Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Quyết-định-tạm-đình-chỉ-xét-xử-phúc-thẩm-vụ-án-hành-chính HT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.77 KB, 40 trang )

Nguyễn Thị Bích Hồng

Lớp: TM42A2

MSSV: 1753801011066

MỤC LỤC
A. TRÌNH BÀY VÀ PHÂN TÍCH QUYẾT ĐỊNH TẠM ĐÌNH CHỈ XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN
HÀNH CHÍNH ĐIỀU 228 LUẬT TTHC 2015............................................................................................2
LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................................................................2
I. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA TẠM ĐÌNH CHỈ XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN
HÀNH CHÍNH................................................................................................................................................3
1.1. Khái niệm, đặc điểm của tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính............................................3
1.1.1. Khái niệm của tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính..........................................................3
1.1.2. Đặc điểm của tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính...........................................................4
1.2. Ý nghĩa của tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính.................................................................5
1.3. Cơ sở khoa học của việc quy định về tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính........................6
II. NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH VỀ TẠM ĐÌNH CHỈ XÉT
XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH.................................................................................................7
2.1. Căn cứ tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính.........................................................................7
2.2. Thẩm quyền, thủ tục và hậu quả pháp lí của tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính...........17
2.2.1. Thẩm quyền, thủ tục tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính..............................................17
2.2.2. Hậu quả pháp lý của tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính..............................................17
III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ KIẾN NGHỊ XÂY DỰNG QUY ĐỊNH
PHÁP LUẬT VỀ TẠM ĐÌNH CHỈ XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH........................19
3.1. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm..............................................19
3.2. Nguyên nhân............................................................................................................................................21
3.2.1. Nguyên nhân khách quan......................................................................................................................21
3.2.2. Nguyên nhân chủ quan..........................................................................................................................21
3.3. Một số kiến nghị cần thiết........................................................................................................................22
3.3.1. Kiến nghị về xây dựng quy định pháp luật..........................................................................................22


3.3.2. Kiến nghị về công tác thực hiện pháp luật...........................................................................................23
IV. KẾT LUẬN..............................................................................................................................................23
B. CHO VÍ DỤ VỀ VIỆC ĐÌNH CHỈ XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH....................24


Nguyễn Thị Bích Hồng

Lớp: TM42A2

MSSV: 1753801011066

CÁC CHỮ VIẾT TẮT

VAHC

Vụ án hành chính

TTHC

Tố tụng hành chính

Luật TTHC 2015

Luật Tố tụng Hành chính 2015, sửa đổi bổ sung
2019

BLDS

Bộ luật dân sự


TAND

Tịa án nhân dân

UBND

Ủy ban nhân dân


Nguyễn Thị Bích Hồng

Lớp: TM42A2

MSSV: 1753801011066

A. TRÌNH BÀY VÀ PHÂN TÍCH QUYẾT ĐỊNH TẠM ĐÌNH CHỈ XÉT
XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH ĐIỀU 228 LUẬT TTHC 2015
LỜI MỞ ĐẦU
Quan hệ pháp luật hành chính là một quan hệ đặc biệt hơn so với các quan hệ pháp
luật khác. Nếu như trong quan hệ dân sự quan hệ giữa các bên mang tính bình đẳng, các
bên được tự do thỏa thuận, định đoạt thì trong quan hệ hành chính, một bên tham gia ln
là mang quyền lực Nhà nước. Đó có thể là cơ quan quyền lực Nhà nước hoặc người có
thẩm quyền trong cơ quan có thẩm quyền đó. Vậy nên, quan hệ trong hoạt động quản lý
hành chính Nhà nước ln mang tính khập khiểng.
Việc Tồ án giải quyết VAHC nói riêng hay các vụ án nói chung đều là nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Khi cá nhân, cơ quan, tổ chức cho rằng quyền và
lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính
của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan Nhà
nước, họ có thể có 2 cách thức để bảo vệ quyền lợi cho mình. Một là họ có thể khiếu nại
lên cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm quyền để xem xét quyết định hành chính, hành

vi hành chính đó. Con đường này chứa nhiều ưu điểm nổi trội bởi: (i) rất nhanh chóng về
mặt thời gian, nhanh chóng về mặt thủ tục; (ii) khiếu nại sẽ giúp người bị xâm phạm tiết
kiệm được thời gian, chi phí, cơng sức; (iii) khiếu nại mang tính chất nội bộ nên người
khiếu nại sẽ khơng bị người khác biết về vấn đề của mình; và (iv) nếu khiếu nại thành
cơng thì quyền lợi được khơi phục nhanh chóng, kịp thời, ngay lập tức mà người khiếu
nại không cần phải chờ thời gian thi hành án. Tuy con đường khiếu nại có nhiều ưu điểm,
nhưng khơng phải lúc nào người khiếu nại cũng hài lịng với kết quả khiếu nại và không
phải lúc nào cứ khiếu nại là nghiễm nhiên được cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm
quyền giải quyết.
Trong trường hợp khơng đồng ý với con đường khiếu nại hoặc đã khiếu nại mà
khơng được giải quyết thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện ra Tịa án có thẩm
quyền để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án hành chính. Nhưng khơng phải trường hợp nào
người khởi kiện cũng cần khiếu nại trước khi khởi kiện, người khởi kiện chỉ bắt buộc
khiếu nại trước khi khởi kiện đối với khiếu kiện về danh sách cử tri. Nên khi cho rằng


Nguyễn Thị Bích Hồng

Lớp: TM42A2

MSSV: 1753801011066

quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm bởi quyết định hành chính, hành vi
hành chính người đó có thể khởi kiện ngay ra Tịa án có thẩm quyền giải quyết mà không
thông qua con đường khiếu nại. Như vậy, khi người khởi kiện lựa chọn con đường Tòa án
để giải quyết thì vụ án hành chính phát sinh. Trong nhiều trường hợp bản án, quyết định
của Toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo do đương sự không dồng
ý với bản án, quyết định hoặc viện kiểm sát kháng nghị thì Tịa án cấp trên trực tiếp sẽ xét
xử lại vụ án và đây được gọi là xét xử phúc thẩm vụ án hành chính. Trong quá trình giải
quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm Tịa án cấp phúc thẩm có lúc cần phải ra quyết định

tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm do xuất hiện những căn cứ luật định như đương sự là cá
nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã giải thể hoặc tuyên bố phá sản mà chưa có cá nhân, cơ
quan, tổ chức kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng; Cần đợi kết quả giải quyết của cơ quan
khác hoặc kết quả giải quyết vụ việc khác có liên quan,….v.v. Tuy nhiên, việc Tồ án tạm
đình chỉ xét xử phúc thẩm khơng đúng có thể dẫn tới quyền và lợi hợp pháp của ngun
đơn sẽ khơng được Tồ án xem xét giải quyết. Ngồi ra, việc tạm đình chỉ xét xử phúc
thẩm khơng đúng có thể làm cho thời gian giải quyết vụ án bị kéo dài, gây thiệt hại cho
quyền lợi chính đáng của đương sự.
Vậy cần hiểu các căn cứ tạm đình chỉ giải quyết phúc thẩm như thế nào? Các quy
định nào của căn cứ tạm đình chỉ cịn có nhiều vướng mắc, bất cập. Có cơ chế nào để xử
lý cho phù hợp. Bài viết sẽ đi sâu phân tích các khía cạnh sau: (i) khái niệm, đặc điểm và
ý nghĩa của tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính; (ii) nội dung các quy định
của luật tố tụng hành chính về tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính; (iii) thực
tiễn áp dụng quy định pháp luật và kiến nghị xây dựng quy định pháp luật về tạm đình chỉ
xét xử phúc thẩm vụ án hành chính.
I. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA TẠM ĐÌNH CHỈ XÉT XỬ
PHÚC THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
1.1. Khái niệm, đặc điểm của tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính
1.1.1. Khái niệm của tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính
Đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét xử là một nguyên tắc tố tụng đòi hỏi những người
tiến hành tố tụng phải tuyệt đối tuân thủ. Thực hiện xét xử hai cấp là hết sức cần thiết cho


Nguyễn Thị Bích Hồng

Lớp: TM42A2

MSSV: 1753801011066

việc bảo vệ quyền và các lợi ích hợp pháp của cá nhân cơng dân, tổ chức cũng như lợi ích

hợp pháp của Nhà nước. Tuy nhiên, cần phải hiểu việc thực hiện hai cấp xét xử đối với
một vụ án không phải là đương nhiên. Thủ tục xét xử phúc thẩm chỉ phát sinh khi bản án,
quyết định của Tòa cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị.
Pháp luật tố tụng hành chính quy định cho các đương sự, người đại diện hợp pháp của
đương sự có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát cùng cấp hoặc trên một cấp có quyền kháng
nghị đối với các bản án và các quyết định chưa có hiệu lực của Tịa cấp sơ thẩm. Trong
thời hạn kháng cáo, kháng nghị nếu có kháng cáo hoặc kháng nghị thì bản án, quyết định
sơ thẩm được xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.
Vậy xét xử phúc thẩm vụ án hành chính là gì? Theo quy định của Luật TTHC 2015:
“xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định
của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị” 1. Mục
đích của xét xử phúc thẩm là nhằm kiểm tra tính hợp pháp, tính có căn cứ của bản án hoặc
quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị để đảm bảo cho các bản án và các quyết
định của Tòa án được khách quan, đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
cá nhân, tổ chức và cơ quan Nhà nước. Như vậy có thể thấy bản chất của xét xử phúc
thẩm là xét xử lại bản bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật và bị kháng
cáo, kháng nghị chứ không phải là kiểm tra, xem xét lại bản án như thủ tục giám đốc thẩm
hay tái thẩm. Bởi lẽ xét xử lại nên thủ tục của phúc thẩm gần như đảm bảo các thủ tục sơ
thẩm.
Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm được hiểu là gì? Khi nhận được kháng cáo, kháng
nghị, Tịa án sẽ phải phân công Thẩm phán giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử sẽ nghiên
cứu hồ sơ vụ án trước khi xét xử. Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, khi nghiên
cứu hồ sơ vụ án, nếu có căn cứ do pháp luật quy định dẫn đến phải tạm đình chỉ giải quyết
vụ án thì Tịa án cấp phúc thẩm sẽ ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án 2.
Xung quanh khái niệm tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm, hiện nay có nhiều quan điểm khác
nhau. Theo từ điển Tiếng Việt thì “tạm (làm việc gì đó) là chỉ trong một thời gian nào đó,
khi có điều kiện sẽ có thay đổi3”. Từ thuật ngữ gốc này có thể hiểu tạm đình chỉ xét xử
phúc thẩm vụ án là việc Tòa án cấp phúc thẩm tạm ngừng hoạt động giải quyết vụ án
1 Điều 203 Luật TTHC 2015.
2 Vũ Thư – Lê Thương Huyền (2016). Bình luận khoa học Luật Tố tụng hành chính năm 2015, NXB. Hồng Đức, Hà

Nội, tr.159.
3 Hồng Phê (2012). Từ điển Tiếng Việt, NXB. Từ Điển Bách Khoa.


Nguyễn Thị Bích Hồng

Lớp: TM42A2

MSSV: 1753801011066

trong một khoảng thời gian nhất định, việc giải quyết vụ án sẽ được tiếp tục khi có sự
thay đổi về điều kiện hồn cảnh. Theo một thuật ngữ luật học khác thì “Tạm đình chỉ là
một biện pháp tạm ngừng tố tụng do Tòa án áp dụng khi có những căn cứ nhất định”.
Tổng hợp những quan điểm trên ta thấy sự thể hiện khá đầy đủ về bản chất của tạm đình
chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính, nhìn nhận dưới góc độ là một quyết định của Tịa
án, có tính tạm thời, dựa trên căn cứ luật định. Tuy nhiên, các khái niệm nêu trên chưa
làm rõ được việc tiếp tục giải quyết vụ án khi lí do tạm đình chỉ khơng cịn.
Trên cơ sở tổng hợp các quan điểm nêu trên, ta có thể đưa ra khái niệm hồn chỉnh
về tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính như sau: “Tạm đình chỉ xét xử phúc
thẩm vụ án hành chính là việc Tịa án cấp phúc thẩm quyết định tạm ngừng giải quyết vụ
án theo thủ tục phúc thẩm trong một thời gian nhất định khi có những căn cứ do pháp
luật quy định và khi những căn cứ của việc tạm đình chỉ khơng cịn Tịa án sẽ tiếp tục giải
quyết vụ án hành chính đó”.
1.1.2. Đặc điểm của tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính
Từ khái niệm nêu trên ta thấy tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính có
những đặc điểm sau:
Thứ nhất, việc tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính phải dựa trên những
căn cứ mà pháp luật đã quy định trước, trên cơ sở đảm bảo các quyền tố tụng của đương
sự, đảm bảo sự chính xác và đúng đắn trong việc giải quyết vụ án hoặc đảm bảo sự phối
hợp giữa các cơ quan trong quá trình giải quyết vụ án.

Thứ hai, tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính là việc Tịa án chỉ tạm thời
ngừng giải quyết vụ án đã được Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý do xuất hiện những tình tiết,
sự kiện nhất định chứ không phải cho ngừng hẳn việc giải quyết vụ án.
Thứ ba, tính chất gián đoạn tạm thời của việc giải quyết vụ án do quyết định tạm
đình chỉ xét xử phúc thẩm đem lại sẽ được khắc phục, mọi hoạt động tố tụng sẽ khôi phục
lại nếu như căn cứ tạm đình chỉ khơng cịn nữa.
Phân biệt tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm với hỗn phiên tịa phúc thẩm vụ án
hành chính:


Nguyễn Thị Bích Hồng

Lớp: TM42A2

MSSV: 1753801011066

Trong tiếng Việt “hỗn là chuyển thời điểm đã dự định làm việc gì đó sang một thời
điểm muộn hơn”. Từ đó, có thể hiểu hỗn phiên tịa là việc Tịa án khơng tiến hành phiên
tịa theo thời gian đã định trước đó mà quyết định chuyển thời điểm tiến hành phiên tòa
phúc thẩm vụ án hành chính sang một thời điểm khác muộn hơn khi có những lí do nhất
định. Khác với những căn cứ tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính như chưa
có người thừa kế quyền và nghĩa vụ trong tố tụng, chưa xác định được người đại diện theo
pháp luật của đương sự hoặc cần đợi kết quả giám định bổ sung, giám định lại…Căn cứ
tạm đình chỉ xét xử phuc thẩm vụ án chủ yếu xuất phát từ tính pháp lý của việc đưa vụ án
ra xét xử khơng cịn, cho nên phải chờ đến khi nào ngun nhân tạm đình chỉ xét xử được
khắc phục.Cịn căn cứ hỗn phiên tịa có thể là do phải thay đổi thành viên Hội đồng xét
xử, Kiểm sát viên, Thư ký phiên tịa, người phiên dịch mà khơng có người thay thế ngay
hoặc cần phải xác minh, thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ mà không thể thực hiện được
ngay tại phiên tịa. Nhưng nhìn chung tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm và hỗn phiên tịa
phúc thẩm đều dẫn đến việc giải quyết vụ án hành chính tạm thời bị dừng lại.

Trong quá trình giải quyết vụ án, tùy từng giai đoạn tố tụng mà thẩm quyền ra quyết
định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm thuộc về thẩm phán được phân công phụ trách việc
giải quyết vụ án hoặc Hội đồng xét xử. Đối với hoãn phiên tịa, do hỗn phiên tịa là
chuyển thời điểm tiến hành phiên tòa phúc thẩm đã định sang một thời điểm khác muộn
hơn, nên về ngun tắc thì phiên tịa đã được mở thì Tịa án mới xác định chính xác có
căn cứ hỗn hay khơng, tức là thời điểm hỗn phiên tịa chỉ có thể được xảy ra tại thủ tục
bắt đầu phiên tòa và thẩm quyền ra quyết định hỗn phiên tịa thuộc về Hội đồng xét xử.
Phân biệt tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính với tạm ngừng phiên
tịa phúc thẩm:
Tạm ngừng phiên tịa được hiểu là việc Tịa án khơng tiêp tục các hoạt động tố tụng
trong thời gian ngắn khi có các căn cứ do pháp luật tổ tụng hành chính quy định như do
tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan khác mà người
tiến hành tố tụng không thể tiếp tục tiến hành phiên tòa, trừ trường hợp thay thế được
người tiến hành tố tụng. Như vậy, tạm ngừng phiên tòa cũng là việc tạm ngừng hoạt động
tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Tuy nhiên, việc tạm ngừng phiên tòa diễn ra khi
Hội đồng xét xử đang tiến hành phiên tịa giải quyết vụ án mà có những lí do nhất định
khiến cho phiên tịa khơng thể tiếp tục được. Trong trường hợp, Hội đồng xét xử đang tiến


Nguyễn Thị Bích Hồng

Lớp: TM42A2

MSSV: 1753801011066

hành hỏi tại phiên tịa mà thấy cần phải xem xét them chứng cứ và tài liệu cần phải có
thời gian để thu thập, xác minh thêm chứng cứ theo yêu cầu của đương sự, làm rõ các tình
tiết sự kiện mới có thể giải quyết đúng đắn được vụ án thì Hội đồng xét xử tạm ngừng
việc tiến hành phiên tòa.
Xét về thời điểm, tùy từng giai đoạn tố tụng mà Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử ra

quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm. Còn thời điểm tạm ngừng phiên tòa là tại phiên
tòa xét xử phúc thẩm, do Hội đồng xét xử quyết định khi Tòa án đang tiến hành phiên tịa
mà có những lí do nhất định làm cho phiên tịa khơng thể tiếp tục được.
1.2. Ý nghĩa của tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính
Thứ nhất, việc Tịa án ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính
có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đượng sự. Khi xuất
hiện những tình tiết, sự kiện làm cho việc giải quyết vụ án chưa thể tiếp tục được. Nếu
Tòa án vẫn cứ tiếp tục giải quyết vụ án sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
các đương sự, kết quả giải quyết vụ án sẽ khơng được chính xác, khơng cịn khách quan.
Vì vậy, tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm là cần thiết, tránh được những thiệt hại cho các bên
đương sự cũng như những hậu quả không đáng có cho phía Tịa án khi gặp những căn cứ
luật định cần phải tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án.
Thứ hai, trong quá trình giải quyết vụ án, những căn cứ luật định xuất hiện làm cho
Tòa án phải ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm thì trong khoảng thời gian tạm
đình chỉ Tịa án cũng có thời gian để nghiên cứu hồ sơ vụ án kỹ lưỡng hơn tránh được
những sai sót có thể xảy ra khi giải quyết vụ án, thu thập chứng cứ, tài liệu... chuẩn bị tốt
hơn cho phiên tòa xét xử. Do vậy, Tòa án thụ lý vụ án cần thiết phải tạm đình chỉ xét xử
phúc thẩm vụ án cho đến khi có đủ điều kiện để giải quyết vụ án trở lại. Tịa án sẽ tun
bố tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm trong một thời gian cho đến khi ngun nhân tạm đình
chỉ khơng cịn nữa, điều đó sẽ gáp phần bảo đảm quyền lợi của các đương sự một cách tốt
nhất có thể.
Thứ ba, việc tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm có tác dụng thơi thúc các bên liên quan
nhanh chóng đáp ứng đủ điều kiện cần thiết để quá trình tố tụng được tiến hành.


Nguyễn Thị Bích Hồng

Lớp: TM42A2

MSSV: 1753801011066


Thứ tư, việc ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm cho thấy Tịa án có trách
nhiệm rất cao trong việc giải quyết vụ án. Từ đó có thể thấy ý thức của những người tién
hành tố tụng, tôn trọng việc bảo vệ quyền lợi của các đương sự, qua đó cũng cố niềm titn
của người dân đối với ngành Tòa án Việt Nam, pháp luật Việt Nam.
Thứ năm, tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm góp phần đảm bảo pháp chế Xã hội chủ
nghĩa, đảm bảo tính khách quan, chính xác trong hoạt động xét xử của Tòa án. Chỉ khi
xuất hiện những nguyên nhân làm cho việc tố tụng bị gián đoạn tạm thời và có thể khắc
phục được, pháp luật co phép tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án. Nó sẽ hạn chế được tư
tưởng khơng đúng của một số Thẩm phán là phải giải quyết nhanh chóng bằng mọi cách,
không muốn tồn đọng án.
1.3. Cơ sở khoa học của việc quy định về tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án
hành chính
- Bảo đảm quyền bảo vệ, quyền tham gia tố tụng của đương sự và người đại diện của
họ
Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính có thể xuất hiện các sự kiện, tình tiết
làm cho việc tiến hành giải quyết vụ án của Tịa án sẽ khơng đảm bảo quyền tham gia tố
tụng, khơng đảm bảo quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp phá của các đương sự. Chẳng
hạn, đương sự là cá nhân chết, cơ quan, tổ chức đã giải thể hoặc tuyên bố phá sản mà
chưa có cá nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng; đương sự là người
mất năng lực hành vi dân sự, người chưa thành niên mà chưa xác định được người đại
diện theo pháp luật. Trong những trường hợp như trên, pháp luật quy định Tòa án đã thụ
lý phải tạm ngừng giải quyết vụ án để đảm bảo quyền tham gia tố tụng, quyền bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự và người đại diện của họ.
- Bảo đảm trật tự công, sự phối hợp của các cơ quan tổ chức trong việc giải quyết vụ
án hành chính
Điều này được thể hiện qua sự mềm dẻo, sự phối hợp linh hoạt giữa các cơ quan, tổ
chức trong quá trình giải quyết vụ án. Do vậy, nếu cần đợi kết quả giải quyết của cơ quan
khác hoặc kết quả giải quyết vụ việc khác có liên quan thì Tịa án cấp phúc thẩm cũng ra
quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm trong một thời gian nhất định.



Nguyễn Thị Bích Hồng

Lớp: TM42A2

MSSV: 1753801011066

- Bảo đảm tính đúng đắn và chính xác trong việc giải quyết vụ án hành chính
Trong nhiều trường hợp giải quyết vụ án, khi xuất hiện một căn cứ nhưng căn cứ ấy
có tác động và ảnh hưởng lớn đến vụ án và nhiều khi nó làm thay đổi kết quả cuối cùng
của việc giải quyết vụ án nếu Tịa án khơng tạm đình chỉ xét xử thì sẽ dẫn đến sai lầm
nghiêm trọng. Trong nhiều trường hợp việc giải quyết vụ án này lại liên quan mật thiết
đến kết quả giải quyết của một vụ án khác. Nếu Tòa án vẫn tiến hành giải quyết thì cũng
có thể dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng. Do vậy, Tòa án phải ngừng tiến hành tố tụng
để chờ kết quả giải quyết của những vụ án liên quan tới vụ án mà Tòa án đang thụ lý. Có
như vậy thì việc giải quyết của Tịa án mới đảm bảo được sự khách quan, chính xác, toàn
diện và đúng pháp luật.
II. NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH VỀ
TẠM ĐÌNH CHỈ XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
2.1. Căn cứ tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính
Trong q trình giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục phúc thẩm những căn cứ
làm cho Tịa án khơng thể tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm. Khi có các căn
cứ này, Tịa án phải ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm. Điều 228 4 Luật TTHC
2015 về tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm không nhắc lại các căn cứ để tạm đình chỉ giải
quyết vụ án hành chính. Các quy định đó đã được liệt kê tại Điều 141 Luật TTHC 2015.
Luật liệt kê 6 căn cứ mà khi rơi vào căn cứ này Tòa án phải ra quyết định tạm đình chỉ xét
xử phúc thẩm vụ án hành chính. Như vậy, có thể thấy căn cứ giữa tạm đình chỉ trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm là giống nhau và chỉ khác nhau ở thời điểm căn
cứ đó xảy ra. Thời điểm tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm là trong giai đoạn chuẩn bị xét xử

phúc thẩm và xét xử phúc thẩm vụ án hành chính. Thời điểm tạm đình chỉ xét xử sơ thẩm
vụ án hành chính là ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, xét xử sơ thẩm. Còn các căn cứ,
điều kiện để tạm đình chỉ là như nhau. Đương nhiên, hậu quả của việc tạm đình chỉ giải
quyết vụ án giai đoạn sơ thẩm cũng là hậu quả tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm. Tuy nhiên,
nếu trong giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hành chính mà Tịa án phát hiện các căn cứ để
tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính đã xảy ra ở giai đoạn sơ thẩm nhưng tòa cấp sơ
4 Tịa án cấp phúc thẩm ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án, hậu quả của việc tạm đình chỉ xét xử
phúc thẩm vụ án và tiếp tục xét xử phúc thẩm vụ án được thực hiện theo quy định tại Điều 141 và Điều 142 của Luật
này.


Nguyễn Thị Bích Hồng

Lớp: TM42A2

MSSV: 1753801011066

thẩm lại khơng ban hành quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính thì tịa án
cấp phúc thẩm cần phải xem đây là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hành chính để
hủy bản án, quyết định sơ thẩm5.
Có thể thấy, luật quy định các căn cứ để tạm đình chỉ là “đóng”, nghĩa là chỉ khi rơi
và các căn cứ này Tịa án mới được quyền tạm đình chỉ. Nếu so sánh với Bộ luật Tố tụng
Dân sự 2015, các căn cứ để tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự được xây dựng theo
hướng “mở”6. Theo đó điểm h khoản 1 Điều 214 quy định “các trường hợp khác theo quy
định của pháp luật”. Đây là quy định nhằm mở rộng khả năng tạm đình chỉ giải quyết vụ
án dân sự.
Vậy các quy định về tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính cần được hiểu
như thế nào? Dưới đây sẽ phân tích cụ thể các căn cứ để tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm
vụ án hành chính theo Điều 228 và Điều 141 Luật TTHC 2015.
3.1.1. Đương sự là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã giải thể hoặc tuyên bố phá

sản mà chưa có cá nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng (Điểm a
Khoản 1 Điều 141 Luật Tố tụng hành chính 2015)
- Đương sự là cá nhân đã chết mà chưa có cá nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa quyền,
nghĩa vụ tố tụng của cá nhân đó

5 Trường đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam, Nhà xuất bản Công an nhân
dân, tr. 298.
6 Điều 214 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định các trường hợp để Tịa án tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
Tịa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự khi có một trong các căn cứ sau đây:
a) Đương sự là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể mà chưa có cơ quan, tổ
chức, cá nhân kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó;
b) Đương sự là cá nhân mất năng lực hành vi dân sự, người chưa thành niên mà chưa xác định được người đại diện
theo pháp luật;
c) Chấm dứt đại diện hợp pháp của đương sự mà chưa có người thay thế;
d) Cần đợi kết quả giải quyết vụ án khác có liên quan hoặc sự việc được pháp luật quy định là phải do cơ quan, tổ
chức khác giải quyết trước mới giải quyết được vụ án;
đ) Cần đợi kết quả thực hiện ủy thác tư pháp, ủy thác thu thập chứng cứ hoặc đợi cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu,
chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án mới giải quyết được vụ án;
e) Cần đợi kết quả xử lý văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án có dấu hiệu trái với Hiến
pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp
luật của cơ quan nhà nước cấp trên mà Tịa án đã có văn bản kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét sửa
đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ;
g) Theo quy định tại Điều 41 của Luật phá sản;
h) Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.


Nguyễn Thị Bích Hồng

Lớp: TM42A2


MSSV: 1753801011066

Căn cứ này áp dụng trong trường hợp đương sự là cá nhân và là một trong các
đương sự tham gia vào việc giải quyết vụ án đã chết. Đương sự bao gồm người khởi kiện,
người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan 7. Đương sự là cá nhân bao gồm
công dân Việt Nam, người nước ngồi và người khơng quốc tịch. Dù họ là người khởi
kiện, người bị kiện hay người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan thì khi tham gia tố tụng
hành chính thì họ đều có quyền, nghĩa vụ tố tụng cụ thể theo quy định của pháp luật và
các quyền và nghĩa vụ đó khi rơi vào các sự kiện pháp lý quy định tại Điều 59 Luật TTHC
2015 thì được kê thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng hành chính.
Chưa có người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng được hiểu dưới các góc độ: (i)
Chưa xác định được người thừa kế để người này kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng; hoặc
(ii) đã xác định được người thừa kế nhưng người này chưa đủ khả năng để thừa kế quyền
và nghĩa vụ tố tụng8. Khi xảy ra những sự kiện này sẽ làm ảnh hưởng đến tiến trình giải
quyết vụ việc của tịa án.
Nếu một trong các đương sự trên chết trong quá trình Tịa án cấp phúc thẩm đang
giải quyết vụ án hành chính thì q trình tố tụng có thể bị gián đoạn tạm thời do chưa có
chủ thể kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ. Việc chưa có người thừa kế quyền và
nghĩa vụ có thể là do Tòa án chưa thể xác định hoặc triệu tập ngay cá nhân, cơ quan, tổ
chức kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng thì đây là cơ sở để Tịa án ra quyết định tạm đình
chỉ xét xử phúc thẩm vụ án, nhằm mục đích để đảm bảo tính khách quan, quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự là cá nhân chết. Sau khi Tòa án đã xác định được người kế thừa
quyền, nghĩa vụ tố tụng và triệu tập họ tham gia tố tụng hành chính thì vụ án sẽ được tiếp
tục giải quyết.
Nhưng chỉ khi quyền và nghĩa vụ của đương sự đã chết là quyền và nghĩa vụ về tài
sản thì mới được thừa kế và người thừa kế sẽ tham gia tố tụng. Khi xảy ra sự kiện này Tòa
án ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm là hợp lí. Bởi lẽ nếu chủ thể tham gia tố
tụng khơng cịn thì việc giải quyết vụ án không thể tiếp tục được, nếu Tòa án cứ tiến hành
xét xử vắng mặt họ sẽ không đảm bảo được quyền tham gia tố tụng của họ, ảnh hưởng
đến quyền và lợi ích của đương sự.

7 Khoản 7 Điều 3 Luật TTHC 2015.
8 truy cập
ngày 20/11/2020.


Nguyễn Thị Bích Hồng

Lớp: TM42A2

MSSV: 1753801011066

Cịn nếu quyền và nghĩa vụ đó là quyền và nghĩa vụ về nhân thân thì sẽ khơng được
thừa kế, do vậy Tịa án sẽ phải đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án. Trong trường hợp này
Tịa án ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm là hợp lí, vì chủ thể tham gia tố tụng
khơng cịn mà khơng có người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng thì việc giải quyết vụ án
cũng khơng cịn ý nghĩa nữa.
Ví dụ: Ơng Nguyễn Văn H bị UBND quận Thủ Đức Thành phố Hồ Chí Minh ra
quyết định số 157/QĐ – UBND với nội dung thu hồi 150m2 đất của ơng H. Ơng H không
đồng ý với quyết định trên đã khởi kiện ra Tịa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Tịa
án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã thụ lý đơn của ông H và xét xử sở thẩm. Sau khi
có bản án sơ thẩm ơng H đã khơng đồng ý với bản án và kháng cáo. Kháng cáo của ông H
đã được Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý theo quy định của
pháp luật. Đang trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm ơng H đột ngột chết vì tai nạn
giao thơng. Khi xảy ra tình huống này, Tịa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh xác định quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông H được thừa kế và có người thừa kế
nhưng Tịa án chưa xác định được chính thức ai là người sẽ kế thừa quyền và nghĩa vụ tố
tụng của ông H. Trong trường hợp này Tịa án ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc
thẩm vụ án.
- Đương sự là cơ quan, tổ chức đã giải thể hoặc tuyên bố phá sản mà chưa có cá
nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng: Căn cứ này được áp dụng trong

trường hợp đương sự là cơ quan, tổ chức đã giải thể 9 hoặc tuyên bố phá sản10. Đương sự là
cơ quan bao gồm cơ quan hành chính Nhà nước và các cơ quan Nhà nước khác. Đương sự
là tổ chức bao gồm rất nhiều các tổ chức khác nhau như tổ chức chính trị, tổ chức chính trị
9 Theo Luật Doanh nghiệp 2020
Doanh nghiệp bị giải thể trong trường hợp sau đây:
a) Kết thúc thời hạn hoạt động đã ghi trong Điều lệ công ty mà không có quyết định gia hạn;
b) Theo nghị quyết, quyết định của chủ doanh nghiệp đối với doanh nghiệp tư nhân, của Hội đồng thành viên đối với
công ty hợp danh, của Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, của Đại hội
đồng cổ đông đối với công ty cổ phần;
c) Công ty khơng cịn đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy định của Luật này trong thời hạn 06 tháng liên tục
mà không làm thủ tục chuyển đổi loại hình doanh nghiệp;
d) Bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, trừ trường hợp Luật Quản lý thuế có quy định khác.
Doanh nghiệp chỉ được giải thể khi bảo đảm thanh toán hết các khoản nợ, nghĩa vụ tài sản khác và khơng trong q
trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án hoặc Trọng tài. Người quản lý có liên quan và doanh nghiệp quy định tại điểm
d khoản 1 Điều này cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ của doanh nghiệp.
10 Theo Luật Phá sản 2014
Phá sản là tình trạng của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh tốn và bị Tịa án nhân dân ra quyết định
tuyên bố phá sản.


Nguyễn Thị Bích Hồng

Lớp: TM42A2

MSSV: 1753801011066

- xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp 11. Khi xuất hiện căn cứ này, Tịa án đang trong q
trình giải quyết thì q trình tố tụng có thể bị gián đoạn do chưa có chủ thể kế thừa quyền
và nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó. Vì vậy, Tịa án phải ra quyết định tạm đình
chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính để khắc phục tình trạng này.

Đối với trường hợp hợp đương sự là cơ quan, tổ chức đã sáp nhập, chia, tách mà
chưa có cá nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng là trường hợp đã có
quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền về việc sáp nhập, chia, tách một cơ quan,
tổ chức nhưng cơ quan, tổ chức mới chưa được thành lập hoặc đã được thành lập nhưng
chưa đủ điều kiện để hoạt động theo quy định của pháp luật. Đối với trường hợp cơ quan,
tổ chức bị hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể thì việc xác định chủ thể kế thừa quyền,
nghĩa vụ tố tụng hành chính theo quy định tại Điều 59 Luật TTHC 2015 như sau:
- Tường hợp người khởi kiện là cơ quan, tổ chức bị hợp nhất, sáp nhập, chia, tách,
giải thể thì cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân kế thừa quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức
cũ thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó.
- Trường hợp người bị kiện là người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức mà cơ
quan, tổ chức đó hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể thì người tiếp nhận quyền, nghĩa
vụ của người đó tham gia tố tụng.Trường hợp người bị kiện là người có thẩm quyền trong
cơ quan, tổ chức mà chức danh đó khơng cịn thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức đó
thực hiện quyền, nghĩa vụ của người bị kiện.
- Trường hợp người bị kiện là cơ quan, tổ chức bị hợp nhất, sáp nhập, chia, tách thì
cơ quan, tổ chức kế thừa quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức cũ thực hiện quyền, nghĩa
vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó. Trường hợp người bị kiện là cơ quan, tổ chức đã giải
thể mà khơng có người kế thừa quyền, nghĩa vụ thì cơ quan, tổ chức cấp trên thực hiện
quyền, nghĩa vụ của người bị kiện.
- Trường hợp sáp nhập, chia, tách, giải thể, điều chỉnh địa giới hành chính trong một
đơn vị hành chính mà đối tượng của quyết định hành chính có sự thay đổi thì cơ quan, tổ
chức, cá nhân đã ra quyết định hành chính có trách nhiệm tham gia tố tụng với tư cách là
người bị kiện tại Tòa án nơi cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyết định hành chính bị kiện.
11 Lê Thị Mơ (2017), Giải thích và bình luận Luật Tố tụng hành chính 2015, Nhà xuất bản Hồng Đức – Hội Luật gia
Việt Nam, tr. 225.


Nguyễn Thị Bích Hồng


Lớp: TM42A2

MSSV: 1753801011066

Cơ quan tiếp nhận đối tượng của quyết định hành chính bị kiện phải tham gia tố tụng với
tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
3.1.2. Đương sự là người mất năng lực hành vi dân sự, người chưa thành niên mà
chưa xác định được người đại diện theo pháp luật (Điểm b Khoản 1 Điều 141 Luật Tố
tụng hành chính 2015)
Nếu năng lực pháp luật dân sự là tiền đề, là quyền dân sự khách quan của chủ thể thì
năng lực hành vi là khả năng hành động của chính chủ thể để tạo ra các quyền, thực hiện
quyền và nghĩa vụ của họ. Cùng với năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự là thuộc
tính của cá nhân, tạo thành tư cách chủ thể độc lập của cá nhân trong các quan hệ dân sự.
Điều 22 BLDS 2015 quy định: “Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác
mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo u cầu của người có quyền, lợi
ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người
này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.
Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo
pháp luật xác lập, thực hiện”. Tuy nhiên, hiện nay, Bộ luật Dân sự năm 2015 bổ sung
thêm trường hợp người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người thành niên
do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi
nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo u cầu của người này, người
có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám
định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ
của người giám hộ. Bộ Luật Dân sự cũng quy định: “Người chưa thành niên là người
chưa đủ mười tám tuổi”12. Người chưa thành niên là người chưa phát triền hồn tồn và
đầy đủ về thể chất, chưa có quyền lợi và nghĩa vụ đầy đủ như một công dân 13. Ngược lại,
người thành niên là người từ đủ mười tám tuổi trở lên 14. Đó là những người đã đến tuổi
trưởng thành: từ 18 tuổi tròn trở lên. Cá nhân khi đủ mười tám tuổi trịn (tính theo ngày,

tháng), cịn phải là người khỏe mạnh, có trí tuệ phát triển bình thường, khơng bị mắc các
bệnh tâm thần, mất trí, khơng bị Tồ án tun bố hạn chế năng lực hành vi dân sự.. Nghĩa
là, cá nhân đó có đủ khả năng để nhận thức việc mình làm, đủ khả năng để làm chủ, chỉ
12 Khoản 1 Điều 21 Bộ luật Dân sự 2015.
13 Vũ Thư, Lê Thương Hiền (2016), Bình luận khoa học Luật TTHC 2015, Nhà xuất bản Đức, tr. 160.
14 Khoản 1 Điều 20 Bộ luật Dân sự 2015.


Nguyễn Thị Bích Hồng

Lớp: TM42A2

MSSV: 1753801011066

huy được hành vi của mình. Như vậy, những người từ đủ mười tám tuổi (tính theo ngày
trịn) được suy đốn là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Những cá nhân này là
những chủ thể có đầy đủ tư cách chủ thể và có thể tham gia vào các quan hệ dân sự độc
lập. Khoản 2 Điều 20 BLDS năm 2015 quy định: “Người thành niên có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ”. Trong những trường hợp này do đương sự không thể nhận thức và làm
chủ được hành vi mêm họ sẽ không thể tự tham gia tố tụng để thực hiện các quyền và
nghĩa vụ tố tụng, không thể tự bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Do vậy,
cần phải có người đại diện theo phá luật để thay mặt họ tham gia tố tụng.
Khi đương sự muốn tham gia vào quá trình tố tụng hành chính thì điều kiện đủ là
đương sự phải có năng lực tố tụng hành chính. Nếu rơi vào trường hợp mất năng lực hành
vi dân sự, chưa thành niên thì đương sự phải thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng hành
chính thơng qua người đại diện theo pháp luật15.
Theo quy định của Bộ luật Dân sự thì người đại diện theo pháp luật là đại diện do
pháp luật quy định hoặc do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định. Được quy định
cụ thể tại Điều 136 BLDS 2015 người đại diện theo pháp luật bao gồm: cha mẹ đối với
con chưa thành niên; Người giám hộ đối với người được giám hộ; Người được Tòa án chỉ

định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; Người đứng đầu pháp nhân theo
quy định của Điều lệ pháp nhân hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
Chủ hộ gia đình đối với hộ gia đình và những người khác theo quy định của pháp luật.
Theo quy định tại Điều 60 Luật TTHC 2015 thì người đại diện trong tố tụng hành chính
bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền. Như vậy, nếu
chưa xác định được một trong số những người thay đương sự tham gia tố tụng thì Tịa án
phải tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính để đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự. Quy định này có thể hiểu theo các cách khác nhau:
Một là, trường hợp đương sự là người mất năng lực hành vi dân sự, người chưa
thành niên có thể xuất hiện ngay từ giai đoạn trước khi Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý vụ án
để xét xử phúc thẩm song vì một lí do nào đó mà Tịa án lại không phát hiện ra nên vẫn ra
Thông báo thụ lí vụ án.

15 Khoản 4 Điều 54 Luật TTHC 2015.


Nguyễn Thị Bích Hồng

Lớp: TM42A2

MSSV: 1753801011066

Hai là, trường hợp đương sự mất năng lực hành vi dân sự ngay sau thời điểm Tòa án
cấp phúc thẩm đã thụ lý vụ án để xét xử phúc thẩm có thể rơi vào một trang các giai đoạn
chuẩn bị xét xử phúc thẩm, xét xử phúc thẩm.
Nếu rơi vào một trong hai giai đoạn nêu trên mà Tịa án khơng kịp xác định người
đại diện theo pháp luật của đương sự thì Tịa án ban hành quyết định tạm đình chỉ xét xử
phúc thẩm, khi xác định được người đại diện theo pháp luật của họ thì vụ án tiếp tục được
giải quyết.
Ví dụ: Ngày 06/5/2020 Chi cục Quản lí thị trường tỉnh Lâm Đồng đã ra quyết định

số 48/QĐ – QLTT xử phạt vi phạm hành chính trong lực vực an tồn vệ sinh thực phẩm
đối với cơ sở chế biến thịt heo của ơng Linh. Ơng Linh khơng đồng ý với quyết định trên
nên đã khởi kiện ra TAND tỉnh Lâm Đồng. Vụ việc được TAND tỉnh Lâm Đồng thụ lý
giải quyết. Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, TAND tỉnh Lâm Đồng ra bản án sơ thẩm tuyên
bác yêu cầu khởi kiện của ơng Linh do khơng có cưn cứ pháp luật. Ơng Linh khơng đồng
ý với bản án sơ thẩm nên đã kháng cáo lên TAND cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và
đã được thụ lý. Tại phiên tòa xét xử phúc thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm phát hiện ông
Linh là người mất năng lực hành vi dân sự nhưng chưa xác định được người đại diện theo
pháp luật của ơng. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định số 57/QĐ – HCPT về
việc tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án để có thời gian xác định người đại diện theo
pháp luật cho ông Linh.
3.1.3. Đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử mà một trong các đương sự không thể có mặt
vì lý do chính đáng, trừ trường hợp có thể xét xử vắng mặt đương sự (điểm c khoản 1
Điều 141 Luật Tố tụng hành chính 2015)
Quy định pháp luật đối với giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm cũng như phúc thẩm
trong vụ án hành chính là hành lang pháp lý xác định các công tác tiến hành thu thập các
tài liệu, chứng cứ của vụ án. Căn cứ trên những chứng cứ thu thập được, tịa án có các
quyết định chính xác trong việc giải quyết vụ án; đồng thời có những kiến nghị kịp thời
với cơ quan có thẩm quyền trong việc ban hành và thực hiện các quyết định hành chính
liên quan đến cơng tác quản lý hành chính Nhà nước.


Nguyễn Thị Bích Hồng

Lớp: TM42A2

MSSV: 1753801011066

Về thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án hành chính được quy định như sau:
Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán được phân công làm Chủ tọa

phiên tòa phải ra một trong các quyết định sau đây: (i) Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ
án; (ii) Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án; hoặc (iii) Đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm. Đối
với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án Tịa án cấp phúc
thẩm có thể quyết định kéo dài thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại khoản 1 Điều này,
nhưng không được quá 30 ngày 21. Như vậy, thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm tối đa là
90 ngày.
Theo quy định tại Điều 221 Luật TTHC 2015, thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm
có thể khác nhau tùy thuộc vào tính chất của vụ án. Trừ vụ án xét xử phúc thẩm theo thủ
tục rút gọn hoặc vụ án có yếu tố nước ngồi, thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm là 60
ngày kể từ ngày thụ lý vụ án. Trường hợp vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại
khách quan thì Chánh án Tịa án cấp phúc thẩm có thể quyết định kéo dài thời hạn chuẩn
bị xét xử, nhưng không được quá 30 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án. Trong khoảng thời gian
này, Tòa án cấp phúc thẩm phải nghiên cứu hồ sơ vụ án tiến hành các biện pháp nghiệp vụ
cần thiết để đưa ra đính hướng giải quyết vụ án một cách chính xác, đúng đăn để đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Để đảm bảo q trình giải quyết vụ án được
chính xác nhất thì Tịa án phải ra một trong ba quyết định là tạm đình chỉ xét xử phúc
thẩm vụ án, đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án, đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm16. Khi thời
hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm đã hết thì các đương sự phải có mặt để tham gia phiên tịa
xét xử phúc thẩm vụ án hành chính. Nhưng trên thực tế, có thể vì lí do nào đó mà đương
sự khơng thể có mặt theo giấy triệu tập hợp lệ của Tịa án và tham gia phiên tòa được.
Trong trường hợp này Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết như sau: Tòa án triệu tập hợp lệ
lần thứ nhất, người kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo,
kháng nghị, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ phải có mặt tại phiên tịa;
trường hợp có người vắng mặt thì Hội đồng xét xử hỗn phiên tịa. Tịa án thơng báo cho
người kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ biết việc hỗn phiên tịa. Tịa án triệu tập
hợp lệ lần thứ hai, người kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc
kháng cáo, kháng nghị, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ phải có mặt tại
phiên tịa, nếu vắng mặt vì lý do chính đáng và khơng thuộc trường hợp được xét xử vắng
16 Khoản 1 Điều 121 Luật TTHC 2015.



Nguyễn Thị Bích Hồng

Lớp: TM42A2

MSSV: 1753801011066

mặt thì Tịa án ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm. Trong trường hợp này, thì
thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm được tính lại kể từ ngày quyết định tiếp tục giải quyết
vụ án của Tịa án có hiệu lực pháp luật khi căn cứ tạm đình chỉ khơng cịn nữa.
Vậy thế nào là có lý do chính đáng? Luật Tố tụng hành chính khơng chỉ ra những
trường hợp nào được coi là lý do chính đáng nên trong thực tiễn xét xử “việc hiểu thế nào
là lý do chính đáng hiện nay vẫn chưa thống nhất”. Vấn đề này hiện nay cũng chưa có văn
bản hướng dẫn rõ ràng. Và thực tiễn cho thấy vấn đề này rất khó để có thể xác định được
và nó là vấn đề mang tính chất định tính. Có thể cùng một trường hợp, người thì cho đó là
lý do chính đáng, người thì khơng cho đó là lý do chính đáng. Khơng nói gì xa, nếu
đương sự rơi vào trường hợp lũ lụt miền Trung vừa qua và khơng thể có mặt theo giấy
triệu tập của Tịa án được thì trường hợp này có được coi là lý do chính đáng khơng? Việc
xác định lý do mà đương sự vắng mặt có chính đáng hay khơng phụ thuộc vào nhận định
của Tịa án trên cơ sở pháp luật. Có ý kiến cho rằng, lý do được coi là chính đáng khi nó
là bất khả kháng đối với đương sự đó như thiên tai, tai nạn, ốm đau… làm cho đương sự
không lường trước được, không tham gia vào vụ án đúng thời hạn mà pháp luật quy định
và tất cả các lý do đó đương sự phải chứng minh được khi HĐXX kiểm tra căn cứ ở phần
thủ tục bắt đầu phiên toà. Khái niệm sự kiện bất khả kháng trong tố tụng hành chính được
quy định cụ thể tại Khoản 14 Điều 3 Luật Tố tụng Hành chính 2015. Căn cứ vào đó, sự
kiện bất khả kháng trong tố tụng hành chính được hiểu là: sự kiện xảy ra một cách khách
quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi
biện pháp cần thiết và khả năng cho phép. Khi rơi vào trường hợp trên, Tịa án ra quyết
định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các

đương sự cụ thể là quyền tham gia tố tụng hành chính. Ngược lại, nếu đương sự vắng mặt
mà khơng chứng minh được là mình có lý do chính đáng thì Tịa án khơng thể ra quyết
định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm được. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần lưu ý, trong
trường hợp đương sự khơng thể tham gia phiên tịa nhưng đã ủy quyền cho người khác
tham gia tố tụng thì tịa án vẫn tiếp tục đưa vụ án ra xét xử chứ khơng tạm đình chỉ xét xử
phúc thẩm17.
Ví dụ: Bà Lê Thị Kim D khởi kiện trưởng Công an thành phố Vinh về việc khiếu
kiện Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 01984/QĐ-XPVPHC với số tiền 300.000
17 Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh – Khoa Luật Hành chính – Nhà nước (2009), Tập bài giảng Luật Tố tụng
hành chính, Nhà xuất bản Hồng Đức, tr. 156.


Nguyễn Thị Bích Hồng

Lớp: TM42A2

MSSV: 1753801011066

đồng vì có hành vi, lời nói lăng mạ xúc phạm danh dự bà Hồng Thị Minh C lên Toà án
nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An và đã được thụ lý. Sau khi xét xử, Toà án nhân
dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An ra bản án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà
Lê Thị Kim D về yêu cầu hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số01984/QĐXPVPHC ngày 10/9/2018 của Trưởng Công an thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An; Không
chấp nhận yêu cầu công khai xin lỗi và yêu cầu bồi thường thiệt hại của bà Lê Thị Kim D
vì khơng có căn cứ. Ngày 29/7/2020 Tịa án nhân dân thành phố Vinh nhận được đơn
kháng cáo của bà Lê Thị Kim D, kháng cáo toàn bộ Bản án hành chính sơ thẩm của Tịa
án nhân dân thành phố Vinh, yêu cầu Tòa phúc thẩm giải quyết hủy Quyết định xử phạt vi
phạm hành chính số 01984/QĐ-XPVPHC ngày 10/9/2018 của Trưởng Công an thành phố
Vinh và bồi thường công khai xin lỗi theo quy định của pháp luật. Sau đó TAND Thành
phố Vinh đã chuyển hồ sơ vụ án và đơn kháng cáo cho TAND tỉnh Nghệ An. TAND tỉnh
Nghệ An đã thụ lý vụ án để xét xử phúc thẩm. Hết thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm,

Tòa án gửi giấy triệu tập hợp lệ bà D tham gia phiên tòa xét xử phúc thẩm nhưng do bà D
bị bệnh nặng nên vắng mặt. Trong trường hợp này, để đảm bảo quyền tham gia tố tụng
của bà D, TAND tỉnh Nghệ An đã ra quyết định số 102/QĐ HCPT về việc tạm đình chỉ
xét xử phúc thẩm.
3.1.4. Cần đợi kết quả giải quyết của cơ quan khác hoặc kết quả giải quyết vụ việc
khác có liên quan (Điểm d Khoản 1 Điều 141 Luật Tố tụng hành chính 2015)
Theo đó, đây là trường hợp kháng cáo, kháng nghị mà Tòa án đã thụ lý và đang giải
quyết có liên quan đến vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động... hoặc một vụ việc khác
có liên quan. Kết quả giải quyết của các vụ án này có ý nghĩa quan trọng, là căn cứ, cơ sở
cho việc Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án hành chính có kháng cáo, kháng nghị đã thụ lý.
Khi chưa có kết quả giải quyết vụ án trên thì Tịa án khơng thể tiếp tục giải quyết vụ án
hành chính được. Nếu Tịa án vẫn cứ tiếp tục giải quyết vụ án thì phán quyết mà Tịa án
đưa ra có thể khơng chính xác, thiếu căn cứ... do đó, để đảm bảo kết quả giải quyết được
khách quan, chính xác, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì Tịa án phải
ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm để chờ kết quả giải quyết của các vụ án trên.
Như vậy, quyết định này là cần thiết, giúp cho Tịa án có cơ sở pháp lý, chứng cứ xác
đáng trong việc xác định thẩm quyền giải quyết của Tòa án, xác định tư cách người tham
gia tố tụng, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp, bảo vệ quyền lợi của các đương sự.


Nguyễn Thị Bích Hồng

Lớp: TM42A2

MSSV: 1753801011066

Ví dụ: Ngày 25/8/2015, Ủy ban nhân dân huyện N ban hành Quyết định số
3503/QĐ.UBND về việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BK 322383 cấp
ngày 23/7/2012 mang tên bà Trần Thị Bạch H(đối với diện tích đất 342m2 thửa 268, tờ
bản đồ 12 xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai). Không đồng ý với Quyết định số

3503/QĐ.UBND nên ngày 28/10/2015 bà Trần Thị Bạch H đã nộp đơn khởi kiện yêu
cầu Tòa án nhân dân huyện N hủy Quyết định số 3503/QĐ.UBND nêu trên. Ngày
27/11/2019 Tòa án nhân dân huyện N ra bản án sơ thẩm số 01/2019/HC-ST bác đơn khởi
kiện của bà Trần Thị Bạch H. Ngày 10/12/2019 bà Trần Thị Bạch H có đơn kháng cáo đề
nghị sửa toàn bộ bản án sơ thẩm số 01/2019/HC-ST ngày 27/11/2019 của TAND huyện N
theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu của người khởi kiện hủy Quyết định số 3503/QĐUBND ngày 25/8/2015 của Ủy ban nhân dân huyện N 18. TAND tỉnh ĐN đã thụ lý vụ án
để xét xử phúc thẩm. Tại phiên tòa xét xử phúc thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm phát
hiện, Tòa án khác đang giải quyết vụ án dân sự về tranh chấp về diện tích đất và tài sản
trên đất giữa bà Trần Thị Bạch H và ơng Trần Văn T. Vì vậy, Tịa án phúc thẩm ra quyết
định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với vụ án của bà Trần Thị Bạch H.
3.1.5. Cần đợi kết quả giám định bổ sung, giám định lại; cần đợi kết quả thực hiện
ủy thác tư pháp, ủy thác thu thập chứng cứ hoặc đợi cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu,
chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án mới giải quyết được vụ án (Điểm đ Khoản 1 Điều 141
Luật Tố tụng hành chính 2015)
Trong thời gian đợi kết quả giám định bổ sung, giám định lại thì tịa án tạm đình chỉ
xét xử vụ án, đối với các vụ án phải thực hiện bằng biện pháp ủy thác tư pháp, ủy thác thu
thập chứng cứ hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ thì thời gian để
chờ kết quả ủy thác tư pháp, ủy thác thu thập chứng cứ hoặc đợi cơ quan, tổ chức cung
cấp tài liệu, chứng cứ thường mất nhiều thời gian nên việc bổ sung căn cứ này là phù hợp,
đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
Đối với trường hợp đợi kết quả giám định bổ sung, giám định lại thì Tịa án ra quyết
định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm. Vấn đề này có mối quan hệ mật thiết với quy định
trong quá trình xét xử phúc thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền tạm ngừng phiên
tịa khi chờ kết quả giám định bổ sung, giám định lại 19. Giám định bổ sung, giám định lại
18 Bản án số: 02/2020/HC-PT Ngày: 28 –5 -2020 V/v: “Khiếu kiện Quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý
đất đai thuộc trường hợp thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” của TAND tỉnh Đồng Nai.
19 Điểm e Khoản 1 Điều 187 Luật TTHC 2015.


Nguyễn Thị Bích Hồng


Lớp: TM42A2

MSSV: 1753801011066

xuất hiện tại thủ tục hỏi người giám định tại phiên tòa phúc thẩm. Khi có người tham gia
tố tụng khơng đồng ý với kết luận giám định được cơng bố tại phiên tịa và có yêu cầu
giám định bổ sung hoặc giám định lại; trường hợp xét thấy việc giám định bổ sung, giám
định lại khơng cần thiết thì Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục phiên tòa; trường hợp xét thấy
việc giám định bổ sung, giám định lại cần thiết cho việc giải quyết vụ án thì Hội đồng xét
xử quyết định giám định bổ sung, giám định lại và tạm ngừng phiên tòa để chờ kết quả
giám định bổ sung, giám định lại 20. Ta cần phân biệt giữa “đợi” và “chờ” kết quả giám
định bổ sung, giám định lại. Trong khoảng thời gian 30 ngày kể từ ngày Hội đồng xét xử
phúc thẩm tạm ngừng phiên tịa thì đây được cho là khoảng thời gian xác định nên trong
trường hợp này dùng thuật ngữ là “chờ”. Nhưng sau 30 ngày mà vẫn chưa có kết quả
giám định bổ sung, giám định lại thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định tạm đình
chỉ giải quyết vụ án thì trường hợp này chuyển từ “chờ” sang “đợi”. Tuy nhiên ta thấy
được điểm bất cập trong quy định tại Điều 238 là dẫn chiếu toàn bộ đến Điều 187, căn cứ
tạm ngừng phiên tòa xuất hiện tại phiên tòa phúc thẩm trong trường hợp này Tịa án ra
quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án hay tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm. Nếu đương
sự chỉ kháng cáo một phần, viện kiểm sát kháng nghị một phần, những phần của bản án,
quyết định khơng bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực mà Tịa án lại đình chỉ giải
quyết vụ án là không phù hợp. Trên thực tế, trong trường hợp này Tòa án cấp phúc thẩm
sẽ ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính.
So với Luật TTHC 2010, đây là một căn cứ tạm đình chỉ mới được Luật TTHC 2015
bổ sung. Trong quá trình giải quyết kháng cáo, kháng nghị của vụ án thì Tịa án cấp phúc
thẩm nếu phát hiện các chứng cứ của vụ án cịn thiếu, chưa chính xác, chưa toàn diện,
chưa khách quan và cần giám định lại, giám định bổ sung và cần yêu cầu cơ quan tổ chức
đang lưu giữ quản lý tài liệu chứng cứ của vụ án cung cấp thêm các tài liệu, chứng cứ cho
mình thì Tịa án được quyền ban hành quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án

hành chính để đợi kết quả giám định bổ sung, giám định lại; đợi kết quả thực hiện ủy thác
tư pháp, ủy thác thu thập chứng cứ hoặc đợi cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ
theo yêu cầu của Tòa án. Căn cứ này được bổ sung là hồn tồn phù hợp với thực tiễn, vì
nếu Tịa vẫn tiếp tục xét xử sẽ khơng đảm bảo tính khách quan, đưa ra kết luận thiếu
chính xác, ảnh hưởng đến quyền lợi của các đương sự.

20 Khoản 4 Điều 185 Luật TTHC 2015.


Nguyễn Thị Bích Hồng

Lớp: TM42A2

MSSV: 1753801011066

Ví dụ: Ơng A khởi kiện VAHC liên quan đến việc yêu cầu hỗ trợ, bồi thường tiền
khi nhà nước thu hồi đất của ông A đến TAND tỉnh T. Sau khi thụ lý vụ án và xét xử,
TAND tỉnh T ra bản án sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của ông A. Sau đó Tịa án nhân dân
tỉnh T nhận được đơn kháng cáo của ơng A, kháng cáo tồn bộ Bản án hành chính sơ
thẩm của Tịa án nhân dân tỉnh T, yêu cầu Tòa phúc thẩm giải quyết việc yêu cầu hỗ trợ,
bồi thường tiền khi nhà nước thu hồi đất của ơng A. Sau đó TAND tỉnh T đã chuyển hồ sơ
vụ án và đơn kháng cáo cho TAND cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. TAND cấp cao
tại Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý vụ án để xét xử phúc thẩm. Trong q trình Tịa án cấp
phúc thẩm giải quyết vụ án, ơng A chết. Tịa án đưa những người thừa kế của ông A vào
tiếp tục tham gia tố tụng trong vụ án. Ông B cho rằng ông B là con riêng của ông A nên
ông B cũng có quyền tham gia tố tụng trong vụ án và được quyền hưởng di sản thừa kế
của ông A là số tiền nhà nước hỗ trợ, bồi thường khi thu hồi đất của ông A. Bà C là một
trong những người con ruột của ông A cho rằng, ông B không phải là con ông A vì trên
giấy khai sinh của ông B cung cấp không ghi tên cha của ông B là ông A.
Để chứng minh ông B là con của ông A, ông B yêu cầu Tịa án tiến hành cho giám

định ADN của ơng B và ông D (ông D là em ruột của ông A). Tịa án u cầu ơng D cung
cấp mẫu xét nghiệm (mẫu tóc, mẫu máu...) của ơng D để tiến hành giám định ADN với
ông B. Trong khoảng thời gian đợi kết quả giám định trên, TAND cấp cao tại Thành phố
Hồ Chí Minh đã ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm.
3.1.6. Cần đợi kết quả xử lý văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc giải
quyết vụ án có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ
quan nhà nước cấp trên mà Tịa án đã có văn bản kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền
xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản đó (Điểm e Khoản 1 Điều 141 Luật Tố tụng
hành chính 2015)
Cũng giống như căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 141 thì căn cứ này cũng là một điểm
mới của Luật Tố tụng hành chính 2015 so với Luật Tố tụng hành chính 2010. Khi gặp căn
cứ này thì Tịa án cấp phúc thẩm cũng ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm. Xuất
phát từ việc Tòa án được trao cho thẩm quyền mới trong quá trình giải quyết vụ án hành
chính là xem xét, kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật khi
phát hiện văn bản quy phạm pháp luật trái với Hiến pháp, Luật, văn bản quy phạm pháp
luật của cơ quan nhà nước cấp trên được cập nhật tại chương VIII Luật TTHC 2015 nên


Nguyễn Thị Bích Hồng

Lớp: TM42A2

MSSV: 1753801011066

việc bổ sung thêm căn cứ này là hoàn toàn phù hợp. Như vậy, trong q trình giải quyết
kháng cáo, kháng nghị, Tịa án phát hiện thấy các văn bản quy phạm pháp luật mà mình
áp dụng hoặc các văn bản có liên quan đến q trình giải quyết vụ án có dấu hiệu trái
Hiến pháp, Luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên thì Tịa án
có quyền xem xét, kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật đó
đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền và trong thời gian chờ đợi kết quả xử lí văn bản quy

phạm pháp luật đó thì Tịa án phải ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án
hành chính nhằm bảo đảm cho việc áp dụng pháp luật được thống nhất21.
Ví dụ: Công ty TNHH SL được Ủy ban nhân dân tỉnh HG ban hành Quyết định
2309/QĐ-UB phê duyệt dự án khai thác, tuyển luyện quặng sắt. Trong quá trình khai thác
quặng sắt, cơng ty SL có một số vi phạm nên Uỷ ban nhân dân tỉnh HG đã ban hành
Quyết định số 1058/QĐ-UB hủy bỏ Quyết định số 2309/QĐ-UB. Không đồng ý, công ty
TNHH SL khiếu nại và Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh HG ra Quyết định số 2267/QĐ-UB
bác yêu cầu khiếu nại, giữ nguyên Quyết định 1058/QĐ-UB. Công ty HG khởi kiện ra
Tịa án có thẩm quyền u cầu hủy Quyết định 2267/QĐ-UB và Quyết định 1058/QĐUB. Sau đó, TAND tỉnh HG ra bản án sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của Công ty HG.
Không đồng ý với bản án sơ thẩm Công ty HG kháng cáo, yêu cầu TAND cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh hủy quyết định số 1058/QĐ-UB của Ủy ban nhân dân tỉnh HG.
TAND cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý vụ án để xét xử phúc thẩm. Trong quá
giải quyết vụ án Tòa án cấp phúc thẩm phát hiện văn bản quy phạm pháp luật là căn cứ
ban hành Quyết định số 1058/QĐ-UB có dấu hiệu trái với Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật. Vì vậy, Tịa án cấp phúc thẩm ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc
thẩm đối với vụ án của Công ty HG để đợi kết quả xử lý văn bản quy phạm pháp luật trên.
Tóm lại, trên đây là sáu căn cứ để Tòa án cấp phúc thẩm vận dụng ra quyết định tạm
đình chỉ xét xử phúc thẩm sau khi đã tiến hành thụ lý vụ án để xét xử phúc thẩm vụ án
hành chính. Trong số sáu căn cứ trên thì có hai căn cứ được quy định tại Điểm đ, e Khoản
1 Điều 141 Luật TTHC 2015 đã được bổ sung so với Luật TTHC 2010. Các căn cứ trên
được trình bày dưới dạng liệt kê nên dễ dàng cho Tòa án trong việc áp dụng để ra quyết
định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính. Đồng thời tạo điều kiện thuận lợi
21 Lê Thị Mơ (2017), “Tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án hành chính theo quy định của Luật Tố tụng hành
chính 2015”, Giải thích và bình luận Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Nhà xuất bản Hồng Đức – Hội Luật gia
Việt Nam, Hà Nội, trang 232.


Nguyễn Thị Bích Hồng

Lớp: TM42A2


MSSV: 1753801011066

để việc giải quyết vụ án được chính xác, đúng luật, tránh lạm quyền, gây ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Ngoài sáu căn cứ được liệt kê tại Khoản 1 Điều 141 Luật TTHC 2015, thì Tịa án
cịn có thể ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm trong trường hợp quy định tại
Điều 238 Luật TTHC 2015. Theo quy định tại Điều 238 Luật TTHC 2015 thì việc tạm
ngừng phiên tịa phúc thẩm được thực hiện theo quy định tại Điều 187 của Luật này. Theo
Điều 187 Luật TTHC 2015 quy định: “Thời hạn tạm ngừng phiên tịa khơng được q 30
ngày kể từ ngày Hội đồng xét xử quyết định tạm ngừng phiên tòa. Hội đồng xét xử tiếp
tục tiến hành phiên tòa, nếu lý do để tạm ngừng phiên tịa khơng cịn. Hết thời hạn này,
nếu lý do tạm ngừng phiên tòa chưa được khắc phục, Hội đồng xét xử ra quyết định tạm
đình chỉ giải quyết vụ án và thông báo bằng văn bản cho những người tham gia tố tụng
và Viện kiểm sát cùng cấp về thời gian tiếp tục phiên tòa”. Trong quá trình xét xử phúc
thẩm vụ án, Hội đồng xét xử có quyền tạm ngừng phiên tịa khi có một trong các căn cứ
quy định tại Khoản 1 Điều 187. Nếu hết thời hạn tạm ngừng phiên tòa mà các căn cứ tạm
ngừng khơng được khắc phục thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc
thẩm.
Ví dụ: Ngày 09/7/2019, Ơng Nguyễn Minh T khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân
quận Gò Vấp hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0004841/QĐ-XPVPHC
ngày 15/5/2019 của Trưởng Cơng an quận Gị Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. Tại Bản án
số 01/2019/HCST ngày 11/11/2019 của Tịa án nhân dân Quận Gị Vấp, Thành phố Hồ
Chí Minh đã quyết định bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện là ông
Nguyễn Minh T về việc: hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0004841/QĐXPVPHC ngày 15/5/2019 của Trưởng Cơng an quận Gị Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 22/11/2019, ơng Nguyễn Minh T nộp đơn kháng cáo để kháng cáo toàn bộ bản án
sơ thẩm. Tại phiên tịa phúc thẩm Ơng Nguyễn Minh T vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo
. Đến thủ tục hỏi tại phiên tịa phúc thẩm ơng T do mất bình tỉnh, dẫn đến cơn đau tim tái
phát và ngất xỉu tại phiên tịa, khơng thể tiếp tục tham gia phiên tòa nên Hội đồng xét xử
phúc thẩm quyết định tạm ngừng phiên tòa. Nhưng hết 30 ngày, mà bệnh tình của ơng T

khơng thun giảm vẫn phải thở máy nên không thể tiếp tục tham gia phiên tịa. Vì vậy,
Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án.


×