CƠ SỞ LÝ LUẬN THÁI ĐỘ
I. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU THÁI ĐỘ:
Trong tâm lý học cũng như một số ngành khoa học có liên quan, thuật ngữ
Thái độ được sử dụng khá nhiều. Tuy nhiên, thông thường người ta sử dụng thuật
ngữ này gần với nghĩa của khái niệm “mối quan hệ”.(1.T317). Thực chất ý nghĩa
khoa học của thuật ngữ phức tạp hơn rất nhiều và đã có rất nhiều trường phái
nghiên cứu thái độ khác nhau nhưng vẫn chưa tìm được sự thống nhất hoàn toàn.
Ngay từ năm 1935,trong “sổ tay TLH xã hội” G.W.Allport đã cho rằng khái niệm
thái độ “có lẽ là khái niệm phân biệt nhất trong TLH xã hội hiện đại Mỹ”. William
Mcguire cũng tổng kết: Thái độ và sự thay đổi thái độ vẫn là một trong những đề
tài được nghiên cứu nhiều nhất trong TLH xã hội. Sự cố gắng của các nhà TLH
trong các nghiên cứu về thái độ nhằm hiểu rõ, dự đoán, kiểm soát và thay đổi hành
vi con người đã mang lại rất nhiều kết quả, tuy nhiên phải thừa nhận đây là một
khái niệm tâm lý học khó xác định một cách chính xác. Chính vì vậy, lịch sử
nghiên cứu vấn đề này cho đến nay vấn còn nhiều tranh cãi.
1.1. Nghiên cứu thái độ TLH phương tây.
Ngay từ cuối thế kỷ XIX, từ Darwin và Spencer, ý nghĩa quan trọng của thái
độ đã được xem xét trong mối quan hệ với sự định hướng. Còn Shikhireb khi phân
tích lịch sử nghiên cứu thái độ ở phương Tây đã chia nó làm ba thời kỳ:
+ Thời kỳ đầu tiên (từ 1918 đến chiến tranh thế giới thứ 2).
Đây là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của việc nghiên cứu Thái độ, những người
đầu tiên sử dụng khái niệm thái độ như một đặc tính quan trọng của các vấn đề xã
hội là Thomas và Znaniecki. Trong các nghiên cứu của mình về người nông dân
Ba Lan, hai ông rất chú ý tới sự thích ứng của họ với môi trường xã hội thay đổi ở
Mỹ, tới sự thay đổi các giá trị cũ bằng các giá trị mới mà đặc điểm chủ yếu của nó
là vấn đề thái độ. Hai ông rút ra rằng: “Thái độ là trạng thái tinh thần “State of
mind” của mình của cá nhân đối với một giá trị” (1.T318).
Từ sự phát hiện trên bắt đầu bùng nổ các cuộc nghiên cứu khác nhau về thái độ,
mà tập trung chủ yếu vào định nghĩa, cấu trúc, chức năng, mối quan hệ giữa thái độ
và hành vi. Đặc biệt trong giai đoạn này La. Piere đã làm một thí nghiệm gây kinh
ngạc với kết luận chứng minh thái độ và hành vi (những gì chúng ta nói và những
gì chúng ta làm ) đôi khi rất khác nhau.
+Thời kì thứ 2: Từ 1940 đến cuối những năm 1950.
Đây là thời kì các nghiên cứu về thái độ giảm sút về số lượng và chất lượng vì
những khó khăn và bế tắc, đặc biệt là do sự quan tâm giảm sút của các nhà TLH
đối với các vấn đề xã hội sau kết luận của La Piere. Nét đặc trưng của nghiên cứu
thái độ thời kì này chính là sự hoài nghi về vai trò của thái độ trong việc chi phối
hành vi con người.
+Thời kì thứ 3: Từ cuối những năm 1950 đến nay
Thời kì này việc nghiên cứu thái độ tái phát triển trở lại, xuất hiện nhiều ý
tưởng, quan điiểm mới nhưng cũng kèm theo tình trạng khủng hoảng.(1.T318)
Trong TLH xã hội, vấn đề thái độ đã có một chỗ đứng xứng đáng. Nhiều nhà khoa
học đã đưa ra nhiều lý thuyết lý giải mối quan hệ giữa thái độ và hành vi, như
thuyết “Bất đồng nhận thức” của Leon Festinger(1957), thuyết “tự nhận thức” của
Daryl Bem(1967)
_ Theo Leon Festinger, “Bất đồng nhận thức” thường diễn ra khi hành vi mâu
thuẫn với thái độ. Và sự căng thẳng giữa các hành vi và thái độ quan trọng thường
được chúng ta làm giảm đi bằng cách bào chữa cho suy nghĩ chứ không phải hành
động của mình (1.T332)
_ Còn Daryl Bem lại nhấn mạnh một điều là khi thái độ của chúng ta không rõ
ràng hoặc cường độ của nó quá lớn thì chúng ta dựa vào các tình huống mà nó diễn
ra rồi suy luận về thái độ của mình.
_ Trong lúc đó, năm 1969 nhà TLH Allan Wicher lại tổng kết một loạt các
nghiên cứu về vấn đề này và đưa ra một kết luận kinh ngạc: Thái độ của con người
hầu như chẳng dự báo gì về hành vi của họ (1.T1327)
Bên cạnh đó các tác giả cũng đưa ra nhiều thang đo thái độ như phương pháp
“Đường ống giả vờ” của Edward Jones và Harold Sigall (1971) hay kỹ thuật “Lấn
từng bước một” của Jonathan Freedman và Scott Fraser (1966).
Theo Shikhirep, đặc điểm của tình trạng nghiên cứu thái độ ngày nay ở phương
Tây là có nhiều công trình và phương pháp cụ thể nghiên cứu thái độ nhưng trong
việc lí giải các số liệu thực nghiệm lại lâm vào cảnh bế tắc về phương pháp luận.
1.2. Nghiên cứu thái độ trong TLH Liên Xô cũ
Có thể nói các công trình nghiên cứu thái độ của các nhà TLH Liên Xô có
đóng góp rất lớn vào hệ thống lí luận của vấn đề này. Hầu hết các nghiên cứu thái
độ trong TLH Liên Xô chịu sự chi phối từ nền tảng TLH hoạt động A.N.
Leonchier, trong đó nổi lên thành công của thuyết tâm thế xã hội(Uznatze và các
đồng sự) và thuyết định vị(Iadop) là những học thuyết có ảnh hưởng tới TLH Xô
viết hơn cả.
Theo Uzatze, thái độ hay “tâm thế” được hiểu là “sự biến dạng hoàn chỉnh
của chủ thể” là trạng thái sẵn sàng hướng tới một hoạt động nhất định, là cơ sở của
tính tích cực có sự lựa chọn của chủ thể, xuất hiện khi có sự hội ngộ của hai yếu tố
nhu cầu và hoàn cảnh thoả mãn nhu cầu. Tuy nhiên, hạn chế của Ông là chỉ sử
dụng các vô thức để lí giải hành vi con người.
Iadob khi nghiên cứu về vai trò của tâm thế trong những hành vi xã hội của
nhân cách thì cho rằng con người có một hệ thống các tổ chức định vị khác nhau
phức tạp điều khiển hành vi. Các định vị này được tổ chức 4 bậc với các mức độ
khác nhau, hình thành trên cơ sở: Các nhu cầu và tình huống đơn giản nhất (bậc
1)_ các tình huống giao tiếp trong nhóm nhỏ (bậc 2)_ các lĩnh vực hoạt động xã
hội cụ thể (bậc 3) và bậc 4 là sự hình thành nên hệ thống định hướng giá trị của
nhân cách, điều chỉnh hành vi và hoạt động của nhân cách trong những tình huống
mà tính tích cực xã hội có giá trị nhất đối với nhân cách.
Còn V.N.Miasixer, tác giả thuyết “thái độ nhân cách” thì lại coi nhân cách
như một hệ thống thái độ và thường sử dụng các thuật ngữ “thái độ cá nhân”, “thái
độ tâm lý” … để phân tích các dạng, các hình thức của chúng. Ông cho rằng: “Thái
độ là khía cạnh chủ quan bên trong, là hệ thống toàn vẹn của mối liên hệ cá nhân_
có chọn lọc, có ý thức_ của nhân cách với các khía cạnh khác nhau của hiện thực
khách quan.” Ông cũng khẳng định cơ sở sinh lí học của thái độ có ý thức của con
người là các phản xạ có điều kiện “… thái độ là điều kiện khái quát bên trong của
hệ thống các hành động của con người”. Có nghiên cứu vấn đề thái độ, Miasixer đã
nhìn nhận nó với con mắt xã hội_ lịch sử, chú ý đến thái độ trong mối quan hệ với
hành vi và cho rằng: nhu cầu, hứng thú, thị hiếu, tình cảm….cũng là thái độ. Tuy
nhiên, việc coi hàng loạt các thuộc tính tâm lí nhân cách, các quá trình tâm lý là
thái độ thì chưa có cơ sở khoa học.
Như vậy, với cách tiếp cận hoat động_ nhân cách, gắn thái độ với nhu cầu và
điều kiện hoạt động, coi thái độ là hệ thống có thứ bậc, TLH Liên Xô đã đưa ra
cách giải thích hợp lí về sự hình thành thái độ, vị trí của thái độ trong cấu trúc nhân
cách, chức năng của thái độ trong điều chỉnh hành vi xã hội và hoạt động của cá
nhân.
1.3. Nghiên cứu thái độ ở Cộng hoà dân chủ Đức
Những công trình nghiên cứu thái độ tiêu biểu của các nhà tâm lý xã hội
M.Phovec, V.Mayzo… Ngoài việc đề cập đến các vấn dề truyền thống như khái
niệm, chức năng …của thái độ còn đi sâu vào tìm hiểu về các kiểu thái độ và cơ
chế hình thành thái độ (bắt chước, đồng nhất hoá, giảng dạy, chỉ dẫn) và đạt được
kết quả khả quan.
1.4. Nghiên cứu thái độ ở Việt Nam
Những nghiên cứu thái độ ở Việt Nam chịu ảnh hưởng rất nhiều của hệ
thống TLH Liên Xô. Nghiên cứu lý luận về vấn đề này chưa nhiều, chủ yếu là các
quan điểm của một số nhà nghiên cứu tâm lý đầu ngành như Nguyễn Khắc Viện,
Phạm Minh Hạc .(2)
Khi bàn về thái độ, Nguyễn Khắc Viện cho rằng:” trước một đối tượng nhất
định nhiều người thường có những phản ứng tức thì, tiếp nhận dễ dàng hay khó
khăn, đồng tình hay chống đối như đã có sẵn những cơ cấu tâm lý tạo ra định
hướng cho việc ứng phó. Từ những thái độ sẵn có tri giác về đối tượng cũng như
tri thức bị chi phối, về vận động thì thái độ gắn liền với tư thế” Như thế, quan điểm
của Nguyễn Khắc Viện về vấn đề này là thái độ đối với một đối tượng nào đó sẽ
chi phối hành động của họ đối với đối tượng ấy.
Theo tạp chí tâm lý học số 8/2004, thái độ được nhìn nhận “là một trạng thái
tâm lý chủ quan của cá nhân sẵn sàng phản ứng theo một khuynh hướng nhất định
đối với một đối tượng nào đó, được thể hiện thông qua nhận thức, xúc cảm – tình
cảm và hành vi cụ thể”.
Cũng đã có rất nhiều bài báo, bài viết nhỏ, các luận án, khoá luận hay các
báo cáo đi vào nghiên cứu thái độ nhưng là đối với một đối tượng cụ thể, và nghiên
cứu về thái độ của một bộ phận người dân địa phương đối với vấn đề bảo tồn và
phát triển nghề dệt thổ cẩm thì có lẽ chưa nhiều.
II. CÁC KHÁI NIỆM CÔNG CỤ CỦA ĐỀ TÀI:
2.1. Khái niệm “Thái độ”
2.1.1. Khái niệm.
- Theo đại từ điển tiếng Việt:
+ Thái độ là mặt biểu hiện bên ngoài của ý nghĩ, tình cảm đối với ai hay việc
gì thông qua nét mặt, cử chỉ, lời nói, hành động.
+ Thái độ là ý thức, cách nhìn nhận, đánh giá và hành động theo một hướng
nào đó trước một sự việc.
- Trong Xã hội học có quan điểm cho rằng: “thái độ là nền tảng ứng xử xã hội của
cá nhân, là một hoạt động tâm lý của cá nhân bao hàm sự lý giải và biến đổi các
khuôn mẫu xã hội thông qua kinh nghiệm của cá nhân”.
- Theo phương Tây:
+ 1918 – 1920 những người đầu tiên sử dụng khái niệm thái độ là W.I.
Thomas và F. Zaniecki cho rằng “thái độ là trạng thái tinh thần của cá nhân đối với
một giá trị”.
+ Còn Allport cho rằng “thái độ là trạng thái sẵn sàng về mặt tinh thần và
thần kinh được tổ chức thông qua kinh nghiệm, có khả năng điều chỉnh hoặc ảnh
hưởng năng động đối với phản ứng của cá nhân hướng đến các khách thể và tình
huống mà nó quan hệ”. Như vậy, thái độ được coi như một trạng thái tâm lý và
thần kinh của hoạt động, tuy nhiên ông chưa nói đến vai trò của môi trường xã hội,
của nhu cầu trpng quá trình hình thành thái độ.
+ Newcome cho rằng: “thái độ của cá nhân đối với một đối tượng nào đó là
thiên hướng hành động, nhận thức, tư duy, cảm nhận của anh ta với khách thể liên
quan”. (1. T319). Theo đó, ông cho rằng thái độ nhất định với khách thể sẽ quy
định sự sẵn sàng phản ứng của chủ thể.
+ Phillmore. H định nghĩa: “Thái độ là sự sẵn sàng phản ứng tích cực hay
tiêu cực đối với đối tượng hay các ký hiệu (biểu tượng) trong môi trường….Thái
độ là sự định hướng của cá nhân đến các khía cạnh khác nhau của môi trường và là
cấu trúc có tính động cơ.
+ H.C . Triandis đã coi: “thái độ của con người bao gồm những điều người
ta suy nghĩ và cảm thấy về đối tượng cũng như sự xử sự của họ đối với nó…”
Như vậy, các tác giả TLH phương Tây đều định nghĩa thái độ dựa trên một
điểm tựa là chức năng của nó. Thái độ thực hiện việc định hướng hành vi ứng xử
của con người, thúc đẩy và tăng cường tính sẵn sàng của những phản ứng nơi con
người hướng tới đối tượng.