HỒ CHÍ MINH - THƠ TẾT VÀ THƠ XUÂN
Trên thế giới có lẽ ít có nguyên thủ quốc gia nào cứ hàng năm, vào dịp đầu năm mới lại làm thơ
chúc Tết và coi đó như món quà mừng tuổi của mình gửi nhân dân cả nước như Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Thủ tướng Phạm Văn Đồng có lần đã viết: “ Hồ Chủ tịch là người Việt Nam, Việt Nam hơn
người nào hết. Ngót ba mươi năm bôn ba bốn phương trời, Người vẫn giữ thuần tuý phong độ,
ngôn ngữ, tính tình của một người Việt Nam. Ngay sau khi về nước, gặp Tết, Người không quên
mừng tuổi đồng bào hàng xóm và quà bánh cho trẻ em. Chỉ có mấy đồng xu, nhưng cũng bọc
giấy hồng đơn cẩn thận, tươm tất...”
Sau này, trên báo Sài Gòn giải phóng số Xuân Bính Thìn 1976, nhà thơ Chế Lan Viên đã nói tới cái
lớn hơn trong gói giấy hồng đơn bọc tiền mừng tuổi của Bác là tấm lòng Người. Đúng vậy: “Bác
làm thơ đâu chỉ vì Tết, đâu chỉ vì thơ. Mà vì những điều lớn hơn thơ và Tết nữa. Đấy là vì lòng tôn
trọng các truyền thống tốt đẹp của nhân dân, và để kêu gọi nhân dân đi theo con đường cách
mạng”:
“Mấy lời thành thật nôm na
Vừa là kêu gọi vừa là mừng xuân”
(Thơ Hồ Chí Minh - Nxb Giáo dục 1977-trang 321)
Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng, sau này trở thành quốc kỳ của nước ta, đã được Bác đưa vào trong
thơ từ rất sớm. Trước tiên là bài:
Mừng Xuân 1942
Tháng ngày thấm thoắt chóng như thoi
Năm cũ qua rồi, chúc năm mới
Chúc phe xâm lược sớm diệt vong
Chúc phe dân chủ sẽ thắng lợi
Chúc đồng bào ta đoàn kết mau
Chúc Việt Minh ta càng tiến tới
Chúc toàn quốc ta trong năm nay
Cờ đỏ sao vàng bay phấp phới
Năm nay là năm Tết vẻ vang
Cách mạng thành công khắp thế giới.
(1/1/1942)
Mấy tháng sau, khi bất ngờ bị bọn Tưởng Giới Thạch bắt giam trong các nhà ngục ở Quảng Tây,
phải đi xa phong trào cách mạng, Bác của chúng ta rất tiếc thời gian. Đêm đêm Bác cứ trằn trọc
không ngủ được, vừa chợp mắt là ngôi sao vàng năm cánh trên lá cờ đỏ lại hiện ra:
Một canh...hai canh...lại ba canh
Trằn trọc, băn khoăn giấc chẳng thành
Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh
(Không ngủ được - Nhật ký trong tù)
Lúc này chưa thành lập nước, nhưng rõ ràng đối với Bác, lá cờ đỏ sao vàng lần đầu tiên xuất hiện
trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ 1940 đã trở thành biểu tượng của cách mạng, của Tổ quốc.
Năm năm sau, lá cờ đỏ sao vàng ấy lại tung bay hào hùng trong bài “Chúc năm mới”, dịp Tết Đinh
Hợi 1947:
Cờ đỏ sao vàng tung bay trước gió
Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông
Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến
Chí ta đã quyết, lòng ta đã đồng
Tiến lên chiến sỹ! Tiến lên đồng bào
Sức ta đã mạnh, người ta đã đông
Trường kỳ kháng chiến, nhất định thắng lợi
Thống nhất độc lập, nhất định thành công
Khi phân tích những bài thơ chúc Tết này, chúng ta đừng tìm ở đây những nét nghệ thuật cao xa,
những hình tượng thẩm mỹ sâu sắc. Bởi những năm này dân ta còn nhiều người chưa biết chữ,
Bác muốn người dân có thể nhập tâm đường lối, nhiệm vụ cách mạng đã được kết tinh cô đúc
trong các khẩu hiệu, và Bác ghép các khẩu hiệu ấy lại cho thành bài văn vần dễ nhớ, dễ thuộc.
Chính Bác cũng có lần đã nói: Thơ Bác không phải bài nào cũng hay, vì Bác không làm thơ, Bác
làm để kêu gọi, để nhắc nhở mọi người nhiệm vụ cách mạng.
Bác chính là người sáng lập, giáo dục và rèn luyện Đảng ta, nhưng Bác không bao giờ tự đề cao
vai trò cá nhân của mình. Bác luôn luôn nói đến tập thể, nói đến vai trò tiên phong của Đảng.
Vẫn bằng những lời thơ giản dị, nôm na, đầu xuân 1960, Bác khẳng định công lao to lớn của
Đảng, đồng thời diễn giải những nét tinh hoa tiêu biểu và mục đích hành động của Đảng ta.
Đảng ta vĩ đại như biển rộng, như núi cao
Ba mươi năm phấn đấu và thắng lợi biết bao nhiêu tình!
Đảng ta là đạo đức là văn minh
Là thống nhất, độc lập, là hoà bình, ấm no
Công ơn Đảng ta thật là to
Ba mươi năm lịch sử Đảng là cả một pho lịch sử bằng vàng
(Đảng ta - Thơ Hồ Chí Minh - trang 218)
Liên tục trong nhiều chục năm, năm nào Bác cũng có thơ chúc Tết đồng bào chiến sỹ cả nước và
kiều bào ta ở nước ngoài. Nói như Chế Lan Viên, theo thơ chúc Tết của Bác chúng ta đi từ năm
tháng này qua năm tháng khác, từ gian khổ này vượt lên giành thắng lợi kia. Những bài thơ chúc
Tết về sau này không chỉ còn là lời kêu gọi nữa, mà đã thực sự là bản hùng ca của toàn dân tộc.
Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua
Thắng trận tin vui khắp nước nhà
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
Tiến lên!
Toàn thắng ắt về ta
(Mừng Xuân 1968)
Ngay năm sau, năm 1969, Bác gửi đến toàn Đảng, toàn dân bài thơ chúc Tết cuối cùng với lời
đoán chắc chiến thắng, lời dự báo sự sụp đổ của Mỹ nguỵ, Mỹ trước, nguỵ sau, đứa cút, đứa
nhào:
Năm qua thắng lợi vẻ vang
Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to
Vì độc lập, vì tự do
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào
Tiến lên!
Chiến sỹ, đồng bào!
Bắc Nam sum họp, xuân nào vui hơn
(Mừng Xuân 1969)
Nếu như nhà thơ Thổ Nhĩ Kỳ NamDimHíchmét: “Thơ và nghệ thuật nói chung phải chiến đấu cho
hạnh phúc của con người”, thì những bài thơ trên đây của Hồ Chủ tịch không những là thơ mà còn
là thơ hay.
Đó là những bài thơ “nôm na” như chính Bác đã nói, những bài thơ viết cho toàn dân, mà số đông
là những người ít học, đọc hoặc nghe cũng hiểu và làm theo được. Còn trong những hoàn cảnh
khác, Bác lại có cách ứng xử khác. Khi trò chuyện với các vị thân sĩ, nhân sĩ, các bậc đại khoa có
trình độ Hán học uyên thâm đi kháng chiến chống Pháp Bác lại làm thơ chữ Hán, theo lối Đường
thi - một loại thơ mà theo cách nghĩ của các danh nho, người tầm thường không thể viết được.
Năm 1948, bộn bề công việc kháng chiến, Bác vẫn làm thơ chữ Hán tặng cụ Bùi Bằng Đoàn (Tặng
Bùi Công). Bài thơ có những câu chỉ mới đọc phần dịch nghĩa đã thấy tuyệt bút rồi:
Khi xem sách, chim rừng đậu ở song cửa sổ
Lúc phê công văn, đoá hoa xuân soi bóng trong nghiên mực
(Tặng Bùi Công - Thơ Hồ Chí Minh - trang 244)
Cũng trong năm 1948, Bác có bài Nguyên tiêu (Rằm tháng giêng). Ai không thạo chữ Hán, khi đọc
phần phiên âm cũng thấy bị cuốn hút vào mạch thơ xuân:
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang, xuân thuỷ, tiếp xuân thiên
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán qui lai nguyệt mãn thuyền.
Đồng chí Xuân Thuỷ dịch thơ:
Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân
Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.
Bài thơ là một bức tranh có không gian, có thời gian, có đường nét, có màu sắc, có sông xuân,
nước xuân, trăng xuân và bầu trời xuân. Trăng vốn là nguồn gợi cảm chính cho hồn thơ Bác.
Trăng cũng là yếu tố thứ nhất của đêm rằm. Nhưng ở đây con người hoàn toàn chủ động trước
cảnh mới là yếu tố tạo hồn cho bức tranh đêm xuân giữa núi rừng Việt Bắc. Con người đang bàn
bạc việc quân. Việc quân bàn xong cũng là lúc đêm xuân đã về khuya. Cảm xúc thơ bừng lên
mãnh liệt, hồn thơ lai láng. Trăng xuân oà vào lòng người, người mở rộng lòng đón trăng. Trăng
với người thật là tri âm tri kỷ. Thiên nhiên hào hùng diễm lệ. Con người tin yêu sảng khoái và lạc
quan. Con người trong thơ ấy chính là Bác Hồ kính yêu của chúng ta. Tâm hồn lớn của Bác đã
khiến cho một bài thơ nhỏ tả cảnh trăng xuân giữa núi rừng Việt Bắc mang âm hưởng hào hùng
của cuộc kháng chiến thần thánh của toàn dân tộc.
Tâm thế sảng khoái và lạc quan ấy của Bác, gần hai mươi năm sau ta lại thấy lấp lánh ngay trong
một câu thơ tuyên truyền, đặt trong bài báo “Năm mới hãy nhiệt liệt tổ chức Tết trồng cây”(1-1-
1965)
Mùa Xuân là Tết trồng cây
Làm cho đất nước càng ngày càng xuân
Một mùa xuân mới đang đến, trước mùa xuân đầy sức sống sinh sôi, xin được kết thúc trang viết
này bằng bài thơ chữ Hán cuối cùng trong đời, Bác sáng tác tháng 3 năm 1968, bài Vô Đề:
Tam niên bất ngật tửu xuy yên
Nhân sinh vô bệnh thị chân tiên
Hỷ kiến nam phương liên đại thắng
Nhất niên tứ quý đổ xuân thiên
Nhà thơ Khương Hữu Dụng dịch:
Thuốc kiêng, rượu cữ đã ba năm
Không bệnh là tiên sướng tuyệt trần
Mừng thấy miền Nam luôn thắng lợi
Một năm là cả bốn mùa xuân
Mong muốn “làm cho đất nước càng ngày càng xuân”, mong muốn “một năm là cả bốn mùa
xuân”, tức là mong muốn cho dân tộc ta được hạnh phúc vĩnh hằng. Đó cũng là cái đích Đảng ta
phấn đấu đạt tới. Đó đồng thời là nét đẹp tột đỉnh của con người Hồ Chí Minh và là Hồn thơ lớn
của Người