P h a n V ă n D ậ t k h ô n g c h ỉ c ó
D i ễ m D ư ơ n g T r a n g .
Hợp tuyển “Tác phẩm được giải thưởng Tự lực văn đoàn” (Nhà xuất bản Văn học - 2001) do nhóm
tác giả Bích Thu, Lưu Khánh Thơ, Thuỷ Liên sưu tầm giới thiệu chỉ có mấy dòng vắn tắt về tác giả
tiểu thuyết “Diễm Dương Trang” như sau: “Tiểu thuyết của Phan Văn Dật, giải thưởng năm 1935.
Hiện chưa rõ về tác giả”. Đây là một thiếu sơt đáng tiếc ở một hợp tuyển được sưu tầm và biên
sạon khá công phu, vì đương thời Phan Văn Dật là một người có ít nhiều danh tiếng trên văn đàn
và đã được Hoài Thanh - Hoài Chân chọn đưa vào “Thi nhân Việt Nam” hồi nữa đầu thế kỷ trước.
Phan Văn Dật sinh ngày 18-8-1907 tại phủ An Thường công chúa ở xóm Xuân An làng Phú Xuân
(nay là phường Vĩnh Ninh - Huế). Chánh quán làng Đạo Đầu xã Triệu Trung huyện Triệu Phong
Tỉnh Quảng Trị. Thân phụ là Thị độc đại học sĩ Phan Văn Dư, cháu nội của cụ Phan Văn Thuý -
một bộ tướng của Nguyễn Ánh có nhiều công trạng trong quá trình lật đổ Tây Sơn lập nên Triều
Nguyễn, sau này được thăng đến chức Đô thông hậu quân.
Xuất thân trong một dòng tộc nhiều đời là võ quan nhưng Phan Văn Dật để lại dấu ấn cuộc đời
mình trong lĩnh vực văn chương. Điều này chắc chắn ông được thừa hưởng từ dòng máu của
người mẹ - bà Trần Thị Hoà - là chị ruột của hai nhà văn Trần Thanh Mại và Trần Thanh Địch, con
trai của Lang trung Bộ Lại Trần Nhã.
Năm 1927, tốt nghiệp Cao đẳng tiểu học nhưng Phan Văn Dật không theo nghề dạy học mà xin
vào làm tại Sở Trước bạ Đà Nẵng rồi ít năm sau ra Huế làm việc tại Nha Ngân khố Trung Kỳ. Tiểu
thuyết “Diễm Dương Trang” được viết vào thời gian này nên bối cảnh được tác giả đưa vào tiểu
thuyết chủ yếu tại bãi biển Mỹ Khê nằm cách Đà Nẵng không xa, nơi có “Dãy núi Trà chạy dọc về
phía Đông Bắc, mấy trái núi tròn trịa uốn mình vạch một đường lục thẫm giữa lưng trời xanh biếc,
Ngũ Hành Sơn, xa xa chỉ còn bé bằng một chồng non bộ” và tại một trang gia ở làng Giao Thuỷ
cách hữu ngạn sông Hương chững vài trăm thước, được tác giả mô tả rất Huế: “Diễm Dương
Trang là một sở vườn rộng ước ngoài năm chục mẫu cây cối um tùm. Từ ngoài ngõ đi vào con
đường dai độ ba trăm thước, phía trước trồng nhiều nhất là cau với chè… Nhà là một kiểu nhà
ngói xưa, ba căn hai chái hướng về phía Đông Nam và day hông ra đường. Cái đặc sắc của nó là
đã trải mấy đời mưa nắng nên trông già cỗi như một nếp chùa làng”. Nếu Mỹ Khê là nơi gặp gỡ
bất ngờ giữa một thiếu niên công chức với thiếu nữ nhà họ Dương thì Diễm Dương Trang là nơi
chứng ngộ cho mối tình nảy nở của hai người. Toàn bộ tiểu thuyết chỉ có vậy, nhưng so với những
tác phẩm trước đó, vấn đề tình yêu và hôn nhân được đặt ra ở một cấp độ khác và mới hơn. Con
người được giải phóng khỏi trói buộc của những quy phạm bất di bất dịch, cá nhân được tự do
nảy nở tính tình, tự do yêu đương. Điều này hoàn toàn phù hợp với Tự lực văn đoàn về tôn chỉ
mục đích sáng tác nên đã được đưa vào xét và trao gỉai khuyến khích năm 1935 cùng với các tác
phẩm Ba của Đỗ Đức Thu, Bóng mây chiều của Đinh Thế Du.
Nhưng văn nghiệp của Phan Văn Dật không chỉ có Diễm Dương Trang. Ông còn có hai tập thơ
Bâng khuâng (đã được trích và giới thiệu trong Thi nhân Việt Nam), Những ngày vàng lụa (chưa
xuất bản mà chỉ trích in một phần trong Hương Bình thi phẩm của Hoàng Trọng Thược, Việt Nam
Thi nhân tiền chiến của Nguyễn Tấn Long và trên tuần báo Mùa Lúa Mới) và nhiều bài tiểu luận
phê bình đăng rải rác ở các tạp chí hiện còn được người con gái là bà Phan Thị Yến Nhi cất giữ.
Chỉ cần lướt qua đề mục đủ thấy ngòi bút Phan Văn Dật đa dạng, đa phong cách. Từ Giới thiệu
kịch gia Pháp Môlie (Rạng Đông, Sài Gòn), Trường hành nhân, Con ma nhà đá hay ông Kểnh Lồ
Ô (Thần Kinh, Huế), Bài thơ ông Viên Hộ (Nam Phong), Văn điếu cụ Phan Tây Hồ (Thực nghiệp
Dân báo), Ông Bá gạo hay là sự sùng bái bò vàng, Dưới bóng bồ đề (Tràng An)… trước năm
1945 đến Tấn tuồng câm, Hoa cuối mùa (Cười) , Các nhân vật trong Truyện Kiều (Nghệ thuật và
Tân sinh), Khuynh hướng hoài Lê trong thi văn Việt Nam, Đi tìm sự thật về Cao Bá Quát (Thể
Hiện), Ông Tú Xương và câu chuyện thi cử (Đại Học), Khảo sát một số địa danh ở Huế qua ca
dao (Mỹ Thuật)… ở Miền Nam trước năm 1975.
Ở nữa đầu thế kỷ XX, khi nổ ra cuộc tranh luận gay gắt giữa hai trường phái Nghệ thuật vị nghệ
thuật và Nghệ thuật vị nhân sinh với các tên tuổi lừng danh trên văn đàn lúc bấy giờ cũng như
trong văn học sử học về sau như Hải Triều, Phan Văn Hùm, Hồ Xanh, Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư,
Tràng Kiều .v.v…Phan Văn Dật đã trình làng bài văn nghị luận Nghệ thuật với nhân sinh đăng ở
báo Khuyến Học số ra ngày 15-12-1935. Ông đã phát biểu quan điểm của mình: “ Nghệ thuật nào
mà chẳng vị nhân sinh? Mà xét cho cùng cái gì loaì người đã bày ra trên cõi đất này, mà vẫn đời
đời tồn tại, thì tất nhiên là vị nhân sinh rồi… Ta không nên bằng lòng chỉ coi nghệ thuật như là một
thứ xa xỉ phẩm, vì giá một nước nhà mà chỉ chuộng rặt một lối văn chương du hí, phù phiếm thôi
thì chắc nước ấy đã rước lấy sự suy nhược cho mình rồi….Tôi tin rằng cái ý nghĩa của một tác
phẩm không những tác giả đã cho nó mà thôi, mà còn cho người đọc….Ta thử hỏi, ừ thì nghệ
thuật cốt tử là tìm ra cái đẹp mà thôi, nhưng tìm ra cái đẹp rồi để làm gì chứ? Xét cho cùng chỗ
cứu cánh của cái đẹp cũng bất ngoại vì nhân sinh”.
Mặc dâu không được trang bị lý luận Mác-xít như Hải Triều và các nhà văn đàn anh khác nhưng
trong quan điểm cá nhân ông đã đứng về phía Nghệ thuật vị nhân sinh, bởi thế nhận định của ông
khá gần gũi với những đánh giá của chúng ta hiện nay. Điều đó cho thấy trong sáng tạo nghệ
thuật và cách nhìn vào những giá trị đích thực của nghệ thuật Phan Văn Dật không bằng lòng
với sự tô màu mỹ học lộ liễu nào.
Ngoài sáng tác và viết phê bình, Phan Văn Dật còn để công nghiên cứu và dịch thuật. Trong thập
niên 60 của thế kỷ trước, lúc về nghỉ hưu ở Huế, ông đã được Viện Đại học Huế mời cộng tác biên
dịch sử liệu và tham gia giảng dạy Hán nôm, Lịch sử mỹ thuật, Văn hoá Việt Nam ở các trường
Đại học Văn khoa Huế, Cao đẳng Mỹ thuật.
Những gì Phan Văn Dật để lại không thiếu những biểu hiện của một nhà văn, nhà nghiên cứu và
còn nhiều điều nữa mà văn học sử sẽ tiếp tục có những đánh giá xác đáng.