Tích hợp và tự sinh trong văn hóa Hồ Chí Minh
Phan Công Khanh
Tạp chí Khoa học xã hội
Nhân loại không thiếu những anh hùng dân tộc, những đanh nhân văn hóa có
tầm ảnh hưởng sâu rộng đối với sự phát triển của đất nước họ, sự vận động
chung của lịch sử nhân loại. Hồ Chí Minh là hiện thân của nhiều giá trị, đặc sắc
về tính dân tộc nhưng vẫn bao hàm những yếu tố phổ quát của nhân loại.
Trên thực tế, văn hóa Hồ Chí Minh với tư cách là một khái niệm tổng thể nhằm chỉ
những giá trị tốt đẹp toát ra từ toàn bộ cuộc đời và nhân cách vĩ đại của Hồ Chí
Minh đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều người.
Văn hóa Hồ Chí Minh trước hết là văn hóa của sự tích hợp. Cái “không phải văn
hóa Châu Âu tỏa ra từ Nguyễn Ái Quốc mà Ôxíp Manđenxtam nhận ra từ năm
1923 đã cho thấy sự tích hợp đó. Dự cảm của nhà thơ Xô Viết này đã mặc nhiên
thừa nhận “nền văn hóa tương lai” tỏa ra từ Nguyễn Ái Quốc là một sự tích hợp,
trong đó có văn hóa Châu Âu. Đứng về phía Manđenxtam có cả những người Mỹ:
“Hồ Chí Minh là một trong số các nhân vật lạ lùng nhất của thời đại chúng ta –
pha trộn một chút Găngđi một chút Lênin, hoàn toàn Việt Nam.
Chắc chắn là hơn bất cứ nhân vật nào của thế kỷ này. Người là hiện thân sinh
động cho cách mạng của dân tộc Người và của toàn thế giới. Sự tích hợp này có lý
do. Đường như hiclm có nhà cách mạng nào mà cuộc đời hoạt động phong phú
như Hồ Chí Minh: từ thời thanh niên đã đi khắp các châu lục, làm nhiều nghề khác
nhau, biết nhiều thứ tiếng, hoạt động xuất sắc trên nhiều lĩnh vực, từng nếm cảnh
tù đày và nhiều lần suýt nguy hiểm đến tính mạng, hơn hai trăm tên gọi, bí danh
và bút danh khác nhau… Hồ Chí Minh rất có ý thức về sự tích hợp đó. Người tìm
đường đến Pháp chứ không phải đến một nước Châu Á như không ít nhà cách
mạng tiền bối, Người gửi đơn cho Tổng thống Pháp xin học bổng nội trú tại
trường thuộc địa, từng học lớp nghiên cứu sinh ở Moscow nhưng đột ngột bỏ dở
việc viết luận án, rời nước Nga trở về lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người từng
viết: “Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt ta học lấy để tạo ra một nền văn
hóa Việt Nam… có tinh thần thuần túy Việt Nam hợp với tinh thần dân chủ” (Báo
Cứu Quốc, 1946). Có ý thức tích hợp, Hồ Chí Minh cũng là người có khả năng tích
hợp. Đấy là khả năng của một trí tuệ siêu việt và một bản lĩnh phi thường biết tìm
ra những yếu tố cốt lõi nhất của những dòng tư tưởng thời đại để dung hòa. Dân
tộc Việt Nam là một dân tộc nhiều khả năng tích hợp. Khả năng này rất mạnh mẽ
ở những quốc gia bé nhỏ về diện tích và dân số Thái độ tự tôn dân tộc của
những quốc gia hùng mạnh có thể là rào cản tinh thần cho sự tích hợp ở những
bước chuyển lịch sử. Để có thể tồn tại trong quan hệ với các quốc gia hùng mạnh
về quân sự và kinh tế những đất nước nhỏ bé phải biết tích hợp.
Trong quan hệ với Trung Hoa và Ấn Độ, người Việt Nam đã phải phát huy khả
năng tích hợp của mình để tồn tại và phát triển. Tìm đường cứu nước, đến với
phương Tây hùng mạnh nhưng Hồ Chí Minh không hề lãng quên phương Đông.
Người quan niệm: “Học thuyết Khổng tử có cái hay là sự tu dưỡng đạo đức, tôn
giáo Giê-xu có cái hay là lòng bác ái. Chủ nghĩa Mác có cái hay là phương pháp
biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có cái hay là chính sách của nó phù hợp với
điều kiện nước chúng tôi”. Và Hồ Chí Minh kết luận: “Tôi cố gắng làm người học
trò nhỏ của họ”. Cũng với tinh thần tích hợp ấy mà Hồ Chí Minh chỉ ra rằng phải
“xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học
phương Dông ” (Hồ Chí Minh, 1 995 , tập 1, tr. 467). Hồ Chí Minh nhận ra và kiên
trì quan điểm “chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước” (Hồ Chí Minh,
1995, tập 1, tr. 465), Năm 1921, Stalin cho rằng trong khi tự giải phóng, các dân
tộc tiên tiến có sứ mạng giải phóng các dân tộc lạc hậu thì Hồ Chí Minh khẳng
định hàng trăm triệu người dân ở các nước thuộc địa Châu Á là một lực lượng
khổng lồ, “trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư
bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương
Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn” (Hồ Chí Minh, 1 995, tập 1 , tr. 36).
Tích hợp văn hóa để làm cách mạng, Hồ Chí Minh đấu tranh cho tất cả những dân
tộc bị áp bức trên thế giới. Khi tuyên bố độc lập cho dân tộc mình, Người dẫn
Tuyên ngôn lập quốc Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách
mạng Pháp để “suy rộng ra tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng,
dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” (Hồ Chí
Minh, 2002, tập 4, tr. 1). Ở đây, ngoài yêu cầu chặt chẽ về lập luận và tính thuyết
phục, trích dẫn còn cho thấy trong khi quan tâm đến những giá trị dân tộc Hồ Chí
Minh luôn tìm ra những nét tương đồng mang tính phổ quát, từ dân tộc nhận ra
nhân loại và từ nhân loại quay trở về dân tộc. Vì vậy, văn hóa Hồ Chí Minh là văn
hóa của đức khoan dung, đại độ: “Trước lòng bác ái thì máu Pháp hay máu Việt
đều là máu” (Hồ Chí Minh, 2002, tập 4, tr. 330). Đối thoại với người Pháp, Hồ Chí
Minh hay nói đến bình đẳng, tự do, bác ái. Nhà nghiên cứu người Mỹ Halberstam
từng nhận xét: Hồ Chí Minh “dùng tới văn hóa và tâm hồn của kẻ địch để chiến
thắng ” (Hồ Chí Minh, 2002, tập 4, tr. 350).
Như bất cứ hiện tượng văn hóa nào, văn hóa Hồ Chí Minh có khả năng tự sinh và
khả năng tự sinh của văn hóa Hồ Chí Minh là rất mạnh mẽ. Hồ Chí Minh đã tự học
và trở thành danh nhân văn hóa, tự rèn luyện trong thực tiễn đấu tranh cách
mạng và trở thành anh hùng giải phóng dân tộc. Cuộc đời Hồ Chí Minh là một tấm
gương lớn về tự học, tự phấn đấu, tự rèn luyện. Một nhà báo châu Đại Dương
từng nói: “người ta không thể trở thành một Hồ Chí Minh, nhưng ở Cụ Hồ mỗi
người có thể học một số điều gì làm cho mình trở thành tết hơn ” (Trần Văn Giàu,
tr. 46). Quan tâm thật nhiều đến đạo đức, nhân cách là điểm đặc sắc, nổi bật
nhất của văn hóa Hồ Chí Minh. Nói như Trần Văn Giàu, đây là điều khiến Hồ Chí
Minh phân biệt với hầu hết các nhà lãnh đạo cách mạng khác. Bản thân các tín
điều đạo đức đã là những giá trị tự sinh. Đạo đức là một quan hệ. Sống có đạo
đức là để sống với nước khác, cho người khác và để cảm hóa người khác. Hồ Chí
Minh yêu thương không chỉ những con dân Việt Nam mà tất cả “mọi kiếp người”.
Hơn nữa, khả năng tự sinh của đạo đức Hồ Chí Minh còn có cội nguồn ở chỗ Hồ
Chí Minh là một nhân cách, một tấm gương đạo đức vô song, nói đi đôi với làm,
nói về đạo đức gắn liền với thực hành đạo đức nói ít làm nhiều. Lối sống, ứng xử
của Hồ Chí Minh như sự minh họa tự nhiên nhi nhiên cho những chỉ dạy của Hồ
Chí Minh về đạo đức. Hồ Chí Minh khuyên cán bộ đảng viên phải cần kiệm liêm
chính thì bản thân Người là một tấm gương tuyệt vời về cần kiệm liêm chính. Vì
vậy mà Hồ Chí Minh có thể cảm hóa nhiều người, kể cả những kẻ cố tình đày đọa
Người và dân tộc của Người. Một học giả nước ngoài đã viết về Người: “Cụ Hồ là
người xây dựng lương tri, xây dựng khi nó thiếu, tái tạo khi nó mất. Cụ thức tỉnh
kẻ mê, ân cần đỡ dậy người trượt ngã, biến vạn ức người bình thường thành anh
hùng vô danh và hữu danh trong lao động, trên chiến trường, trong ngục tối,
trước máy chém” (1995, tr.290).
Rất dễ nhận ra khả năng tự sinh của văn hóa Hồ Chí Minh khi tên của Người đã
trở thành định ngữ cho nhiều thực thể xã hội: bộ đội cụ Hồ, giấy bạc cụ Hồ,
đường mòn Hồ Chí Minh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, tuổi trẻ thế hệ
Bác Hồ… trong đó có những tên gọi do chính người dân nghĩ ra một cách tự nhiên
với nhiều niềm tin gởi gắm vào đó. Và trên tất cả là thời đại Hồ Chí Minh, thời đại
của những vinh quang chói lọi của Tổ quốc gắn liền với thiên tài nhiều mặt và sự
hy sinh tận tụy của Người.
Tích hợp và tự sinh trong văn hóa Hồ Chí Minh là thống nhất nhau. Sự tích hợp
đem đến khả năng tự sinh và tự sinh càng nhân lên sự tích hợp. Sự thống nhất
này cũng giống như sự thống nhất của hai vĩ nhân trong Hồ Chí Minh: danh nhân
văn hóa và anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân – văn hóa là tích hợp và anh
hùng giải phóng dân tộc là tự sinh. Trong kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh
đề xướng khẩu hiệu: “Văn hóa hóa kháng chiến và “Kháng chiến hóa văn hóa “.
Nếu làm một phép so sánh thì văn hóa là tích hợp, kháng chiến là tự sinh. Hồ Chí
Minh đã tích hợp văn hóa Đông Tây để tìm ra con đường tự sinh cho dân tộc
trong thế kỷ XX và sự tự sinh ấy càng làm giàu có thêm tính tích hợp của dân tộc
trên con đường giành lấy độc lập và thoát khỏi đói nghèo.
Khả năng tích hợp và tự sinh làm nên ý nghĩa và chức năng giáo dục của văn hóa.
Hồ Chí Minh từng viết: “Phải làm sao cho văn hóa vào sâu trong tâm lý quốc dân,
nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ”. Là
người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, Người đánh giá và luôn
mong muốn “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. Trong Di chúc, điều Người đề cập
trước tiên là Đảng: “Trước hết nói về Đảng…”. Người mong muốn “mỗi đảng viên
và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” (Hồ Chí Minh,
2002, tập 12, tr. 510). Dây có thể được xem là những khái quát về văn hóa của
người đảng viên và văn hóa Đảng. Để “Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát
triển kinh tế là trung tâm, xây dựng chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng
nâng cao văn hỏa – nền tảng tinh thần của xã hội ” (Thông tin Văn hóa và phát
triển, 2004, tr. 4) cần phải làm cho văn hóa Hồ Chí Minh thấm nhuần trong mỗi
đảng viên và trở thành văn hóa Đảng.
Nguồn:
Tạp chí Khoa học xã hội