Tải bản đầy đủ (.docx) (52 trang)

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÀNH HẢI QUAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.74 KB, 52 trang )

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÀNH HẢI QUAN
TRONG HOẠT ĐỘNG PHÒNG CHỐNG BUÔN LẬU VÀ
GIAN LẬN THƯƠNG MẠI
2.1. Chủ trương, chính sách của nhà nước và các biện pháp của ngành Hải
quan trong hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại
2.1.1. Chủ trương, chính sách của nhà nước
Đấu tranh phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại thông qua hoạt
động xuất nhập khẩu, đầu tư nước ngoài,.. là nhiệm vụ quan trọng mà Đảng và
Nhà nước đã giao cho ngành Hải quan, điều này đã thể hiện rất rõ tại nội dung
điểm 1.2 tại chương 1 của luận văn này. Từ sau khi đất nước thực hiện chính
sách đổi mới, mở cửa nền kinh tế và đặc biệt là từ sau khi Việt Nam tăng cường
quan hệ thương mại với Trung Quốc và các nước Tây Âu, kim ngạch xuất nhập
khẩu và số thu thuế xuất nhập khẩu tăng nhanh chóng (trong vòng 10 năm, số
thu của năm 1997 là 13.500 tỷ đến năm 2006 là 61.040 tỷ). Vai trò, vị thế của
Hải quan ngày càng trở nên quan trọng trong quá trình đổi mới đất nước. Những
năm qua, các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Nhà nước thể hiện sự
quyết tâm xây dựng, phát triển Ngành Hải quan thực sự trở thành “người chiến
sỹ gác cửa của quốc gia, là một trong những binh chủng đặc biệt trên mặt trận
kinh tế, chính trị, an ninh, đối ngoại...” [23, tr 213].
Công tác đấu tranh phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại của Hải
quan còn được cụ thể hóa bằng các quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật
như:
- Bộ luật tố tụng hình sự và Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự quy định:
Hải quan được tiến hành điều tra đối với tội phạm buôn lậu và tội vận chuyển
trái phép hàng hoá qua biên giới quy định tại Điều 153 và Điều 154 của Bộ luật
hình sự; được quyền áp dụng các biện pháp: khởi tố vụ án, lấy lời khai, thu giữ,
tạm giữ và bảo quản vật chứng, tài liệu liên quan trực tiếp đến vụ án, khám
người, khám nơi oa trữ trong khu vực kiểm soát của Hải quan, trưng cầu giám
định, khởi tố bị can, tiến hành các biện pháp điều tra khác theo quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự , kết thúc điều tra và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát... [14,
tr22].


- Luật hải quan quy định: cơ quan Hải quan chủ trì phối hợp với các cơ
quan nhà nước hữu quan thực hiện các hoạt động phòng, chống buôn lậu trong
địa bàn hoạt động hải quan... áp dụng các biện pháp nghiệp vụ cần thiết, thu
thập thông tin trong nước và ngoài nước liên quan đến hoạt động hải quan để
chủ động phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới,
phục vụ thông quan hàng hóa và kiểm tra sau thông quan......[8, tr 101].
- Quyết định số 65/2004/QĐ-TTg ngày 19/4/2004 của Thủ tướng Chính
phủ về việc ban hành Quy chế hoạt động của lực lượng Hải quan chuyên trách
phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới (gọi tắt là
lực lượng kiểm soát Hải quan). Theo đó lực lượng kiểm soát hải quan được trao
quyền tiến hành các biện pháp nghiệp vụ đặc thù , bao gồm: Thu thập, xử lý
thông tin nghiệp vụ hải quan (Hải quan thế giới gọi hoạt động này là Tình báo
hải quan); vận động quần chúng tham gia phòng, chống buôn lậu, vận chuyển
trái phép hàng hoá qua biên giới; điều tra nghiên cứu nắm tình hình; tuần tra
kiểm soát; các biện pháp ngăn chặn theo quy định của pháp luật để phục vụ việc
xác minh. làm rõ và xử lý hành vi vi phạm pháp luật hải quan; Tiến hành tiến
hành một số hoạt động điều tra theo thẩm quyền quy định tại Bộ luật tố tụng
hình sự và Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự; cơ sở bí mật; sưu tra; đấu tranh
chuyên án; nội tuyến; ngoại tuyến; trinh sát kỹ thuật [5, tr 2,3].
- Thông tư 102/2005/TT-BTC ngày 21/11/2005 của Bộ Tài chính và
Quyết định 1882/QĐ-TCHQ ngày 29/11/2005 của Tổng cục trưởng Tổng cục
Hải quan hướng dẫn và quy định thực hiện các biện pháp nghiệp vụ kiểm soát
hải quan phục vụ công tác đấu tranh phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái
phép hàng hoá qua biên giới.
Ngoài ra, xuất phát từ tình hình, đặc điểm của hoạt động buôn lậu, gian
lận thương mại trong từng thời kỳ, Chính phủ ban hành các văn bản quy định
cho Hải quan được tiến hành các hoạt động đấu tranh chống buôn lậu, như: Chỉ
thị của Thủ tướng Chính phủ số 701/TTg, ngày 28/10/1995 về đấu tranh chống
buôn lậu trên biển của lực lượng Hải quan và các cơ quan chức năng như Bộ đội
Biên phòng, Cảnh sát biển; Các chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ số

853/1997/CT-TTg, ngày 11/10/1997 về đấu tranh chống buôn lậu trong tình
hình mới, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ số 31/1999/CT-TTg, ngày
27/10/1999 đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả, trong đó giao Tổng
cục Hải quan phối hợp với Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Bộ Thương mại và các
Bộ ngành khác có liên quan tổ chức công tác đấu tranh chống buôn lậu. Để
thống nhất tập trung chỉ đạo và phù hợp với tình hình thực tế, ngày 27/08/2001
Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 127/2001/QĐ-TTg thành lập Ban chỉ đạo
chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại (gọi tắt là Ban 127 TW),
Trưởng Ban 127 TW là Bộ trưởng Bộ Thương mại, thành viên của Ban TW có
đại diện của các Bộ, Ngành chức năng, trong đó có đại diện của ngành Hải
quan.
Nhằm tăng cường bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội và để tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ công tác đấu tranh với các loại tội phạm, phát huy sức
mạnh tổng hợp của toàn bộ sức mạnh của hệ thống chính trị, trách nhiệm của
các Ngành, các cấp trong phòng ngừa đấu tranh phòng chống tội phạm, ngày 31
tháng 7 năm 1998, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP về
tăng cường công tác phòng chống tội phạm trong tình hình mới. Đồng thời Thủ
tướng đã ban hành Quyết định 138/1998/QĐ-TTg, ngày 31 tháng 7 năm 1998
phê duyệt chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm và thành lập Ban chỉ
đạo thực hiện chương trình, Tổng cục Hải quan được chỉ định là thành viên.
Nhìn chung, việc nhà nước sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện một số văn bản
Luật có liên quan đến hoạt động hải quan như: Luật Thương mại, Luật Thuế
xuất nhập khẩu, Luật Doanh nghiệp,... và ban hành các văn bản hướng dẫn thực
hiện chi tiết đã từng bước hoàn thiện chính sách quản lý để phát triển nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
đã góp phần đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, bảo vệ lợi ích
chính đáng của người sản xuất, người tiêu dùng và lợi ích hợp pháp của thương
nhân, góp phần hạn chế tình trạng buôn lậu và gian lận thương mại.
Bên cạnh đó, nhà nước điều chỉnh, ban hành một số chính sách như:
chính sách ưu đãi đầu tư, ưu đãi về thuế đối với vùng sâu, vùng xa, vùng đặc

biệt khó khăn hay chính sách tín dụng cho vay vốn lãi suất thấp ưu tiên nhân
dân vùng biên để kích thích đầu tư sản xuất tạo ra công ăn việc làm cho người
lao động ở vùng này nhằm ngăn chặn tình trạng tiếp tay cho buôn lậu.
Để khuyến khích hoạt động phòng, chống buôn lậu và gian lận thương
mại, nhà nước cũng đã ban hành chính sách, chế độ đảm bảo kinh phí cho hoạt
động của các lực lượng chống buôn lậu và gian lận thương mại như: Kinh phí
đảm bảo cho các hoạt động điều tra, xác minh, bắt giữ, lưu kho bãi, định giá,
đấu giá,...chi trả cho người cung cấp tin,.... đã phần nào hỗ trợ, động viên cho
công tác này.
2.1.2. Các biện pháp của ngành Hải quan trong hoạt động phòng chống buôn
lậu và gian lận thương mại
Nhận thức rõ về nguyên nhân, tính chất, hậu quả nghiêm trọng của hoạt
động buôn lậu, gian lận thương mại thời gian ngành Hải quan qua đã tập trung
bằng các biện pháp phù hợp trong từng giai đoạn:
* Thực hiện hoạt động phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại với
công tác cải cách thủ tục hành chính, trọng tâm hiện đại hóa ngành Hải quan
Từ thực tiễn công tác cho thấy, một trong những nguyên nhân xuất hiện
tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại trong lĩnh vực hải quan là những sơ hở,
mâu thuẫn, không rõ ràng trong hệ thống luật pháp, trong chính sách quản lý
thương mại,... Bên cạnh đó, quy trình nghiệp vụ thì rườm rà, chưa phân định rõ
trách nhiệm của công chức thừa hành, cán bộ lãnh đạo ở từng cấp tác nghiệp
dẫn đến tình trạng xử lý công việc tùy tiện, theo cảm tính gây thiệt hại không
đáng có cho cộng đồng doanh nghiệp. Đây cũng là thực tế mà hầu hết các cơ
quan quản lý hành chính nhà nước trong đó có ngành Hải quan phải đối mặt. Để
giải quyết về cơ bản tình trạng này, nhất là đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế
quốc tế nhất thiết phải tiến hành cải cách, hiện đại hóa toàn diện các mặt hoạt
động nghiệp vụ của ngành Hải quan phù hợp với thông lệ quốc tế và góp phần
tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động thương mại, đầu tư, du lịch,...
Trên cơ sở quy định của Luật Hải quan, Luật thuế xuất nhập khẩu,... và
gần đây là Luật Quản lý thuế, Ngành Hải quan đã tham mưu sửa đổi, ban hành

thủ tục kiểm tra, giám sát hải quan; thủ tục về thuế; quy trình nghiệp vụ; sắp xếp
tổ chức, bộ máy làm việc… nhằm hạn chế, khắc phục những sơ hở trong cơ chế,
chính sách và nâng cao năng lực, chất lượng, hiệu quả công tác của các bộ phận
nghiệp vụ trong dây truyền thủ tục hải quan cũng như các lực lượng kiểm soát
chống buôn lậu, gian lận thương mại.
* Công tác tổ chức và nghiệp vụ của lực lượng kiểm soát hải quan
Các năm qua, trong hoạt động chống buôn lậu, gian lận thương mại, lực
lượng kiểm soát hải quan đã thể hiện được vai chủ công của mình, nhất là qua
công tác ngăn chặn, đấu tranh thành công với vụ việc lớn, nổi cộm và làm tốt
công tác tham mưu giúp lãnh đạo các cấp trong ngành Hải quan trong điều
hành, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị mà Đảng, Nhà nước giao cho.
- Về hệ thống tổ chức: Tùy theo từng giai đoạn cụ thể, hệ thống tổ chức
của lực lượng kiểm soát hải quan được lãnh đạo ngành Hải quan, Bộ Tài chính
điều chỉnh, kiện toàn để đáp ứng yêu cầu công tác quản lý hải quan nói chung
cũng như nâng cao hiệu quả của công tác buôn lậu, gian lận thương mại nói
riêng.
Hiện tại, lực lượng kiểm soát hải quan toàn ngành được tổ chức theo hệ
thống các đơn vị chuyên trách từ Tổng cục xuống tới các Chi cục Hải quan cửa
khẩu, bao gồm: Cục Điều tra chống buôn lậu; Đội kiểm soát thuộc Cục Hải
quan tỉnh, thành phố; Phòng Tham mưu xử lý vi phạm và thu thập xử lý thông
tin thuộc Cục Hải quan tỉnh, thành phố; 12 Đội kiểm soát ma tuý thuộc Cục Hải
quan tỉnh, thành phố; Các Tổ kiểm soát thuộc Chi cục Hải quan cửa khẩu; 19 Tổ
kiểm soát ma tuý thuộc Chi Cục Hải quan cửa khẩu. Tính đến tháng 10/2006 số
lượng cán bộ công chức làm công tác kiểm soát hải quan trong toàn ngành là
1.412 cán bộ, trong đó số lượng cán bộ có trình độ Đại học là 790 người (chiếm
55,9%); 622 cán bộ có trình độ Trung cấp, Cao đẳng (riêng Cục Điều tra chống
buôn lậu có 360 cán bộ, trong đó: 250 cán bộ có trình độ Đại học).
- Về hoạt động nghiệp vụ: Trên cơ sở quyết định 65/2004/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ; thông tư 102/2005/TT-BTC của Bộ Tài chính. Tổng cục
Hải quan đã ban hành quyết định 1882/QĐ-TCHQ, ngày 29/11/2005 hướng dẫn

và quy định thực hiện cụ thể các biện pháp nghiệp vụ kiểm soát hải quan, đây
thực sự là công cụ hữu hiệu giúp lực lượng kiểm soát hải quan thực hiện tốt
nhiệm vụ đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại.
Thời gian vừa qua, lực lượng kiểm soát hải quan còn được ngành Hải
quan giao cho một số nhiệm vụ mới sau: Thu thập, xử lý thông tin nghiệp vụ hải
quan; áp dụng quản lý rủi ro; bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hóa xuất
nhập khẩu, chống hàng giả, hàng nhái; cưỡng chế thi hành quyết định hành
chính. Đây là những nhiệm vụ mới và khó, đặc biệt là công tác thu thập, xử lý
thông tin nghiệp vụ hải quan (công tác tình báo hải quan).
Thông tin nghiệp vụ là thông tin có giá trị sử dụng cao, là nền tảng và cốt
lõi của phương pháp quản lý hải quan hiện đại - Phương pháp quản lý rủi ro.
Rủi ro là những điều bất lợi (không mong muốn) xảy ra hoặc có thể xảy ra trên
thực tế; rủi ro trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hải quan là những điều bất lợi
cản trở ngành Hải quan thực hiện nhiệm vụ mà nhà nước giao cho (trong đó
buôn lậu, gian lận thương mại là một trong những loại rủi ro mà ngành hải quan
phải đối mặt); quản lý rủi ro là việc áp dụng đồng bộ phương pháp để xác định
và xử lý các rủi ro đó; rủi ro được phân loại thành các mức độ: rất cao - cao -
trung bình - thấp - rất thấp, tương ứng với mỗi mức độ rủi ro là một cách xử lý
(ra quyết định quản lý) của cơ quan Hải quan, ví dụ: Rủi ro cao, rất cao thì cơ
quan hải quan không chấp nhận, phải tiến hành kiểm tra, kiểm soát và ngăn
chặn ngay (luồng đỏ trong việc làm thủ tục Hải quan hiện nay, kiểm tra hồ sơ và
kiểm tra thực tế hàng hóa); rủi ro thấp/rất thấp là những rủi ro ít có khả năng xảy
ra trên thực tế thì cơ quan hải quan có thể chấp nhận rủi ro (luồng xanh, miễn
kiểm tra thực tế hàng hóa hiện nay), thậm chí nếu nguồn lực hạn chế thì đối với
trường hợp rủi ro trung bình thi cơ quan hải quan cũng có thể chấp nhận rủi ro
(luồng vàng, chỉ kiểm tra hồ sơ, không kiểm tra thực tế hàng hóa) đồng thời
chuyển giao rủi ro này cho lực lượng kiểm tra sau thông quan xử lý (tiến hành
hậu kiểm) làm giảm áp lực công việc cho khâu trong thông quan.
Như vậy, ở đây thông tin nghiệp vụ chính xác, kịp thời sẽ giúp cơ quan
Hải quan xác định mức độ rủi ro cao hay thấp của lô hàng xuất nhập khẩu qua

việc tổng hợp đánh giá hàng loạt thông tin về doanh nghiệp, mặt hàng (phân
loại, xuất xứ, trị giá,..), tuyến đường vận chuyển, phương thức thanh toán,...
hay nói cách khác là giúp cơ quan Hải quan đánh giá xem tổ chức, cá nhân, lô
hàng xuất nhập khẩu có khả năng vi phạm pháp luật Hải quan không?).
Từ phân tích trên, cho thấy nếu làm tốt công tác thu thập, xử lý thông tin
nghiệp vụ hải quan thì sẽ tiết kiệm được nguồn nhân lực, vật lực (vì chỉ tập
trung nguồn lực vào những lĩnh vực, lô hàng rủi ro cao để quản lý), tạo thông
thoáng trong quy trình thủ tục Hải quan và nâng cao được hiệu quả của công tác
chống buôn lậu, gian lận thương mại - đây chính là mục đích cơ bản mà phương
pháp quản lý Hải quan hiện đại (phương pháp quản lý rủi ro) hướng tới. Để thực
hiện tốt công tác thu thập, xử lý thông tin nghiệp vụ hải quan nhất thiết phải có
nhiều yếu tố đảm bảo đồng bộ mà điều kiện tiên quyết chính là tổ chức, bộ máy
của đơn vị thực hiện chuyên trách.
Xuất phát từ mục đích, yêu cầu của công tác đặc thù này lãnh đạo ngành
Hải quan đã xác định, lực lượng kiểm soát hải quan thực hiện nhiệm vụ này là
hợp lý nhất. Vì vậy, từ đầu năm 2006 được sự đồng ý của Bộ Tài chính, ngành
Hải quan đã triển khai thành lập hệ thống các đơn vị chuyên trách thu thập, xử
lý thông tin nghiệp vụ hải quan thuộc lực lượng kiểm soát hải quan từ Cấp Tổng
cục đến Cấp Chi cục, đồng thời ngành Hải quan cũng đã ban hành quy chế hoạt
động, quy trình nghiệp vụ, các chương trình kế hoạch công tác cụ thể để tạo
hành lang hoạt động cho lực lượng này nhằm mục đích đẩy mạnh công tác thu
thập, xử lý thông tin.
* Công tác kiểm tra sau thông quan
Trên cơ sở quy định tại Nghị định 96/2002/NĐ - CP, ngày 19/11/2002 của
Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Tổng cục Hải quan. Năm 2003, lực lượng kiểm tra sau thông quan chính thức
thành lập và tổ chức triển khai hoạt động, tại cấp Tổng cục là Cục Kiểm tra sau
thông quan; cấp Cục Hải quan tỉnh, thành phố là Chi cục kiểm tra sau thông
quan; cấp Chi cục hải quan là Bộ phận phúc tập.
Kiểm tra sau thông quan là cách làm hiện đại được hải quan các nước

phát triển áp dụng, hiện nay hải quan Việt Nam đang có những bước tiếp cận và
hoàn thiện quy trình này vào Việt Nam. Hải quan Việt Nam đã và đang chuyển
từ “tiền kiểm” (kiểm tra hàng hoá trong thông quan) sang “hậu kiểm” (kiểm tra
sau thông quan); cách làm này cho phép hàng hoá được thông quan nhanh; giảm
thời gian lưu giữ hàng hóa tại cửa khẩu, kho bãi; việc kiểm tra sẽ được lựa chọn
và thực hiện sau khi hàng hoá đã thông quan trên cơ sở đánh giá, phân tích
thông tin.
Thời gian vừa qua lực lượng kiểm tra sau thông quan đã thực hiện tương
đối tốt vai trò hậu kiểm hàng hoá nhập khẩu, góp phần chống thất thu hiệu quả
cho ngân sách Nhà nước Chỉ tính riêng trong năm 2007, toàn ngành Hải quan
đã thực hiện 710 cuộc kiểm tra sau thông quan tại trụ sở hải quan, tăng 27% so
với năm 2006. Qua hoạt động kiểm tra đã đánh giá được sự tuân thủ pháp luật
của phần lớn các doanh nghiệp nhập khẩu các mặt hàng lỏng, hàng rời (truy thu
66,5 tỷ đồng), vải vụn, nguyên liệu được miễn thuế 5 năm theo pháp luật về đầu
tư (truy thu 3,3 tỷ đồng)…Lực lượng Kiểm tra sau thông quan cũng đã tiến
hành 48 cuộc Kiểm tra sau thông quan tại trụ sở doanh nghiệp (tăng 3 lần so
với 2006) kiểm tra hồ sơ, chứng từ đối với các mặt hàng thép lá cán nguội, ô tô
nhập khẩu, sữa bột… và đã thu được một số kết quả tích cực.
* Công tác phối hợp với các cơ quan hữu quan
Công tác phối hợp với các cơ quan hữu quan trong hoạt động phòng
chống buôn lậu, gian lận thương mại luôn được ngành Hải quan quan tâm thực
hiện, nhất là đối với các lực lượng Bộ đội biên phòng, Công an, Quản lý thị
trường, Thuế nội địa,....
- Với Bộ đội biên phòng:
Ngày 11/01/1991, Tổng cục Hải quan và Bộ đội biên phòng có triển khai
ký kết và thực hiện phối hợp trong công tác. Sau khi triển khai tổng kết 10 năm
thực hiện quy chế phối hợp hoạt động ký ngày 11/01/1991 nêu trên, để tiếp tục
củng cố tăng cường mối quan hệ phối hợp hoạt động giữa hai lực lượng đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới góp phần giữ vững an ninh quốc gia,
phục vụ chính sách mở cửa, phát triển kinh tế, xây dựng đất nước, thực hiện tốt

nhiệm vụ chính trị của mỗi lực lượng. Vào ngày 16/09/2002 Tổng cục Hải quan
và Bộ đội biên phòng tiếp tục ký kết quy chế phối hợp hoạt động, trong đó quy
định : "Quan hệ phối hợp giữa Hải quan và Bộ đội biên phòng là quan hệ phối
hợp, hiệp đồng giữa hai lực lượng chuyên ngành.........trong đó tập trung vào
nhiệm vụ phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới,
gian lận thương mại và xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh trái phép". Quy chế
cũng cụ thể hóa nội dung thông tin mà hai lực lượng trao đổi với nhau, phối hợp
hoạt động cụ thể trong đấu tranh chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa
qua biên giới, gian lận thương mại và giao trách nhiệm cho các cấp của từng
ngành trong tổ chức thực hiện.
- Với Tổng cục Cảnh sát - Bộ Công an:
Ngày 23/06/2003 Tổng cục Hải quan và Tổng cục Cảnh sát - Bộ Công an
triển khai ký kết và thực hiện quy chế phối hợp số 3012/QCPH/TCCS-TCHQ.
Sau khi triển khai sơ kết kết 5 năm thực hiện quy chế phối hợp số
3012/QCPH/TCCS-TCHQ, ngày 23/06/2003 nêu trên. Vào ngày 22/11/2007
Tổng cục Hải quan và Tổng cục Cảnh sát - Bộ Công an tiếp tục ký kết quy chế
phối hợp số 5341/QCPH/TCHQ-TCCS. Nội dung phối hợp là : "... trao đổi
thông tin và hỗ trợ lẫn nhau trong công tác phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn, điều
tra, xử lý đối với hoạt động buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên
giới, tiền tệ qua biên giới; gian lận thương mại, trốn thuế; buôn bán vận chuyển
trái phép các chất ma túy; buôn bán vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc; nhập
khẩu công nghệ, máy móc, thiết bị, phế thải hoặc không đảm bảo tiêu chuẩn bảo
vệ môi trường và các hành vi khác vi phạm pháp luật có liên quan đến công tác
hải quan (gọi chung là vi phạm và tội phạm). Lực lượng cảnh sát hỗ trợ cho lực
lượng hải quan trong công tác điều tra, xử lý các vi phạm pháp luật về hải quan.
Phối hợp thực hiện cưỡng chế hành chính để thu hồi nợ đọng thuế, truy tìm các
đối tượng không thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, bỏ trốn khỏi địa chỉ đăng ký kinh
doanh để chiếm đoạt tiền thuế" . Quy chế cũng thể hiện rõ cách thức phối hợp
hoạt động giữa hai lực lượng trong phạm vi địa bàn hoạt động Hải quan, ngoài
phạm vi địa bàn hoạt động Hải quan và phối hợp những việc cụ thể đồng thời

giao trách nhiệm cho các cấp của từng ngành trong tổ chức thực hiện.
Hiện tại Tổng cục Hải quan đang triển khai xây dựng quy chế phối hợp
công tác với Cục Quản lý thị trường - Bộ Thương mại, Phòng thương mại công
nghiệp Việt nam (VCCI). Ngoài ra, ngành Hải quan còn thường xuyên phối hợp
trao đổi thông tin với các cơ quan, ngành khác như: Cơ quan thuế nội địa, cơ
quan quản lý sân bay, cảng biển, kiểm dịch, thú y,..Ban quản lý khu kinh tế cửa
khẩu, khu Công nghiệp, khu chế xuất,….
* Phổ biến tuyên truyền pháp luật và cộng tác, phối hợp với cộng đồng
doanh nghiệp
Đây là một trong những điểm mới trong hoạt động cải cách thủ tục hành
chính của ngành Hải quan hiện nay, mối quan hệ này đã chuyển biến rất nhanh,
rõ từ “Cơ quan quản lý nhà nước với đối tượng quản lý” sang mối quan hệ
“Phối hợp, hợp tác để nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước, góp phần
xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh tạo điều kiện thuận lợi cho doanh
nghiệp làm ăn chân chính”. Một trong những nội dung cơ bản của công tác phối
hợp là trao đổi các thông tin phục vụ công tác thực thi bảo hộ quyền ở hữu trí
tuệ, chống hàng giả, chống buôn lậu và gian lận thương mại, đặc biệt là gian lận
thương mại qua giá với những mặt hàng nhạy cảm như: ô tô, kính xây dựng,...
hoạt động phối hợp với hiệp hội, cộng đồng doanh nghiệp đã thu được một số
kết quả tích cực nhất định.
Hiện tại, định kỳ hàng năm ngành Hải quan phối hợp với Phòng Thương
mại và công nghiệp Việt nam tổ chức đối thoại với cộng đồng doanh nghiệp nội
dung chủ yếu là giải đáp, tháo gỡ vướng mắc trong quá trình làm thủ tục Hải
quan đồng thời phổ biến, tuyên truyền về pháp luật Hải quan cũng như kêu gọi
ý thức tự giác tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp. Trên Website của Tổng cục
Hải quan và một số Hải quan địa phương đã hệ thống hóa các văn bản quy
phạm pháp luật, quy trình thủ tục Hải quan; Hướng dẫn, giải đáp, trả lời vướng
mắc; tiếp nhận đơn thư phản ánh, tố giác các hành vi phạm pháp pháp luật,...
* Hợp tác quốc tế trong đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại
Thời gian vừa qua, Hải quan Việt Nam đã phát triển và mở rộng mối quan

hệ hợp tác với Hải quan các nước, vùng lãnh thổ thông qua việc ký kết, thực
hiện các thoả thuận hợp tác song phương (Hải quan Trung Quốc, Hải quan Hàn
Quốc, Hải quan Anh, Hải quan Lào,...) và hợp tác đa phương với Hải quan các
nước trong khối ASEAN, APEC, ASEM,... Một trong những nội dung phối hợp
quan trọng là trao đổi các thông tin nghiệp vụ phục vụ công tác đấu tranh chống
buôn lậu, gian lận thương mại và hỗ trợ xác minh vụ việc khi cần thiết.
Hiện tại, Hải quan Việt nam là thành viên của Văn phòng tình báo khu
vực Châu á - Thái Bình Dương (RILO A/P), đơn vị được giao nhiệm vụ đầu mối
là Cục Điều tra chống buôn lậu. Theo cơ chế hoạt động của Văn phòng thì đầu
mối của Hải quan các nước chủ động trao đổi thông tin nghiệp vụ (Thông tin
tình báo) với nhau hoặc do RILO A/P chủ trì điều phối, nội dung chủ yếu như
sau:
- Thông tin về các lô hàng có nghi vấn vi phạm pháp luật và tuyến đường
di chuyển của lô hàng đó; cảnh báo về các phương thức thủ đoạn buôn lậu, gian
lận thương mại mới xuất hiện cho Hải quan các nước trong khu vực.
- Thông tin chuyển giao trong khuôn khổ các chương trình hợp tác mang
tính chuyên đề về chống buôn bán, vận chuyển rải thác, các chất gây nguy hại
tới môi trường; bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ,..... về một ngành hàng hoặc một
loại hàng hóa nhạy cảm trong từng thời điểm, giai đoạn. Các hoạt động phối
hợp mang tính khu vực và quốc tế được tổ chức thành các Dự án, hoạt động chủ
yếu là tiếp nhận, xử lý, chuyển giao và phản hồi kết quả xử lý các thông tin tình
báo đó.
2.2. Khái quát tình hình buôn lậu, gian lận thương mại trong thời kỳ mở
cửa nền kinh tế và phát triển kinh tế thị trường
2.2.1. Tình hình buôn lậu
* Trên tuyến biên giới đường bộ
- Tuyến biên giới phía Bắc (Việt Nam - Trung Quốc)
Theo Hiệp định biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc, ký ngày 30
tháng 12 năm 2008 thì chiều dài đường biên giới phía Bắc nước ta là 1.306 km
qua 6 tỉnh: Lạng Sơn, Quảng Ninh, Cao Bằng, Hà Giang, Điện Biên, Lào Cai

tiếp giáp với hai tỉnh Quảng Tây và Vân Nam của Trung Quốc. Các năm gần
đây quan hệ thương mại giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc ngày càng phát
triển và gia tăng. Hiện tại, Trung Quốc đã trở thành bạn hàng thương mại hàng
đầu của Việt Nam, năm 2007 tổng kim ngạch hai chiều là 15,85 tỷ USD, tăng
52,18% so với cùng kỳ 2006. Ở các xã giáp biên hầu như 100% số hộ có quan
hệ qua lại, đi chợ và mua bán trao đổi hàng hóa qua biên giới.
Qua theo dõi chính sách biên mậu của Trung Quốc đối với Việt Nam thấy
chinh sách biên mậu của Trung Quốc có thể điều tiết việc xuất nhập hàng hóa
qua từng địa bàn, từng cửa khẩu trong từng thời gian, cả về hạn ngạch, chính
sách thuế, trị giá hàng hóa xuất nhập khẩu, Hiện tại chính sách của Trung Quốc
là hạn chế khai thác các khoáng sản trong nội địa đồng thời tranh thủ thu hút
nguyên liệu thô của ta, đặc biệt là các loại quặng măng gan, sắt, ti tan,.. khi cần
thu hút để nhập hàng nào thì các doanh nghiệp Trung Quốc tăng giá cao, khi
được giá các doanh nghiệp Việt Nam gom nhiều hàng đến tập kết tại cửa khẩu
thì lại điều chỉnh giá xuống thấp đột ngột để ép giá đôi khi ngừng nhập, thường
xảy ra ở nhóm hàng nông sản gây thiệt hại cho các doanh nghiệp và nông dân
Việt Nam. Những hàng hóa mà phía Trung Quốc khuyến khích xuất khẩu
thường tập trung nhiều hàng tại các kho khu vực cửa khẩu khi có điều kiện thì
xuất ồ ạt qua biên giới.
Tình hình buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới diễn ra
phức tạp ở địa bàn các tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, Lào Cai, Cao Bằng, Hà
Giang.
+ Hàng nhập lậu : Chủ yếu là mặt hàng như vải may mặc; bánh kẹo; giầy
dép; bát sứ; cốc thuỷ tinh; hàng tạp hoá, hàng điện tử; phân bón gia súc, gia
cầm và các sản phẩm từ gia súc, gia cầm; lá thuốc lá đã sấy khô chưa tách cọng;
đồ chơi trẻ em cấm lưu thông, pháo, mũ bảo hiểm, rau quả, thực phẩm...hàng
lậu được thu gom ngoài địa bàn kiểm soát hải quan, xé lẻ và tổ chức cho đội
ngũ cửu vạn hoặc thuê cư dân biên giới vận chuyển qua biên giới vào ban đêm,
đồng thời thuê đầu gấu, nghiện hút áp tải bảo vệ, sau đó tập kết và tiếp tục được
vận chuyển sâu vào nội địa bằng đường bộ và đường sắt để tiêu thụ.

+ Hàng xuất lậu : Chủ yếu là động vật hoang dã, quặng, gỗ quý hiếm như
gỗ Sưa, Trắc, Cẩm Lai, Giáng Hương,...
Năm 2005, Cục Hải quan Cao Bằng bắt giữ, xử lý 101 vụ nhập lậu lá
thuốc lá, tịch số lượng 13.237 kg. Năm 2006, Cục Hải quan Quảng Ninh phát
hiện bắt giữ được bắt giữ, xử lý 34 vụ đối với gia súc, gia cầm và các sản phẩm
từ gia súc, gia cầm, thu giữ và tiêu huỷ 10.678 kg Gà sống và 268.600 quả trứng
gia cầm; Cục Hải quan Lạng Sơn bắt giữ được 18 vụ gồm: 4.450 kg Gà sống,
1.800 kg thịt lợn, 80 kg thịt vịt, 25.880 quả trứng, 80 kg thịt vịt.
Theo báo cáo tổng hợp của Cục Hải quan 6 tỉnh biên giới, từ năm 2002
đến nay đã phát hiện, bắt giữ 5555 vụ, trị giá vi phạm 133, 3 tỷ đồng, tang vật
tịch thu gồm có 11.173 kg pháo nổ, 65.399 kg gia cầm, 544.203 quả trứng
gà,.....
- Tuyến biên giới miền Trung (Việt Nam - Lào)
Đường biên giới giữa Việt Nam và Lào có chiều dài 2.067 km, đi qua
chín tỉnh. Địa hình khu vực biên giới chủ yếu là rừng núi hiểm trở, đi lại khó
khăn, dân cư phần lớn là các dân tộc ít người, trình độ dân trí thấp, đo đó điểm
nóng về buôn lậu nổi lên vẫn là nơi có trục đường, cửa khẩu và đường mòn, tiểu
ngạch qua biên giới, nhất là tại các khu vực cửa khẩu: Cửa khẩu Nậm Cắm, Cửa
khẩu Ta Đo và Cửa khẩu Mỹ Lý thuộc tỉnh Nghệ An, khu vực Cửa khẩu Lao
Bảo thuộc tỉnh Quảng Trị, Cửa khẩu Cầu Treo thuộc tỉnh Hà Tĩnh. So với biên
giới phía bắc, hoạt động buôn lậu khu vực này cũng diễn ra không kém phần
phức tạp, nghiêm trọng. Đối tượng buôn lậu hoạt động trên tuyến này không đa
dạng như tuyến biên giới Việt nam - Trung Quốc mà chủ yếu là các đối tượng
chuyên nghiệp, một số doanh nghiệp, lái xe quá cảnh,...
Do đặc thù về địa hình nên các đối tượng buôn lậu thường vận chuyển
hàng hóa vào Việt nam thông qua những đường dây bí mật hoặc xé lẻ và thuê
cửu vạn gùi cõng hàng hóa qua đường rừng để trốn tránh các trạm kiểm soát của
các lực lượng chức năng hoặc gia cố hàng hóa trên các phương tiện chở khách,
chở hàng hóa cồng kềnh, khó kiểm tra như gỗ, than,...; hoặc thuê đồng bào dân
tộc ít người dùng xe thô sơ kéo qua cửa khẩu. Trên tuyến sông biên giới Sê Pôn

(Quảng Trị), các đối tượng buôn lậu sử dụng thuyền nhỏ, cơ động chia nhỏ hàng
để chuyên chở hàng nhập lậu vào khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao bảo.
Các mặt hàng nhập lậu chủ yếu là: Hàng tiêu dùng do Thái Lan, Nhật,
Singapore,,. sản xuất như: Thuốc lá, đường kính, sữa hộp, gỗ, rượu ngoại, bia,
tân dược, quần áp may sẵn nước giải khát redbull. mỳ chính, gạo nếp, đồ dùng
điện, điện tử,..
Và đặc biệt là lợi dụng chính sách ưu đãi miễn thuế nhập khẩu mà Chính
phủ dành cho Khu Kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo, các đối tượng buôn lậu
đã thuê chứng thư nhân dân và địa chỉ của những công dân sống trong Khu
Kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo và mua hàng trong Khu Kinh tế thương
mại đặc biệt Lao Bảo không phải chịu thuế sau đó tập kết, tìm cách vận chuyển
lậu vào nội địa tiêu thụ, thu lợi bất chính. Hàng hoá chủ yếu là đồ điện tử, máy
điều hoà nhiệt độ, rượu ngoại, mỹ phẩm… (chỉ tính riêng trong năm 2007, tổng
số máy điều hoà nhiệt độ được nhập miễn thuế vào Khu Kinh tế thương mại đặc
biệt Lao Bảo là 26.534 bộ, trị giá gần 8 triệu USD).
Cũng tại Khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo: Theo Quyết định
11/2005/QĐ-TTg ngày 12/01/2005 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế
Khu Kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo và Thông tư 06/2005/TT-BCA ngày
24/06/2005 hướng dẫn đăng ký, quản lý phương tiện giao thông cơ giới đường
bộ trong Khu Kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo, một số tổ chức, cá nhân đầu
tư sản xuất kinh doanh tại Khu Kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo được phép
nhập khẩu xe ôtô miễn thuế để sử dụng trong Khu Kinh tế thương mại đặc biệt
Lao Bảo. Lợi dụng quy định này một số doanh nghiệp đã nhập khẩu và đăng ký
sử dụng với số lượng lớn, sau đó bán vào thị trường nội địa để trốn thuế với thủ
đoạn lập một hợp đồng tài chính là thuê xe. Điển hình là doanh nghiệp Kim sơn
và Minh Hưng nhập 60 xe ôtô Nhật theo diện miễn thuế để phục vụ các Doanh
nghiệp hoạt động trong khu kinh tế Lao Bảo, nhưng bán cho các doanh nghiệp
và cá nhân bên ngoài khu kinh tế nhằm trốn thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc
biệt và thuế VAT.
Ngoài ra, xuất hiện các mặt hàng do Việt Nam sản xuất như bia, sữa, xà

phòng, dầu ăn là những mặt hàng đã làm thủ tục nhập vào Khu Kinh tế thương
mại đặc biệt Lao Bảo sau đó quay vòng trở lại thị trường nội địa để gian lận trốn
thuế giá trị gia tăng; một số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh tại khu kinh tế
thương mại đặc biệt Lao Bảo để mua hoá đơn giá trị gia tăng rồi xuất khống hoá
đơn cho các doanh nghiệp bên ngoài để khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia tăng.
Tuyến biên giới miền Trung cũng là điểm nóng về tình trạng nhập lậu
thuốc lá ngoại, đặc biệt là Quảng Trị. Chỉ tính riêng từ năm 2000 đến nay, Cục
Hải quan tỉnh Quảng Trị đã đấu tranh, phát hiện 12.450 vụ, trị giá 106 tỷ đồng;
trong đó năm 2007 phát hiện 1.126, trị giá 13 tỷ đồng, 8 tháng đầu năm 2008
phát hiện 1.023 vụ, trị giá 11 tỷ đồng.
- Tuyến biên giới Tây Nam (Việt Nam - Campuchia)
Biên giới Tây Nam nước ta tiếp giáp với CamPuChia có đường biên giới
dài 1.137km đi qua chín tỉnh. Địa hình khu vực này bằng phẳng có hàng trăm
đường mòn, kênh rạch đi qua lại biên giới thuận lợi cho nên hoạt động buôn lậu
diễn ra ở khắp các địa bàn và liên tục sôi động. Địa bàn trọng điểm các tỉnh An
Giang, Tây Ninh, Long An (Khu Kinh tế cửa khẩu Mộc Bài, cửa khẩu Xa Mát,
hai cánh gà cửa khẩu Cầu Tà Chót, Tân Phú thuộc tỉnh Tây Ninh; khu vực xã Tà
Nu, Bình Hiệp, Bình Tân, Thuận Bình, Tân Hiệp thuộc tỉnh Long An; thị xã
Châu Đốc, xã An Phú, khu vực Vĩnh Ngươn giáp Gò Tà Mâu, khu vực Tịnh
Biên thuộc tỉnh An giang...).
Phương thức, thủ đoạn phổ biến: Lợi dụng đêm tối, những giờ cao điểm
đưa hàng qua biên giới, nhanh chóng cất giấu vào các nhà dân ở ven biên giới,
bến xe, các khu thương mại, chợ.. sau đó tìm cách đưa hàng vào nội địa tiêu thụ.
Các đối tượng được trang bị máy thông tin, liên lạc, để theo dõi lực lượng chức
năng và điều hành buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới. Đối
tượng "đầu nậu" không trực tiếp tham gia việc vận chuyển hàng lậu mà thường
khoán gọn cho người làm thuê, người vận chuyển, gắn trách nhiệm của họ bằng
cách đặt cọc số tiền tương ứng với trị giá số hàng mới cho vận chuyển. Vì vậy,
khi bị bắt giữ thì một số đối tượng chống trả quyết liệt hoặc hô hoán kích động
người dân để cướp lại hàng. Tại Khu Kinh tế cửa khẩu Mộc Bài (Tây Ninh) với

chính sách miễn thuế 500.000 đ/người/ngày đối với khách du lịch vào Khu
thương mại đã bị các đối tượng buôn lậu lợi dụng ngày càng phổ biến và công
khai.
Hàng nhập lậu chủ yếu vẫn là điện thoại di động, mỹ phẩm, quần áo cũ,
vải khúc các loại, đường cát và thuốc lá ngoại,….Năm 2006, Hải quan các tỉnh
biên giới Tây nam đã bắt giữ được 122.568 gói thuốc lá nhập lậu, 92.989 kg
đường kính trắng.
Hàng xuất lậu tập trung vào ngoại tệ, vàng và xăng dầu, xe đạp điện…
Năm 2006 Cục Hải quan tỉnh An Giang đã phát hiện 02 vụ thu giữ 98.069 USD
và 04 kg vàng.
Ngoài đặc thù về tình hình buôn lậu tại từng khu vực biên giới phía Bắc,
miền Trung và Tây Nam thì trên toàn tuyến biên giới đường bộ còn xảy ra tình
trạng lợi dụng chính sách theo Quyết định 254/QĐ-TTg, ngày 07 tháng 11 năm
2006 của Thủ Tướng Chính phủ cho phép cư dân biên giới được mua bán, trao
đổi hàng hoá dưới 2.000.000 VNĐ/1 người/1 ngày, các đối tượng buôn lậu đã
lợi dụng bằng hình thức: Thuê cư dân biên giới mua hàng theo tiêu chuẩn sau đó
tập kết và vận chuyển sâu vào trong nội địa để tiêu thụ bằng cách: gửi khách du
lịch, thuê thương binh, người tàn tật dùng xe ba gác, xe tự tạo để vận chuyển
hoặc thuê các đầu nậu chuyên vận chuyển từ biên giới vào sâu trong nội địa
theo phương thức giao liên theo tuyến, theo trạm nên các cơ quan chức năng rất
khó phát hiện, bắt giữ.
* Tuyến hàng không - bưu điện
Tại cửa khẩu sân bay, lưu lượng hành khách xuất nhập cảnh qua sân bay
Quốc tế Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng đều cao và nhiều tuyến quốc tế mới
mở cửa. Hành khách xuất nhập cảnh đa dạng và phức tạp, trên nhiều tuyến bay
và các hãng hàng không khác nhau.
Địa bàn trọng điểm: Khu vực làm thủ tục xuất cảnh, nhập cảnh, sân đỗ
máy bay; khu vực làm thủ tục xuất nhập khẩu hàng hoá tại sân bay quốc tế Tân
Sơn Nhất, sân bay quốc tế Nội Bài và sân bay quốc tế Đà Nẵng; kho hàng TCS -
TP.Hồ Chí Minh, chuyển phát nhanh Fedex, DHL.

Các đối tượng lợi dụng quy trình thủ tục hải quan để gian lận, trốn thuế
như: Khai báo sai về mặt hàng, mã số, số lượng, chủng loại; khai báo nhập khẩu
qua loại hình phi mậu dịch, hàng gửi chậm về lưu ở kho để tìm cách rút hàng ra,
nếu không được thì xin tái xuất hoặc vận chuyển theo hình thức hành lý xách
tay theo người, qua tổ lái, tiếp viên và hướng dẫn viên các đoàn du lịch, đặc biệt
là thời gian vừa qua nổi lên các xu hướng:
- Sử dụng hộ chiếu ngoại giao để buôn lậu: Lợi dụng chế độ ưu đãi miễn
kiểm tra đối với hành lý của viên chức ngoại giao để mang hàng hóa vào nội địa
tiêu thụ kiếm lời, không khai báo hải quan.
- Lợi dụng về chính sách quà tặng để nhập tân dược trái quy định và các
loại hàng hoá có giá trị cao như: ngoại tệ, vàng, kim loại quý, thuốc lá ngoại,
rượu ngoại, Điển hình, ngày 08/04/2008 tại Chi cục Hải quan sân bay Tân Sơn
Nhất - Cục Hải quan Thành phố Hồ Chí Minh bắt giữ vụ vận chuyển 63.000
USD không khai báo hải quan và không có giấy phép vận chuyển ngoại tệ của
Ngân hàng;
- Gần đây xuất hiện phương thức, thủ đoạn vi phạm mới là một số doanh
nghiệp nhập khẩu phần mềm khai báo giá nhập khẩu với trị giá rất lớn, có dấu
hiệu chuyển tiền ra nước ngoài.
Hàng hoá nhập lậu chủ yếu: Các loại hàng hoá có giá trị cao, mỹ phẩm,
điện thoại di động, máy ảnh kỹ thuật số, máy vi tính xách tay, màn hình thu nhỏ,
linh kiện điện tử cao cấp, vải, quần áo may sẵn cao cấp, thuốc lá ngoại, rượu
ngoại...
Hàng hóa xuất lậu chủ yếu: Ngoại tệ, đá quý, cổ vật,….
* Tuyến biển và cảng biển
Khu vực biên giới biển của Việt Nam bao gồm các xã, phường bờ biển,
các đảo và vùng nội thuỷ, vùng lãnh hải, được trải dài từ Móng Cái, Quảng
Ninh đến Hà Tiên, Kiên Giang với 3260 km chiều dài bờ biển. Bờ biển nước ta
có cấu tạo địa hình đa dạng và phức tạp: Một số nơi bờ biển lồi lõm, khúc
khuỷu, có những dải đá ngầm ăn sâu tạo ra các vũng, vịnh. Nhiều nơi bờ biển
tương đối bằng phẳng, nhiều sông lạch chảy ra biển, tạo nên những cửa sông,

cửa …; và nhiều cảng lớn như cảng Hải Phòng, Bến Thủy, Đà Nẵng, Sài Gòn ...
có nơi có nhiều bến bãi, vịnh, đê kè chắn sóng. Những đặc điểm trên rất thuận
lợi cho việc qua lại và neo đậu của các tàu thuyền; đồng thời, cũng là rất thuận
lợi cho hoạt động buôn lậu. Nước ta có chung đường biên giới trên biển với các
nước Trung Quốc, Malaysia, Philipin, Thái Lan, Campuchia. Vùng biển có biên
giới trên biển tiếp giáp với các nước này có tài nguyên dầu khí lớn, nguồn hải
sản phong phú, có các tuyến giao thông quốc gia và quốc tế, kéo theo hoạt động
sản xuất, buôn bán, đi lại trên biển nhộn nhịp. Các đối tượng buôn lậu cũng triệt
để lợi dụng các yếu tố này để trà trộn hoạt động, nên việc kiểm soát rất khó
khăn. Đa số dân cư khu vực biên giới biển cư trú tập trung đông đúc tại các khu
vực cửa sông, cửa lạch, bến cảng và phần lớn sống bằng nghề đánh bắt hải sản,
số còn lại sinh sống bằng nghề nông, tiểu thủ công nghiệp, buôn bán nhỏ,
….thời gian gần đây diễn biến khí hậu thất thường và ngày càng khắc nghiệt,
nguồn tài nguyên biển cạn kiệt dần trong khi đó khả năng của các phương tiện
đánh bắt xa bờ kém, nên đời sống của nhân dân gặp khó khăn. .. một bộ phận
dân cư bỏ nghề cá, cùng nhau góp vốn, đóng tàu có công suất lớn để đi buôn
hoặc dùng tàu đánh cá để chở hàng lậu cho các đầu nậu từ các phương tiện lớn
ngoài biển vào.
Cảng biển luôn được đánh giá là cửa ngõ, đầu mối cho hoạt động xuất
nhập khẩu của một quốc gia, cho thông thương nội địa và du lịch. Đặc điểm địa
lý biên giới biển của nước ta là điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng hệ thống
cảng biển và phát triển ngành vận tải biển. Trong những năm gần đây tại các
cảng biển, hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá diễn ra rất sôi động, lượng hàng
hoá xuất nhập khẩu hàng năm chiếm đến 80% lượng hàng xuất nhập khẩu trong
cả nước. Tập trung chủ yếu vào một số cảng chính như: Thành phố Hồ Chí
Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Quảng Ninh.
Tình hình buôn lậu trên tuyến biển, cảng biển các năm qua diễn ra phổ
biến, phát triển rất phức tạp. Số lượng các vụ buôn lậu ngày càng tăng, tính chất
mức độ ngày càng nghiêm trọng:
- Về tình hình buôn lậu trên biển: Số chủ tàu lớn tham gia buôn lậu không

còn nhiều, nhưng lại tăng các vụ vận chuyển nhỏ lẻ, các tổ chức đường dây
buôn lậu trên biển với các phương thức thủ đoạn hoạt động ngày càng tinh vi và
táo bạo hơn. Các đầu nậu sử dụng các loại tàu thuyền lớn vận chuyển hàng lậu
từ nước ngoài về ngoài khơi, nơi mà tàu tuần tra của các lực lượng chức năng,
trong đó có Hải quan không tới được. Sau đó liên hệ với các thuyền nhỏ, thuyền
đánh cá, lợi dụng đêm tối, thời tiết xấu để sang mạn, vận chuyển vào các bãi
ngang, cửa sông. Do vậy, trị giá hàng hoá trên mỗi tàu bị bắt giữ trong những
năm gần đây chỉ khoảng từ 100 đến 200 triệu đồng, thậm chí có nhiều vụ còn ít
hơn. Thời gian qua, các đối tượng buôn lậu đã lợi dụng nhiều tàu, thuyền đánh
cá của các ngư dân (loại tàu, thuyền được trang bị để đánh bắt xa bờ) kết hợp
đánh cá với việc sang mạn hàng hoá từ các tàu lớn vào bờ. Bên cạnh đó các đầu
nậu còn tổ chức mạng lưới do thám để theo dõi hoạt động của các lực lượng
chống buôn lậu trên biển (Hải quan, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển), sử dụng
điện thoại di động, các thiết bị thông tin hàng hải hiện đại khác để thông báo
cho các tổ chức đường dây buôn lậu biết về sự di chuyển, hoạt động của các lực
lượng chức năng. Chúng tìm mọi cách lôi kéo, mua chuộc một số phần tử thoái
hoá, biến chất trong các lực lượng chống buôn lậu để tiếp tay, thậm chí "bảo kê"
cho các hoạt động buôn lậu; hoặc tung tin đánh lạc hướng; hoặc báo cho các tàu
hàng lậu tạm dừng hoặc lợi dụng thời tiết xấu liều lĩnh lao vào bờ trong đêm tối,
sử dụng nhiều người bốc dỡ hàng và có đủ các phương tiện vận chuyển về nơi
tập kết sâu trong các làng, xã ven bờ ..v.v.. Gần đây, các đầu nậu còn cho hoán
cải tàu để giả dạng tàu đánh cá hoặc các loại tàu chuyên dùng khác để che mắt
các cơ quan chức năng. Một số địa bàn trọng điểm về buôn lậu là Cửa Lò,
Quỳnh Lưu (Nghệ An), Lạch Trường (Thanh Hoá); Cửa Sót (Hà Tĩnh); Lý Hoà
(Quảng Bình); ... . Hàng hoá buôn lậu chủ yếu tại các địa bàn này là gạch men;
hàng điện tử, điện lạnh; phụ tùng ôtô đã qua sử dụng, vải; kính xây dựng phần
lớn có xuất xứ từ Trung Quốc, Hồng Kông, Nhật Bản .. .
Hiện tượng các thuyền viên Việt Nam làm việc trên các tàu biển hoạt
động trên tuyến đường biển quốc tế, khi nhập cảnh về Việt Nam có mang theo
hàng hoá thuộc diện cấm nhập khẩu có chiều hướng tái phát và gia tăng mạnh.

Việc gia cố các hầm hàng, tạo các hốc bằng những vách ngăn để đựng hàng lậu
trên các tàu lại tái diễn. Tháng 9/2005, Cục Điều tra chống buôn lậu đã phát
hiện và phối hợp với Cục Hải quan Hải Phòng và lực lượng Cảnh sát biển tiến
hành khám xét tầu Vân Đồn thuộc Công ty vận tải biển và xuất nhập khẩu
Quảng Ninh khi tầu này hành trình từ Nhật Bản về Hải Phòng, kết quả phát hiện
thuyền viên trên tầu đã nhập lậu một lượng lớn hàng hoá tiêu dùng đã qua sử
dụng, trị giá vi phạm trên 600 triệu đồng.
Trong những năm qua tình hình xuất lậu hàng hóa qua tuyến đường biển
cũng diễn ra hết sức phức tạp. Trọng điểm là các khu vực vùng biển Đông Bắc
và miền Trung, đặc biệt nghiêm trọng là tình hình xuất lậu than, quặng thô
(quặng sắt, ti tan,..), gỗ quý (được thu gom qua khai thác trái phép từ các rừng
thuộc tỉnh Quảng Bình, biên giới Việt Lào),... phương thức thủ đoạn chủ yếu là
gian lận số lượng vận chuyển thực chất vượt rất nhiều so với số lượng ghi trong
các chứng từ, hoá đơn hoặc khi bị kiểm tra thì khai vận chuyển trong nội địa,
nhưng thực chất là trên hành trình khi gần phần lãnh hải giáp ranh thì đổi hướng
vận chuyển trái phép sang Trung Quốc. Trên đường về, chủ tàu thường kết hợp
chở về các mặt hàng như: gạch men các loại, bánh kẹo, cốc chén, bát đĩa, quần
áo, vải may mặc... Các tàu này không đi qua cửa khẩu để làm thủ tục mà đi theo
tuyến xa bờ, nên việc phát hiện và đấu tranh rất khó khăn. Ngoài ra, tình trạng
vận chuyển, buôn bán thuốc lá ngoại, các đối tượng sử dụng tàu cao tốc chuyển
hàng từ biên giới vào trong nội địa để tiêu thụ. Khi bị các lực lượng chức năng
bắt giữ, các đối tượng sử dụng vũ khí chống trả quyết liệt. Năm 2007, Cục Điều
tra chống buôn lậu phát hiện và xử lý 17 vụ vận chuyển trái phép than, quặng
trái phép không có nguồn gốc, trị giá hơn 4,9 tỷ đồng: Điển hình là vụ xuất lậu
900 tấn quặng sắt của công ty trách nhiệm hữu hạn tổng hợp Vĩnh Nam; vụ xuất
lậu hơn 200 tấn than cám không có nguồn gốc hợp pháp [25, tr 75]. Ngày
10/01/2008, Cục Hải quan Quảng Ninh đã phát hiện bắt giữ tầu biển số QN5569
của công ty INDEVICO có hành vi gian lận chủng loại 1.048 tấn than xuất khẩu
dẫn đến thiếu tiền thuế, kết quả đã xử lý truy thu 113 triệu đồng tiền thuế và
phạt vi phạm hành chính 11 triệu đồng; ngày 1/04/2008 Cục Điều tra chống

buôn lậu phối hợp với Cục Hải quan Quảng Ninh bắt giữ tàu Hoàng Triệu 16
vận chuyển 816 tấn quặng Inmenite không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu và không đủ
giấy tờ hợp lệ, trong địa bàn hoạt động của hải quan, trị giá hàng vi phạm ước
tính 900 triệu đồng [25, tr 90].
- Tại các cảng biển: Tình hình buôn lậu trong những năm gần đây cũng
có chiều hướng gia tăng về số vụ cũng như giá trị hàng hoá vi phạm.
Một số doanh nghiệp đã lợi dụng sự tạo thuận lợi, thông thoáng trong
việc làm thủ tục hải quan tại các cảng biển thông qua việc áp dụng phương pháp
quản lý mới - phương pháp quản lý rủi ro (như áp dụng chế độ miễn kiểm tra
hoặc kiểm tra theo tỷ lệ hoặc việc tự khai báo và tự chịu trách nhiệm về khai
báo của doanh nghiệp) tạo dựng hồ sơ, chứng từ giả, khai báo sai trị giá hàng
nhập khẩu để trốn thuế. Các phương thức, thủ đoạn điển hình như: khai sai về
tên hàng, chủng loại, số lượng, chất lượng, xuất xứ hàng hoá; gian lận giá, chính
sách mặt hàng; nhập khẩu hàng thừa so với khai báo, không khai báo; nhập
khẩu hàng hoá không đạt chất lượng theo quy định; xuất khẩu khai báo khống,
không đúng mặt hàng. Đặc biệt, Việt Nam có vị trí thuận lợi trong việc thông
thương với các cảng trong khu vực nên lượng hàng trung chuyển rất lớn, thông
qua các loại hình như: chuyển khẩu, tạm nhập - tái xuất, gửi hàng ngoại quan để
lợi dụng vận chuyển hàng cấm: Năm 2007, Cục Điều tra chống buôn lậu phối
hợp với Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và chức vụ (PC15) thuộc
Công an thành phố Hà Nội và Công an tỉnh Vĩnh Phúc kiểm tra 15 container
khai là hạt nhựa HDPE có thuế suất 0% của Công ty trách nhiệm hữu hạn Hà
Văn, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng phát hiện trong 8/15 container là các
loại phụ tùng, linh kiện và máy tổng thành ôtô đã qua sử dụng do Hàn Quốc sản
xuất, trị giá lô hàng ước tính hơn 3,6 tỷ đồng [25, tr 74]. Tháng 01/2008, Cục
Điều tra chống buôn lậu phối hợp với đội đặc nhiệm kiểm lâm, chi cục quản lý
thị trường thành phố Hồ Chí Minh bắt giữ 2 container khai là bột củ mỳ của
Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Thiện, địa chỉ 97 Lê Quý Đôn, thị xã Đồng
xoài, Bình Phước, kiểm tra thực tế là 38 m
3

gỗ sơn huyết không có giấy tờ
chứng minh nguồn gốc, không khai báo hải quan, trị giá hàng hoá ước tính 1 tỷ
đồng. Tháng 04/2008 Cục Điều tra chống buôn lậu phối hợp với Cục Hải quan
thành phố Hồ Chí Minh kiểm tra 21 container linh kiện xe ôtô tải nhập khẩu của
Công ty trách nhiệm hữu hạn Sản xuất ôtô IKD Việt Nam, với hành vi vi phạm
là không khai báo, áp mã sai, trị giá hàng hoá vi phạm ước tính 1 tỷ đồng [25, tr
90].
Tình trạng doanh nghiệp lợi dụng chính sách của nhà nước về khuyến
khích đầu tư nước ngoài, ưu đãi về thuế đối với nhập khẩu nguyên liệu để sản
xuất trong nước… gian lận, trốn thuế diễn ra qua tuyến cảng biển hiện nay cũng
khá phổ biến và có xu hướng gia tăng cả về số vụ và trị giá trốn thuế.
Đặc biệt, thời gian gần đây, một số doanh nghiệp đã lợi dụng việc thay đổi
cơ chế chính sách quản lý của Nhà nước để đáp ứng tiến trình hội nhập, trong
khi một số Bộ, Ngành chưa ban hành kịp thời các thông tư hướng dẫn hoặc
hướng dẫn nhưng không đồng bộ, không cụ thể, để nhập khẩu các loại hàng hóa
kém chất lượng hoặc vi phạm các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm (các
chế phẩm từ thịt bò bò điên, trứng, gia cầm, thịt lợn Trung Quốc…), hàng hóa
thuộc diện độc hại, phế thải công nghiệp, ... gây ảnh hưởng trực tiếp đến môi
trường và sức khoẻ cộng đồng. Năm 2006, Cục Điều tra chống buôn lậu đã phối
hợp Cục Hải quan Hải phòng và Cục cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và
chức vụ (C15) - Bộ Công an phát hiện khoảng 500 container do 9 doanh nghiệp
nhập khẩu, trị giá khoảng 50 tỷ đồng; Cục Điều tra chống buôn lậu đã phối hợp
Cục Hải quan Hải phòng kiểm tra 46 container hàng thiết bị văn phòng đã qua
sử dụng nhập khẩu và tồn đọng tại cảng Hải Phòng với trị giá vi phạm gần 5 tỷ
đồng, đây là các mặt hàng cấm nhập khẩu [7, tr 53]. Năm 2007, Cục Điều tra
chống buôn lậu phối hợp với Cục Hải quan thành phố Hồ Chí Minh khám 5
container hàng cấm nhập khẩu của Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại và
dịch vụ giao nhận Q.Đ, phát hiện hàng hoá là xe máy, hàng điện lạnh đã qua sử
dụng thuộc danh mục mặt hàng Nhà nước cấm nhập khẩu, trị giá gần 2 tỷ đồng;
Cục Điều tra chống buôn lậu phát hiện công ty Trường Long nhập khẩu gần 40

tấn nhựa phế liệu đã qua sử dụng vi phạm quyết định 12/2006/QĐ-BTNMT của
Bộ Tài nguyên môi trường. Ngày 31/05/2007, Cục Hải quan Thành phố Hồ Chí
Minh đã kiểm tra lô hàng nhập khẩu của Công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất,
thương mại Thiên Việt, toàn bộ là thép phế liệu trị giá khoảng 1,1 tỷ đồng thuộc
danh mục hàng cấm nhập khẩu. Toàn bộ lô hàng đã buộc tái xuất ra khỏi lãnh
thổ Việt Nam [25, tr 74 - 75].
Mặt hàng nhập lậu chủ yếu tại các cảng biển là: Gỗ, nguyên phụ liệu may
mặc, giày dép, hàng kim khí điện máy, linh kiện điện tử, phụ tùng ôtô, các loại
máy móc và hàng điện tử đã qua sử dụng, ôtô đã qua sử dụng, máy in công
nghiệp, máy công cụ, kính xây dựng, giấy, thép và các sản phẩm của thép, thép
phế liệu, thiết bị vệ sinh, gạch lót, đồ gốm sứ, đồ trang trí nội thất, phế liệu…
hàng nông ngư (cũ) có xuất xứ Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc các mặt hàng
thuộc diện cấm nhập khẩu hoặc mặt hàng thuộc quản lý chuyên ngành,...
2.2.2. Tình hình gian lận thương mại
Cùng với tình hình buôn lậu như đã trình ở trên, hiện nay Ngành Hải quan
cũng phải đối mặt với nhiều hình thức gian lận thương mại:
* Lợi dụng chính sách thuế hiện hành của Nhà nước
Chính sách thuế hiện nay vừa đánh thuế theo tính chất mặt hàng, vừa đánh
thuế theo mục đích sử dụng mà chênh lệch thuế suất rất cao, có nhiều mặt hàng
nếu thực hiện hành vi gian lận trót lọt thì coi như được miễn thuế (thuế suất 0%)
hoặc giảm số thuế phải nộp mà thực tế mặt hàng đó phải chịu thuế suất cao hơn.
Thủ đoạn gian lận của loại hình này thông thường đối với các mặt hàng như: xe
ô tô du lịch 12 chỗ ngồi được “chế biến” thành xe cứu thương hoặc xe tải nhẹ;
xe ô tô có trọng tải thấp khai xe ô tô có trọng tải cao;… để được giảm hoặc
miễn thuế. Đặc biệt, hàng nguyên chiếc được tháo rời để hưởng thuế suất linh
kiện… Trong năm 2007, có một số mặt hàng không thuộc phải khai tờ khai trị
giá (ví dụ: hàng có thuế suất nhập khẩu = 0% như gỗ) thường bị các doanh
nghiệp khai báo giá tính thuế thấp, làm giảm thuế giá trị gia tăng phải nộp.
* Gian lận thông qua việc khai thấp trị giá hàng hoá
Trị giá tính thuế hàng hóa xuất nhập khẩu là một trong những yếu tố cơ

bản để xác định số thuế xuất khẩu, nhập khẩu (và các sắc thuế khác như: Tiêu
thụ đặc biệt, giá trị gia tăng ) mà doanh nghiệp phải nộp cho nhà nước khi làm
thủ tục Hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Hiện tại, việc xác định
trị giá tính thuế hàng hoá xuất nhập khẩu tuân thủ theo Hiệp định trị giá GATT
tức là căn cứ trên trị giá giao dịch, thực thanh toán của lô hàng (giá ghi trên hợp
đồng thương mại, hoá đơn thương mại, chứng từ ngân hàng,..) vì vậy một số
doanh nghiệp thông đồng với nước ngoài ghi giảm giá trên hợp đồng thương
mại để trốn thuế, phổ biến là các hình thức sau:
- Khai báo hàng cho tặng, không thanh toán, hàng hỗ trợ tiếp thị quảng
cáo, khuyến mại.
- Đánh đồng tên hàng nhưng thực chất chất lượng và phẩm cấp thương mại
của hàng hóa cao hơn so với khai báo.
- Phân bổ giá cho một lô hàng gồm nhiều loại hàng khác nhau: Khai cao
giá đối với hàng hóa có thuế suất thấp, khai thấp giá đối với hàng hóa có thuế
suất cao trong giá trị của lô hàng không đổi.
- Nhập khẩu thử một lượng nhỏ hàng hóa mới để thăm dò (thông thường
nhập qua đường hàng không hoặc chuyển phát nhanh), sau khi được Hải quan
chấp nhận trị giá khai báo thì ngay lập tức nhập khẩu ồ ạt số lượng lớn hàng hóa
cùng loại để hưởng chênh lệch thuế.
Đặc biệt trong loại hình nhập khẩu hàng hóa phi mậu dịch, với đặc thù loại
hình này là hàng hóa không cần hợp đồng mua bán, việc gian lận về giá tính
thuế diễn ra rất phức tạp. dễ xảy ra móc nối tiêu cực giữa cán bộ hải quan làm
thủ tục và doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng hình thức này để mua
gom hàng hóa hàng hóa tại nước ngoài, sau đó thành lập doanh nghiệp giả để
làm hợp đồng, hóa đơn để hạ thấp trị giá thực tế của hàng hóa.
Đối với các loại hàng hóa đã qua sử dụng có giá trị lớn, được phép nhập
khẩu như tô, máy móc thiết bị,... tình trạng gian lận qua giá cũng diễn ra hết sức
phức tạp, ngoài ra còn có hiện tượng một số doanh nghiệp cấu kết với nhau khai
báo giá giảm dần để gian lận vế thuế. hoặc móc nối với cơ quan giám định
nhằm sai lệch giá trị thực tế để trốn thuế, hợp lý hóa các thủ tục giấy tờ để xuất

khẩu, nhập khẩu.
Vụ việc điển hình trong công tác đấu tranh chống gian lận qua giá là năm
2005, Cục Điều tra chống buôn lậu đã tiến hành điều tra và phát hiện hàng loạt
doanh nghiệp nhập khẩu xe ôtô TOYOTA PRADO hạ thấp trị giá xe (down giá)
thông qua việc hợp thức hồ sơ, chứng từ để trốn thuế.
* Gian lận bằng thủ đoạn khai báo sai về số lượng, trọng lượng, tên hàng
hoá xuất nhập khẩu
Đây là hình thức gian lận khá phổ biến, lợi dụng sự sơ hở, thiếu sót trong
khâu kiểm tra, kiểm soát ở cửa khẩu do thiếu lực lượng, trang thiết bị có hạn
nên không thể cân, đo, đếm chi tiết. Đây là điểm yếu để các đối tượng khai giảm
về số lượng, trọng lượng hoặc thay đổi bao bì, nhãn mác, khai sai tên hàng hóa,
khai chung chung dẫn đến Hải quan áp mã hàng hóa (mã HS) sai dẫn đến thuế
suất sai và số thuế thực nộp ít hơn số thuế phải nộp. Nhiều trường hợp, doanh
nghiệp đồng loạt làm thủ tục Hải quan cho cùng một loại hàng hóa ở nhiều cửa
khẩu khác nhau (cùng một địa bàn hoặc khác địa bàn), Chi cục Hải quan nào áp

×