ánh
thế giới khách quan một cách đơn giản, thụ động và máy móc. ý thức là sự
phản ánh thế giới khách quan trong quá trình con người lao động tích cực
cải tạo thế giới ấy và vì vậy, đó là sự phản ánh sáng tạo lại thế giới khách
quan trong bộ não người theo những nhu cầu của thực tiễn xã hội.
Lao động là phương thức sinh sống cơ bản của con người. Trong lao
động diễn ra một quá trình bao gồm hai chiều có liên quan mật thiết với
nhau. Chiều thứ nhất, hoạt động được vật hóa vào trong sản phẩm, tức lao
động chuyển từ hình thái “động” sang hình thái “tĩnh” [xem 76, 271]. Chiều
thứ hai, “di chuyển” các khách thể vào bộ não người và cải biến đi ở trong
đó thành những hình ảnh tinh thần hay ý thức. Chiều thứ hai chính là hoạt
động phản ánh của con người, sản sinh ra ý thức.
Hoạt động phản ánh ở con người rất đa dạng và phức tạp, song nhìn
chung có thể phân chia một cách tương đối thành hai mặt: xúc cảm và nhận
thức. Mặt xúc cảm tạo ra những tình cảm nói lên mục đích của hoạt động
và điều khiển các hành động của con người với đối tượng bằng cách gán
giá trị cho các mục tiêu của chúng. Mặt nhận thức thể hiện sự phản ánh
hướng đến việc nắm hiểu khách thể cùng các phương tiện và phương pháp
hoạt động, sản sinh ra những tri thức cung cấp “cái kỹ thuật” cho các hành
động của con người. Xúc cảm và nhận thức trong hoạt động phản ánh của
con người luôn gắn bó với nhau; chúng ta thấy ở các hiện tượng ý thức,
không có hiểu biết nào mà không đi kèm những tình cảm nhất định và cũng
không có tình cảm nào lại không hàm chứa một tối thiểu những hiểu biết
nhất định. Sự gắn bó với nhau giữa xúc cảm và nhận thức, khiến cho hoạt
động phản ánh của con người luôn có tư cách là nhận thức và từ đó có thể
nói, không có nhận thức thì nói chung, con người cũng không có ý thức.
Thoạt đầu, ý thức thường bao gồm những hình ảnh giúp cho con
người thấy ra thế giới các sự vật, hiện tượng bên ngoài. Sự phát triển xã hội
ngày càng làm cho lao động trở thành phương thức duy nhất của tồn tại
người và do đó, cũng làm cho ý thức trở thành hình thức phản ánh phổ biến
mang đặc trưng người. Khi đó ý thức mở rộng ra bao quát toàn bộ đời sống
của con người; bao quát không chỉ các sự vật, hiện tượng bên ngoài mà cả
hoạt động sinh sống của con người. Thế là hoạt động với đối tượng của con
người cũng được họ ý thức, tức con người không chỉ có ý thức về các sự
11
vật và hiện tượng xung quanh, mà còn có ý thức về cả các hành động và
thao tác thực tiễn của mình.
Như vậy, ở một trình độ phát triển nhất định thì ý thức của con người
không chỉ phản ánh thế giới khách quan thông qua lao động, mà còn phản
ánh cả bản thân lao động. Đây chính là điều đã dẫn Mác đến chỗ nhận xét
rằng, con vật không tự phân biệt nó với hoạt động sinh sống của nó, còn
con người thì biến bản thân hoạt động sinh sống (được hiểu là lao động)
của mình thành đối tượng của ý thức.
Khi con người ý thức được lao động của mình, thì nghĩa là đã có sự
“di chuyển” (có cải biến) hoạt động vật chất bên ngoài vào trong đầu óc của
họ; không chỉ đối tượng, kết quả mà cả những hành động và thao tác thực
tiễn của lao động cũng được phản ánh trong ý thức. Lúc này, những hành
động và thao tác thực tiễn bên ngoài của con người trở nên có ý nghĩa điệu
bộ, thông báo và lời nói, chúng được ghi lại, giữ lại và cải biến đi trong ý
thức của họ thành những hành động và thao tác trí óc, làm cho “ý thức -
hình ảnh” trở thành “ý thức - hoạt động” [51, 150]. Nói cách khác, ý thức
đã trở thành hoạt động. Với tư cách là hoạt động, ý thức có tính độc lập
tương đối với thế giới đối tượng và ở chừng mực nhất định, nó thoát khỏi
sự chi phối trực tiếp của thực tiễn cảm tính của con người. ý thức - hoạt
động, nhìn chung cũng có mặt xúc cảm và mặt nhận thức.
Mặt xúc cảm vẫn tạo ra những tình cảm, xác định mục đích và gán
giá trị cho các mục tiêu hành động của con người. Nhưng lúc này xúc cảm
có trình độ cao hơn, đã trở thành một hoạt động bên trong ý thức, những
đánh giá của nó được nâng lên dưới sự chỉ dẫn của tri thức làm cho các tình
cảm hàm chứa nhiều trí tuệ hơn. Mặt nhận thức vẫn là hoạt động nhằm nắm
hiểu khách thể cùng các phương thức và phương tiện hoạt động, sản sinh ra
những tri thức cung cấp kỹ thuật cho các hành động của con người. Song
lúc này, nhận thức cũng được nâng lên trình độ cao hơn, trở thành một hoạt
động trí óc diễn ra ở ngay bên trong các hiện tượng ý thức. Trên bình diện
này, nhận thức của con người phản ánh được lao động và trở thành hoạt
động của những tri thức sản sinh ra tri thức.
Khi con người phản ánh được lao động vào ý thức, thì một số trong
những tri thức của họ được sinh ra từ đó trở nên có nội dung hoạt động. Nói
cách khác, lúc này quá trình nhận thức ở con người sản sinh ra những tri
thức và truyền cho một số trong đó cả nội dung hoạt động. Mỗi tri thức có
12
nội dung hoạt động tức tri thức phản ánh được lao động là một “hình ảnh
tổng thể” về đối tượng, về phương tiện và phương pháp hoạt động, về
những hành động và thao tác thực tiễn của con người với đối tượng và về
cả bản thân con người với tính cách là chủ thể hoạt động. Vậy tri thức có
nội dung hoạt động thực sự là một hệ thống. Chính là, hoạt động thực tiễn
được con người phản ánh và cải biến đi trong ý thức của họ thành nội dung
hoạt động của tri thức.
Với những tri thức có nội dung hoạt động thì ở con người xuất hiện
một dạng nhận thức cao hơn, đó là tư duy. Nếu nhận thức nói chung được
hiểu là quá trình phản ánh có cải biến thế giới khách quan trong đầu óc con
người và sản sinh ra ở trong đó những tri thức, thì tư duy con người có tính
cách là hệ tri thức hoạt động sản sinh ra tri thức. Tư duy theo nghĩa đó, là
mặt nhận thức của ý thức - hoạt động. Cho nên, nếu không có nhận thức
cũng như ý thức thì con người không thể có tư duy. Con người có tư duy
khi nhận thức của họ phản ánh được lao động vào trong ý thức, hay nói
cách khác tư duy là nhận thức của con người ở trình độ họ ý thức được lao
động với tính cách phương thức tồn tại xã hội của mình. Là nhận thức của
con người ở trình độ ấy, tư duy “phản ánh hiện thực một cách tích cực, khái
quát, trung gian, diễn ra trong quá trình thực tiễn, cho phép phát hiện ra các
quan hệ hợp quy luật của nó dựa trên dữ liệu cảm tính và biểu thị chúng
trong hệ thống những sự trừu tượng hóa” [136, 261].
Tư duy đánh dấu bước phát triển căn bản của nhận thức con người
lên trình độ có thể nắm bắt được bản chất và quy luật của thế giới đối
tượng. Cùng với sự xuất hiện của tư duy và được sự chỉ đạo của nó, con
người cũng từng bước trở thành chủ thể của các quá trình cải tạo tự nhiên
và xã hội của mình. Những phân tích trên đây cho phép chúng ta vạch ra
các đặc trưng sau của tư duy con người.
Thứ nhất
, tư duy con người là dạng hoạt động trí óc diễn ra bên
trong ý thức, có nguồn gốc thực tiễn. Dạng hoạt động này có kết cấu bao
gồm các hành động và thao tác trí óc. Những hành động và thao tác ấy, xét
đến cùng có nguồn gốc từ những hành động và thao tác thực tiễn của lao
động (lao động xét như là phương thức tồn tại phổ biến của cộng đồng
người). Chính là nhận thức của con người đã phản ánh mặt hoạt động của
lao động vào trong bộ não, cải biến đi ở trong đó thành các hành động và
thao tác trí óc. Bước đầu, nhận thức của con người chỉ có thể tạo dựng được
13
những hành động và thao tác trí óc bằng cách phản ánh có cải biến những
hành động và thao tác thực tiễn của lao động. Nhưng về sau, khi đã phát
triển, chính tư duy con người còn sáng tạo ra những hành động và thao tác
trí óc mới, mà không cần phải trực tiếp bám vào sự phản ánh những hành
động và thao tác thực tiễn của lao động. Dẫu vậy, sự phát triển của lao
động, nói chung vẫn là nhân tố quyết định sự xuất hiện và hoàn thiện các
hành động, các thao tác trí óc trong tư duy con người. Ngược lại, sự phát
triển của tư duy cũng có tác dụng hoàn thiện các hành động và thao tác thực
tiễn của con người.
Thứ hai
, tư duy con người là dạng nhận thức nảy sinh khi có những
hệ thống tri thức làm tiền đề. Các hệ thống tri thức tiền đề đều do nhận thức
đem lại nhưng để được đưa vào quá trình tư duy chúng phải có nội dung
hoạt động. Tư duy sản sinh ra tri thức dựa trên những hệ thống tri thức có
trước làm tiền đề, cho nên đây là dạng nhận thức gián tiếp. Có hệ thống tri
thức làm tiền đề song đồng thời phải có cả hoạt động sản sinh tri thức thì
quá trình tư duy mới thực sự diễn ra. Tư duy là hoạt động của các hệ thống
tri thức, cho nên nếu chỉ dựa trên một số hữu hạn những tri thức tiền đề thì
quá trình tư duy sẽ có lúc phải dừng lại. Để cho quá trình tư duy tiếp tục
diễn ra thì cần phải bổ sung những tài liệu mới và tri thức mới. Những tài
liệu và tri thức này, hẳn nhiên là được nhận thức đem lại trên cơ sở sự vận
động của hiện thực được phản ánh và sự phát triển của lao động.
Thứ ba
, với tư cách là hệ tri thức hoạt động sản sinh ra tri thức, tư
duy con người có những hình thức và phương tiện thích hợp. Không có
những hình thức và phương tiện này, các hệ tri thức không thể đi vào hoạt
động và vì thế cũng không có tư duy. Các khái niệm, phán đoán, suy lý,
v.v., là những hình thức của tư duy, trong đó những tri thức được tập trung
lại, gắn kết với nhau và đi vào hoạt động. Tư duy còn có các phương tiện để
biểu đạt, cố định lại (theo nghĩa tương đối), khách quan hóa và truyền bá tri
thức. Chính các tín hiệu và dấu hiệu trực tiếp, các tượng trưng và các ký
hiệu ngôn ngữ là những phương tiện của tư duy con người; trong đó, ngôn
ngữ là phương tiện phổ biến và hữu hiệu nhất. Ngôn ngữ tham gia vào các
quá trình tư duy với tính cách là cái chứa đựng các nghĩa biểu đạt cho đối
tượng, lúc đầu có hình thái vật chất bên ngoài với chức năng phát âm thông
báo, về sau chức năng này giảm dần và chuyển thành lời nói bên trong có
chức năng chuyên chở, biểu đạt các ý nghĩ. Dù vậy, sự phát triển của tư duy
14
cũng không làm cho hình thái vật chất bên ngoài của ngôn ngữ mất đi,
ngược lại nó được duy trì, củng cố và phát triển. Nhờ bộ máy gồm những
hình thức và phương tiện này, mà các quá trình tư duy trở nên có tính xác
định và được duy trì.
Thứ tư
, tư duy sáng tạo xuất hiện ở con người khi trong cuộc sống,
họ vấp phải vấn đề và đó là đối tượng mới của nó. Tư duy sáng tạo sẽ
không diễn ra nếu trong cuộc sống, con người không vấp phải những vấn
đề và với tính cách là hoạt động sáng tạo, tư duy không thể không có đối
tượng để sáng tạo. Khi có một vấn đề thực tiễn hay nhận thức mà với
những tri thức cũ hay cách làm cũ, con người không giải quyết được hoặc
giải quyết không có hiệu quả thì quá trình tư duy diễn ra là huy động khối
tri thức do họ lĩnh hội được để tìm ra các giải pháp mới. Vì đó là các giải
pháp cho hoạt động, cho nên tư duy chỉ có thể tìm ra chúng trong sự nhận
thức về những đối tượng nhất định. Cùng với việc tìm ra các giải pháp hoạt
động, tư duy sản sinh ra cho con người những tri thức mới.
Thứ năm
, tư duy con người là một chức năng của bộ não và với tư
cách đó, nó là một quá trình tự nhiên, nhưng tư duy cũng không tồn tại ở
con người bên ngoài xã hội, bên ngoài khối kiến thức cùng các phương
thức hoạt động mà loài người đã sáng tạo ra và tích lũy được trong lịch sử.
Mỗi con người trở thành chủ thể tư duy không chỉ do họ có bộ não mà quan
trọng hơn vì trong quan hệ xã hội - giao tiếp, họ nắm được ngôn ngữ và
thông qua ngôn ngữ họ lĩnh hội được các tri thức, các công cụ, các thao tác
lôgíc do loài người sáng tạo ra. Vậy, tư duy là một chức năng của bộ não
người có bản tính xã hội - lịch sử và là một sản phẩm của lịch sử xã hội.
Những đặc trưng trên đây, cho phép chúng ta hình dung mỗi quá
trình tư duy ở con người với hai chiều. Chiều thứ nhất thể hiện tư duy là
quá trình bao gồm các hành động và thao tác trí óc thâm nhập vào thế giới
đối tượng bằng cách sử dụng các hình thức, các công cụ và phương tiện
nhận thức để sản sinh ra những tri thức mới, đáp ứng yêu cầu giải quyết các
vấn đề thực tiễn và nhận thức mà loài người đang đặt ra. Chiều thứ hai thể
hiện tư duy là quá trình cũng thông qua việc sử dụng các hình thức, các
công cụ và phương tiện nhận thức nhưng để củng cố, hệ thống hóa và duy
trì khối tri thức mà loài người đã có. Đây là hai chiều đồng thời, gắn bó
nhau trong mỗi quá trình tư duy và đều được thực hiện trong quan hệ với
thực tiễn xã hội - lịch sử của con người, nhưng có tác dụng khác nhau.
15
Chiều thứ nhất đảm bảo cho tư duy tồn tại như một quá trình biến hóa và
phát triển; chiều thứ hai đảm bảo cho quá trình tư duy có tính xác định và
ổn định, cho phép nó tạm thời chấm dứt để có thể được khách quan hóa và
hiện thực hóa.
1.1.2. Các cấp độ của tƣ duy
Nhận thức đem lại cho con người những tri thức trên cơ sở thực tiễn
xã hội - lịch sử của họ và xét như một quá trình, nó diễn ra theo con đường
biện chứng “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu
tượng đến thực tiễn” [42, 179]. Những tài liệu xuất hiện trong hoạt động
thực tiễn, được nhận thức của con người xử lý, đối chiếu, khớp nối với thế
giới đối tượng (khách thể) và sản sinh ra tri thức. Như vậy, hầu hết những
tri thức mà con người có được là bắt nguồn từ thực tiễn. Nhưng tri thức khi
đã xuất hiện lại có vai trò hướng dẫn các hành động của con người, bởi nó
chính là cái chỉ dẫn tinh thần về các đối tượng và phương pháp thực tiễn
cho họ. Trong lịch sử quan hệ xã hội và giao tiếp của con người, nhận thức
cũng như những tri thức do nó sản sinh ra có hai cấp độ tồn tại và phát triển
cơ bản khác nhau về chất: kinh nghiệm và lý luận.
Kinh nghiệm, theo nghĩa chung là những hiểu biết mà con người
cũng như cộng đồng xã hội đạt được do tiếp xúc trực tiếp với thực tế và do
từng trải trong đời sống hàng ngày, đồng thời còn bao gồm cả thực tiễn cảm
tính mà con người cũng như cộng đồng xã hội đã từng trải qua, ý thức được
và tích lũy lại thành vốn sống. Lý luận, theo nghĩa chung vừa là hệ thống tri
thức phổ quát trong lĩnh vực nhận thức nào đó được xây dựng từ sự tổng
kết kinh nghiệm và thực tiễn, vừa là một dạng hoạt động nhận thức với bộ
máy công cụ gồm hệ thống các khái niệm và phạm trù phổ quát nhằm vạch
ra và diễn tả dưới dạng thuần khiết tính quy luật của một lĩnh vực khách thể
nhất định. ở đây, chúng tôi dùng các thuật ngữ kinh nghiệm và lý luận để
chỉ những cấp độ tồn tại, phát triển khác nhau về chất của nhận thức và tri
thức; còn thuật ngữ cấp độ được dùng để chỉ tập hợp những trình độ có các
tính chất cơ bản giống nhau, phân tách được về chất với tập hợp những
trình độ khác của nhận thức và tri thức.
Tư duy con người với tính cách là hệ tri thức hoạt động sản sinh ra tri
thức cũng có hai cấp độ tồn tại và phát triển cơ bản khác nhau về chất; gọi
là tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận. Có thể vắn tắt một cách tương đối,
tư duy kinh nghiệm là hệ tri thức hoạt động sản sinh ra tri thức kinh
16
nghiệm, còn tư duy lý luận là hệ tri thức hoạt động sản sinh ra tri thức lý
luận. Theo quan điểm duy vật biện chứng, cả tư duy kinh nghiệm và tư duy
lý luận đều là hoạt động nhận thức của con người phản ánh thế giới khách
quan trên cơ sở thực tiễn xã hội - lịch sử của họ. Nhưng đó là tư duy ở hai
cấp độ khác nhau về đối tượng, về phương thức tiếp cận khách thể và
phương thức hoạt động, về nội dung, hình thức và tính chất của tri thức do
chúng sản sinh ra.
Đối tượng của tư duy kinh nghiệm là những gì cảm nhận được bằng
giác quan, tức những gì thuộc về khách thể được mách bảo trực tiếp bởi
giác quan con người. Những đối tượng như thế xuất hiện trước tư duy dưới
hình thức cái hiện có trực tiếp, nhận biết được bằng các quan sát hoặc thí
nghiệm. Các “hình” trong hình học là những trừu tượng về những quan hệ
và thuộc tính không gian, cho nên chúng không có sự tồn tại hiện có trực
tiếp nhưng trong tư duy kinh nghiệm, chúng xuất hiện dưới dạng cảm tính
(hình vẽ của chúng chẳng hạn); nghĩa là tư duy ở cấp độ kinh nghiệm buộc
phải gán cho những hình đó một sự tồn tại hiện có trực tiếp và xem xét
chúng trên bình diện ấy. Tư duy kinh nghiệm là hoạt động nhận thức với
những đối tượng tồn tại hữu hình trong không gian và thời gian cụ thể cảm
tính, trong thực tiễn cụ thể cảm tính của chủ thể với khách thể. Đó là những
đối tượng có khuôn hình tồn tại trong tính cá thể đơn nhất, cho nên trước tư
duy, chúng hiện ra thông qua các cảm nhận giác quan (cảm giác, tri giác và
một phần các biểu tượng). Tư duy với các đối tượng như vậy sẽ sản sinh ra
những tri thức kinh nghiệm.
Đối tượng của tư duy lý luận là những gì vượt hết thảy mọi cảm nhận
giác quan, không tồn tại dưới dạng cái hiện có trực tiếp và do đó cũng
không được mách bảo trực tiếp bởi các giác quan con người. Xuất phát từ
các cảm nhận giác quan nhưng vượt bỏ hết thảy những gì có tính hữu hình,
đơn nhất cá thể, bằng trừu tượng hóa và khái quát hóa, tư duy con người
tiến đến chỗ tự tạo dựng nên đối tượng cho mình. Những đối tượng này
không có sẵn trong thực tế, mà do tư duy xây dựng nên và chỉ tồn tại ở
trong đó với tính cách là cái thuần khiết đã được lý tưởng hóa. Những đối
tượng đó, là hình thức khái quát hóa các đối tượng của tư duy kinh nghiệm
trong cả quá khứ, hiện tại cũng như tương lai. Như vậy, tư duy lý luận khắc
phục tính hữu hình, cá thể, đơn nhất của các đối tượng của tư duy kinh
nghiệm, tạo ra đối tượng cho mình là lĩnh vực của những trừu tượng phổ
17
quát, thuần khiết, lý tưởng và hoạt động trong lĩnh vực ấy nhằm vạch ra
quy luật này hay quy luật khác của chúng.
Khác với các đối tượng của tư duy kinh nghiệm là cái hữu hạn, có
giới hạn trong thời gian và không gian cụ thể cảm tính, bị khuôn hình trong
tính cá thể đơn nhất, các đối tượng của tư duy lý luận “dường như” là cái vô
hạn vươn vượt khỏi mọi khuôn hình, mọi không gian và thời gian cụ thể
cảm tính, là cái phổ biến “dường như” phi cảm tính. Không một đối tượng
nào của tư duy kinh nghiệm có thể chứa hết đối tượng của tư duy lý luận,
nhưng đối tượng của tư duy lý luận hầu như có mặt trong tất thảy mọi đối
tượng của tư duy kinh nghiệm. Tư duy hoạt động với các đối tượng như
vậy sẽ sản sinh ra những tri thức vượt khỏi giới hạn của kinh nghiệm, tức là
những tri thức lý luận.
Cả tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận đều phải dựa trên các khách
thể hiện thực để tìm kiếm, xây dựng đối tượng, nhưng chúng khác nhau về
phương thức tiếp cận khách thể.
Tư duy kinh nghiệm tiếp cận khách thể như là lĩnh vực mà ở đó, đối
tượng của nó đã có một cách trực tiếp, hơn nữa nó xét khách thể trong giới
hạn thực tiễn cụ thể cảm tính của từng chủ thể tức là khách thể của thực tiễn
trực tiếp. Điều đó dẫn đến các hệ quả: tư duy kinh nghiệm lấy làm đối
tượng với những gì hiện ra ở bề mặt khách thể có sự tồn tại cảm tính, coi
đối tượng như đã được thể hiện đầy đủ trong các cảm nhận giác quan, xem
các cảm nhận giác quan như đã có đủ tính xác thực và bám chặt vào chúng
để lấy làm căn cứ cho những tri thức của nó.
Các cảm nhận giác quan như chúng xuất hiện và tồn tại là những
hình thức phản ánh chủ yếu của cái bề ngoài, đơn nhất và tạm thời. Do đó,
tư duy kinh nghiệm là sự tiếp cận khách thể trong tính phân hóa, ở đó tính
tách biệt và cô lập, tính cá thể và đơn nhất, tính đứt đoạn và ổn định của
hiện tượng được chú trọng. Nếu tư duy kinh nghiệm có thể tìm ra ở khách
thể những liên hệ và ràng buộc, tính liên tục và biến hóa, tính phổ biến thì
cũng không thể giải thích được chúng từ bề sâu của cái bản chất. Tư duy
kinh nghiệm quẩn quanh trong cái nhìn phân hóa về khách thể, cho nên đó
là sự nhận thức phiến diện và khi bị đẩy cao lên một cách cực đoan thì sa
vào siêu hình. Tư duy kinh nghiệm thường xét khách thể trong phạm vi
hoạt động thực tiễn cụ thể cảm tính của mỗi người, cho nên đó cũng là cái
nhìn đơn nhất, tĩnh tại và gián đoạn về hiện thực. Vì vậy, nếu mở rộng một
18
cách máy móc cái nhìn ấy thì sẽ đi đến chia cắt hiện thực có tính thống
nhất và tính sinh thành lịch sử ra thành từng mặt, từng mảnh phiến diện.
Tư duy lý luận, nhìn chung cũng tạo dựng nên đối tượng từ những
qui định được nhận thức tìm thấy trong khách thể. Những qui định đó
không tồn tại ở đâu ngoài khách thể hiện thực, song chúng không có tính
cách là cái hiện có trực tiếp. Xuyên qua những cảm nhận giác quan, tư duy
hướng vào những liên hệ bên trong của khách thể, rút ra từ đó các qui định
phổ biến (những mặt và liên hệ chung, tất yếu) tức là cái tạo nên tính thống
nhất nội tại của khách thể. Các qui định ấy được “lẫy ra” khỏi khách thể
bằng trừu tượng hóa và được tổ chức lại trong tư duy thành những cấu trúc
trừu tượng phổ quát, lý tưởng hóa. Tư duy hoạt động với những cấu trúc ấy
và lấy đó làm đối tượng, là tư duy lý luận. Trong tư duy, hình thức thể hiện
cô đọng nhất của loại đối tượng này là các khái niệm, cho nên tư duy lý
luận nhất thiết phải có các khái niệm. Tư duy lý luận hoạt động trên những
đối tượng như thế, làm cho chúng vận động và triển khai rộng khắp đến
mức có khả năng hầu như chiếm hết khách thể nhận thức. Những đối tượng
của tư duy lý luận “dường như” là cái tuyệt đối mà không một kinh nghiệm
nào có khả năng giới hạn được chúng. Những quy luật mà tư duy lý luận
vạch ra căn cứ trên những đối tượng ấy “hầu như” cũng là cái vô hạn tuyệt
đối mà không bị giới hạn bởi bất cứ một kinh nghiệm nào.
Tư duy lý luận hướng đến nắm bắt những liên hệ bản chất, có tính
quy luật của đối tượng, cho nên đó là cách nhìn khách thể trong tính thống
nhất nội tại. Tư duy lý luận tiếp cận khách thể gắn với toàn bộ thực tiễn xã
hội - lịch sử của con người chứ không dừng lại trong ranh giới hạn hẹp của
thực tiễn cảm tính trực tiếp. Đó cũng là cách xem xét khách thể dưới “hình
thức sinh thành lịch sử, tự phát triển” [105, 39], xuyên qua những không
gian và thời gian cụ thể cảm tính, những quan hệ cụ thể cảm tính giữa chủ
thể và khách thể.
Tiếp cận khách thể với những phương thức khác nhau, cho nên giữa
tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận cũng khác nhau về phương thức hoạt
động.
Sản sinh ra tri thức, tư duy kinh nghiệm chủ yếu sử dụng quan sát và
thí nghiệm. Đây là những phương pháp nhận thức có tính thực tiễn trực
tiếp. Với quan sát và thí nghiệm, tư duy kinh nghiệm mô tả được cái bộc lộ
ra ở bề mặt hiện tượng, còn những gì ẩn dấu bên trong thì thường tỏ ra bất
19
lực và thậm chí có thể phủ nhận. Điều đó làm cho tính bề ngoài, tính đơn
nhất trực tiếp thường chiếm ưu thế trong nội dung của tri thức kinh nghiệm.
Tư duy kinh nghiệm cũng có thể sử dụng các phương pháp nhận thức lý
thuyết như phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, lôgíc và lịch sử,
trừu tượng và cụ thể, v.v Nhưng tư duy kinh nghiệm không sử dụng các
phương pháp này một cách thường xuyên, mặt khác lại không đưa chúng
vào nội dung của lôgíc vận động tri thức. Sử dụng không thường xuyên các
phương pháp nhận thức lý thuyết, tư duy kinh nghiệm nói chung bất lực với
tính quy luật và trong trường hợp có thể thì thường thể hiện nó thành từng
mặt, từng mảnh phiến diện. Sử dụng thường xuyên các quan sát và thí
nghiệm, tư duy kinh nghiệm biến chúng thành phương thức vận động chủ
yếu của tri thức, làm cho các tri thức mang nặng tính trực quan, đơn nhất và
hữu hạn.
Sản sinh ra tri thức lý luận, tư duy lý luận sử dụng thường xuyên, có
hệ thống phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, lôgíc và lịch sử, trừu
tượng và cụ thể, v.v Hơn nữa, với tư duy lý luận thì các phương pháp này
trở thành nội dung bên trong của lôgíc vận động tri thức. Nhờ vậy tư duy lý
luận vươn tới tính quy luật phổ quát, thoát khỏi tính bề ngoài trực tiếp, tính
khuôn hình đơn nhất của lĩnh vực các đối tượng nhận thức. Điều đó làm
cho tính thống nhất nội tại, tính phổ biến của khách thể được quán triệt và
chiếm ưu thế trong nội dung của tri thức lý luận. Tư duy lý luận cũng sử
dụng quan sát và thí nghiệm để kiểm tra tính xác thực của các tài liệu nhằm
xây dựng giả thiết và tạo dựng nên đối tượng, nhưng không biến các
phương pháp đó thành lôgíc vận động của tri thức lý luận.
Tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận còn khác nhau về hình thức,
nội dung và tính chất xuất hiện của tri thức do chúng sản sinh ra.
Tri thức kinh nghiệm thường có hình thức là cái đơn nhất, còn tri
thức lý luận có hình thức là cái phổ biến. ở đây, dưới dạng sơ bộ có thể
hiểu, cái phổ biến là những gì xuất hiện trong tư duy với tư cách cái chung -
tất yếu, còn cái đơn nhất là những gì xuất hiện trong tư duy với tư cách cái
xác định, có tính cá biệt và riêng rẽ. Như vậy, cái phổ biến không đồng
nhất với cái chung, bởi trong cái chung có thể có yếu tố không mang tính
tất yếu, còn cái đơn nhất thì được hiểu như là cái riêng. Tri thức kinh
nghiệm được tư duy sản sinh từ việc chế biến những cảm nhận giác quan
tức là những hình thức đơn nhất của sự phản ánh hiện thực. Tri thức lý luận
20
được tư duy sản sinh từ việc khám phá những liên hệ và thuộc tính của các
cấu trúc trừu tượng phổ quát do nó xây dựng nên, thể hiện dưới dạng các
nguyên lý và phạm trù lý thuyết, đó chính là những hình thức phổ biến của
sự phản ánh khách thể.
Với hình thức cái đơn nhất, tri thức kinh nghiệm thường có nội dung
là những tính qui định có khuôn hình cụ thể cảm tính và hữu hạn; với hình
thức cái phổ biến, tri thức lý luận có nội dung chủ yếu là những tính qui
định phổ biến không có khuôn hình cụ thể cảm tính và vô hạn. Vậy, có thể
nói một cách tương đối, tư duy kinh nghiệm sản sinh ra những tri thức đơn
nhất và đặc thù, còn tư duy lý luận sản sinh ra những tri thức phổ biến.
Nội dung của tri thức kinh nghiệm có thể bao hàm cả những tính qui
định thuộc về cái chung của khách thể, và điều đó nói lên khả năng trừu
tượng hóa, khái quát hóa ở trình độ nhất định của tư duy kinh nghiệm.
Song, tư duy kinh nghiệm lại diễn tả cái chung dưới hình thức cái đơn
nhất, thành ra cái chung thường bị chia cắt, cá thể hóa thành những trừu
tượng xa lạ với tính cụ thể của khách thể.
Nội dung của tri thức lý luận cũng có thể bao hàm những thuộc tính
cá biệt, đơn nhất, đặc thù của khách thể. Song, những thuộc tính đó được
phản ánh thống nhất trong hình thức cái phổ biến, cho nên chúng trở thành
những yếu tố thâm nhập và cấu tạo nên cái chung. Điều đó cho thấy, tư duy
lý luận với các tri thức của nó, có thể phản ánh được khách thể trong tính
thống nhất và tính cụ thể của bản chất.
Với hình thức tri thức là cái đơn nhất, tư duy kinh nghiệm gặp khó
khăn rất lớn khi thâm nhập vào bản chất của khách thể. ở mức độ nhất định,
tư duy kinh nghiệm chỉ có thể thâm nhập được vào từng mặt, từng mảnh
mà không bao giờ có thể quán triệt đầy đủ bản chất của khách thể. Ngược
lại, với hình thức tri thức là cái phổ biến, tư duy lý luận có khả năng đi sâu
vào bản chất khách thể, có thể diễn tả một cách tương đối đầy đủ và triệt để
tính quy luật của nó.
Tư duy kinh nghiệm thường sản sinh ra tri thức từ những tài liệu trực
tiếp (những cảm nhận giác quan) mà con người lĩnh hội được trong hoạt
động thực tiễn hằng ngày. Có thể coi tri thức kinh nghiệm là tri thức thực
tiễn trực tiếp. Những tài liệu thực tiễn trực tiếp, tự chúng là hỗn độn và bất
định nên chưa thể là tri thức. Khi những tài liệu đó được nhận thức xử lý,
đối chiếu và khớp nối với đối tượng và trở nên có hình thức chủ quan,
21
nghĩa là chúng đã được đem lại cho con người trong ý thức [xem 136,
247], mới trở thành tri thức. Việc xử lý các tài liệu thực tiễn trực tiếp để tạo
ra tri thức, là chức năng không chỉ của nhận thức cảm tính mà còn của cả
nhận thức lý tính. Những tri thức được nhận thức đem lại từ các tài liệu
thực tiễn, trong chừng mực tính trực tiếp của chúng chưa bị tước bỏ mà
còn được đưa vào hình thức cái đơn nhất để diễn tả đối tượng là những tri
thức kinh nghiệm, và tư duy với hoạt động của những tri thức ấy chính là tư
duy kinh nghiệm. Bao hàm nội dung chủ yếu là hoạt động của những tri
thức thực tiễn trực tiếp, tư duy kinh nghiệm dù có thể vươn lên trừu tượng
và có tính khái quát nhất định cũng không đi quá giới hạn hoạt động thực
tiễn cụ thể cảm tính của con người.
Tư duy lý luận cũng sản sinh ra tri thức từ những tài liệu có nguồn
gốc thực tiễn, nhưng đây là những tài liệu được xử lý bởi nhận thức lý tính
và do đó, ngay từ đầu chúng đã có tư cách là những tri thức. Nhận thức lý
tính tẩy rửa đi những gì đơn giản trực tiếp, làm cho các tài liệu đó còn lại
nội dung bao gồm những tính qui định chung, tất yếu. Những tính qui định
đó đến lượt chúng lại trở thành nguồn tài liệu được tư duy lý luận tổ chức
lại và đưa vào hoạt động như là sự vận động đối tượng của nó. Trên những
tài liệu như vậy, tư duy lý luận là hoạt động khớp nối chúng với các cấu
trúc trừu tượng phổ quát, lý tưởng hóa và đưa chúng vào trong hình thức
cái phổ biến để diễn tả khách thể.
Những phân tích trên đây về tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận
chứng tỏ rằng, nhận thức của con người có thể nắm bắt thế giới đối tượng
(khách thể) ở hai cấp độ khác nhau về chất. Dù vậy, giữa hai cấp độ đó của
tư duy không bao giờ có một hố ngăn cách thực sự tuyệt đối. Lịch sử nhân
loại cho thấy từ kinh nghiệm đến lý luận, từ tư duy kinh nghiệm đến tư duy
lý luận là một trong những phương diện phát triển của nhận thức. Điều đó
nói lên rằng, trong sự phát triển của nhận thức, tư duy kinh nghiệm và tư
duy lý luận có mối quan hệ biện chứng với nhau. ở phương diện phát triển
này của nhận thức, tư duy lý luận có trình độ cao hơn so với tư duy kinh
nghiệm và suy cho cùng, nó có cơ sở trong kinh nghiệm. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài
người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá
trình lịch sử” [87, 497]. Hẳn nhiên, từ kinh nghiệm đến lý luận và từ tư duy
kinh nghiệm đến tư duy lý luận không phải là một con đường phát triển đơn
22
giản. Nếu chỉ có kinh nghiệm thuần túy thì không một sự phát triển nào có
thể dẫn đến lý luận và tư duy lý luận. Từ kinh nghiệm, tư duy phải trải qua
một quá trình phủ định biện chứng phức tạp, vừa vượt bỏ những hạn chế
vừa kế thừa những yếu tố hợp lý của kinh nghiệm, mới có thể phát triển lên
cấp độ lý luận.
1.1.3. Những đặc trƣng của tƣ duy lý luận
Những phân tích trên cho phép chúng ta vạch ra các đặc trưng sau
đây của tư duy lý luận.
Thứ nhất, tư duy lý luận hoạt động trên những cấu trúc trừu tượng
phổ quát đã được giải phóng khỏi mọi giới hạn của những đối tượng được
cảm nhận giác quan (đối tượng của tư duy kinh nghiệm). Những qui định
chung, tất yếu trong khách thể được tư duy lý luận trừu xuất ra, tổ chức lại
thành các cấu trúc trừu tượng, có tính phổ quát (vừa phổ biến vừa khái
quát) và hoạt động với chúng. Trong
Tư bản
chẳng hạn, hàng hóa với tính
cách đối tượng của tư duy lý luận là một cấu trúc trừu tượng phổ quát, được
tạo dựng từ những tính qui định chung, tất yếu là “giá trị” và “giá trị sử
dụng” đã được trừu xuất khỏi các hàng hóa cá thể. Nhờ đó, tư duy lý luận
về hàng hóa không diễn tả hàng hóa này hay hàng hóa kia, hành vi trao đổi
này hay hành vi trao đổi kia, mà diễn tả bản chất của mọi hàng hóa, mọi
hành vi trao đổi và nguồn gốc của tất thảy những hiện tượng lệ thuộc vào
chúng.
Như vậy, những đối tượng của tư duy lý luận là sản phẩm của tư duy
và tồn tại trong đó dưới dạng thuần khiết như là hình thức lý tưởng hóa của
những đối tượng của tư duy kinh nghiệm. Trong quan hệ với những đối
tượng của tư duy kinh nghiệm, đối tượng của tư duy lý luận dường như là
cái tuyệt đối, có không gian và thời gian phi cảm tính. Vì thế, không một
đối tượng nào của tư duy kinh nghiệm có thể bao chứa hết đối tượng của tư
duy lý luận, ngược lại đối tượng của tư duy lý luận có thể được biểu hiện và
triển khai rộng rãi trong các đối tượng của tư duy kinh nghiệm. Đối tượng
của tư duy lý luận dường như tự do trong lĩnh vực hoạt động riêng của nó,
đồng thời là hình thức khái quát hóa của các đối tượng của tư duy kinh
nghiệm. Tạo dựng nên và hoạt động với đối tượng là những cấu trúc trừu
tượng phổ quát, thuần khiết và lý tưởng hóa, tư duy lý luận vượt qua được
tính cục bộ và tính mảnh đoạn của tư duy kinh nghiệm, có khả năng đi sâu