Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Hợp tác năng lượng giữa nga với trung quốc và nhật bản giai đoạn 2003 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.84 MB, 120 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ....................................................................................... 3
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................. 4
1. Lý do chọn đề tài............................................................................................................... 4
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................................ 5
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................................... 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 8
5. Phương pháp nghiên cứu................................................................................................... 8
6. Đóng góp của đề tài .......................................................................................................... 9
7. Bố cục đề tài ...................................................................................................................... 9
NỘI DUNG ............................................................................................................................ 10
CHƢƠNG 1. NHỮNG NHÂN TỐ THÚC ĐẨY SỰ HỢP TÁC NĂNG LƢỢNG GIỮA
NGA VỚI TRUNG QUỐC VÀ NHẬT BẢN GIAI ĐOẠN 2003-2016 ............................ 10
1.1. Khái quát quan hệ hợp tác năng lượng giữa Nga với Trung Quốc và Nhật Bản trước
năm 2003 ............................................................................................................................. 10
1.1.1. Hợp tác năng lượng Nga- Trung Quốc trước năm 2003 ....................................... 10
1.1.2. Hợp tác năng lượng Nga- Nhật Bản trước năm 2003............................................ 13
1.2. Bối cảnh quốc tế và khu vực Đông Bắc Á những năm đầu thế kỷ XXI ...................... 17
1.2.1. Bối cảnh quốc tế .................................................................................................... 17
1.2.2. Bối cảnh khu vực Đông Bắc Á .............................................................................. 18
1.3. Nhu cầu hợp tác năng lượng với nhau của Nga, Trung Quốc và Nhật Bản đầu thế kỷ
XXI...................................................................................................................................... 19
1.3.1. Đối với Nga ........................................................................................................... 19
1.3.2. Đối với Trung Quốc và Nhật Bản ......................................................................... 27
CHƢƠNG 2. HỢP TÁC NĂNG LƢỢNG GIỮA NGA VỚI TRUNG QUỐC VÀ NHẬT
BẢN GIAI ĐOẠN 2003-2016 .............................................................................................. 35
2.1. Hợp tác năng lượng Nga-Trung Quốc (2003-2016) .................................................... 35
2.1.1. Hợp tác trong xây dựng cơ sở hạ tầng ................................................................... 35
2.1.2. Hợp tác trong thương mại năng lượng .................................................................. 44
1



2.2. Hợp tác năng lượng Nga-Nhật Bản (2003-2016) ........................................................ 50
2.2.1. Hợp tác trong xây dựng cơ sở hạ tầng ................................................................... 50
2.2.2. Hợp tác trong thương mại năng lượng .................................................................. 65
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ SỰ HỢP TÁC NĂNG LƢỢNG GIỮA NGA
VỚI TRUNG QUỐC VÀ NHẬT BẢN GIAI ĐOẠN 2003-2016 ...................................... 71
3.1. Về kết quả hợp tác năng lượng giữa Nga với Trung Quốc và Nhật Bản ..................... 71
3.1.1. Kết quả hợp tác năng lượng Nga-Trung Quốc giai đoạn 2003-2016 .................... 71
3.1.2. Kết quả hợp tác năng lượng Nga-Nhật Bản giai đoạn 2003-2016 ........................ 74
3.2. Một số so sánh về sự hợp tác năng lượng Nga-Trung Quốc và Nga-Nhật Bản giai
đoạn 2003-2016 .................................................................................................................. 76
3.3. Tác động của sự hợp tác năng lượng giữa Nga với Trung Quốc và Nhật Bản ............ 79
3.3.1. Đối với Nga ........................................................................................................... 79
3.3.2. Đối với Trung Quốc và Nhật Bản ......................................................................... 83
3.3.3. Đối với an ninh năng lượng và quan hệ quốc tế.................................................... 87
3.4. Triển vọng hợp tác năng lượng Nga-Trung Quốc, Nga-Nhật Bản và hợp tác tay ba
Nga-Trung Quốc-Nhật Bản trong tương lai ........................................................................ 92
3.4.1. Triển vọng hợp tác năng lượng Nga-Trung Quốc ................................................. 92
3.4.2. Triển vọng hợp tác năng lượng Nga-Nhật Bản ..................................................... 94
3.4.3. Triển vọng hợp tác năng lượng tay ba Nga-Trung Quốc-Nhật Bản ..................... 97
KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 101
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 103
PHỤ LỤC .............................................................................. Error! Bookmark not defined.

2


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT


TÊN
VIẾT TẮT

NGHĨA TIẾNG
NƢỚC NGOÀI

NGHĨA TIẾNG VIỆT

1

ASEAN

Association of Southeast
Asian Nations

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

2

ANRE

Agency for Natural
Resources and Energy

Cơ quan Tài nguyên và Năng lượng
Nhật Bản

3


CNOOC

China National Offshore Oil

Công ty Dầu khí Ngoài khơi Quốc

Corporation

gia Trung Quốc

4

CNPC

China National Petroleum
Corporation

Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Trung
Quốc

5

EU

European Union

Liên minh châu Âu

6


FEPCO

Far East Petrochemical
Company

Công ty Hóa dầu Viễn Đông

7

JOGMEC

Japan Oil, Gas and Metals
National Corporation

Cơ quan tài nguyên dầu, khí và kim
loại quốc gia Nhật Bản

8

GECF

Gas Exporting Countries
Forum

Diễn đàn các nước Xuất khẩu khí
đốt

9

IEA


International Energy Agency

Cơ quan Năng lượng Quốc tế

10

METI

Ministry of Economy, Trade
and Industry

Bộ Kinh tế, Thương mại và Công
nghiệp Nhật Bản

11

NDRC

National Development and
Reform Commission

Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc
gia Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa

12

ONGC

Oil and Natural Gas

Corporation

Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Ấn Độ

13

SPIEF

St. Petersburg International
Economic Forum

Diễn đàn Kinh tế Quốc tế St.
Petersburg

UNESCO

The United Nations
Educational, Scientific and
Cultural Organization

Tổ chức Giáo dục, Khoa học và
Văn hóa của Liên hợp quốc

14

3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Nếu như thế kỷ XIX là thế kỷ của “ông hoàng” than đá thì bước sang thế kỷ XX, dầu
mỏ đã “soán ngôi” của than đá, trở thành nguồn nhiên liệu quan trọng không thể thiếu trong
đời sống con người. Và trong những năm đầu thế kỷ XXI “đánh dấu sự vươn lên ngoạn mục
của dầu mỏ và khí đốt khi đây là nguồn năng lượng quan trọng bậc nhất đóng góp 64% tổng
năng lượng đang sử dụng toàn cầu, 36% năng lượng còn lại là gỗ, sức nước, sức gió, địa
nhiệt, ánh sáng mặt trời, than đá, và nhiên liệu hạt nhân [98].
Không những thế, “các quốc gia giàu nguồn tài nguyên này dường như đang có khả
năng khuynh đảo ít nhất là một phần của thế giới văn minh bằng cách đóng hay mở các
giếng dầu hoặc các đường ống dẫn khí” [11; tr.10]. Nói cách khác, dầu khí là con “át chủ
bài” quan trọng đối với các quốc gia giàu nguồn tài nguyên này và là “món hàng” quan
trọng trong thương mại quốc tế cũng như ảnh hưởng lớn đến chính sách đối ngoại của các
nước.
Trên thế giới, Liên Bang Nga hiện là quốc gia giàu có về dầu mỏ và khí đốt. Ở
phương Tây người ta thường nói: “Nếu Brejnev có tên lửa thì Putin có khí đốt” [20; tr.11],
ngụ ý rằng nước Nga sau thời kì Boris Yeltsin đã sử dụng khí đốt làm vũ khí chiến lược.
Quả thật vậy, chính nguồn tài nguyên dồi dào này đã tạo nên sức mạnh cho nước Nga hiện
nay và biến Nga thành “đế quốc năng lượng” trên thế giới. Không những thế, dầu khí còn
góp phần củng cố vị thế của nước Nga trên chính trường quốc tế, tạo điều kiện cho nước
Nga mở rộng quan hệ hợp tác với các nước châu Á láng giềng, các nước phát triển và nhất
là các nước đang trong “cơn khát dầu mỏ”, trong đó có Trung Quốc và Nhật Bản.
Trong khoảng thời gian từ 1971 đến 1995, nhu cầu năng lượng ở các nước công
nghiệp hóa ở châu Á đã tăng gấp bốn lần và tăng với tốc độ xấp xỉ 4% mỗi năm giai đoạn
1995-2010 [55; tr.11]. Sự gia tăng tiêu thụ năng lượng mạnh mẽ của các nước công nghiệp
hoá Châu Á, nhất là các nước phát triển như Trung Quốc, Nhật Bản đã đặt ra những vấn đề
về thiếu nguồn cung nghiêm trọng. Dưới tác động của khu vực hóa, sự tùy thuộc lẫn nhau
giữa các quốc gia ngày càng lớn. Theo đó, “sức khoẻ” kinh tế của hai cường quốc không chỉ

4



ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của kinh tế nhiều nước châu Á mà cả các nền kinh tế khác.
Do đó, đảm bảo an ninh năng lượng, đặc biệt là nguồn cung ổn định là vấn đề cấp thiết.
Trong khi Trung Quốc và Nhật Bản đang lao đao tìm kiếm nguồn cung năng lượng
thì nước Nga láng giềng lại có nguồn cung dầu khí vô cùng phong phú cả trên đất liền và
trên biển. Cùng với đó, chính sách năng lượng mới của Nga được đề ra từ năm 2003 đã tạo
điều kiện thúc đẩy hợp tác năng lượng giữa Nga với Trung Quốc và Nhật Bản. Tuy nhiên,
quá trình hợp tác này không đơn thuần chỉ là sự giao dịch giữa người mua và người bán mà
còn chứa đựng những yếu tố kinh tế, chính trị và an ninh quốc gia, an ninh khu vực. Do
vậy, việc tìm hiểu quá trình hợp tác năng lượng giữa Nga với Trung Quốc và Nhật Bản giai
đoạn 2003-2016 là việc làm có ý nghĩa trên cả hai phương diện khoa học và thực tiễn.
Về phương diện khoa học, việc nghiên cứu, tìm hiểu quá trình hợp tác năng lượng
giữa Nga với Trung Quốc và Nhật Bản giai đoạn 2003-2016 góp phần cung cấp những hiểu
biết khoa học, căn bản và có hệ thống về cơ sở và thực trạng quá trình hợp tác năng lượng
giữa Liên Bang Nga với Trung Quốc và Nhật Bản trong những năm đầu thế kỷ XXI. Từ đó,
góp phần tìm hiểu nguồn gốc, quá trình hình thành và triển khai của một loại hình ngoại
giao mới – ngoại giao năng lượng.
Về phương diện thực tiễn, việc nghiên cứu này góp phần lí giải những biến động của
tình hình năng lượng thế giới trong những năm qua, qua đó cung cấp những hàm ý cần thiết
cho việc hoạch định các giải pháp đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Kết quả nghiên
cứu của đề tài cũng là tư liệu tham khảo bổ ích cho những ai quan tâm tìm hiểu về vấn đề
này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đối với Đông Á nói riêng và thế giới nói chung, ba cường quốc Nga, Trung Quốc và
Nhật Bản có tầm quan trọng đặc biệt cả về vị thế kinh tế, địa - chính trị, an ninh, do đó có
khá nhiều công trình ở trong và ngoài nước viết về mỗi nước và quan hệ song phương NgaTrung Quốc, Nga-Nhật Bản trong các giai đoạn khác nhau. Mối quan tâm chủ yếu của các
công trình nghiên cứu là quá trình hợp tác giữa các bên trên tất cả các lĩnh vực chính trịngoại giao, kinh tế, văn hóa - xã hội,.. và tác động của chúng.

5



Trong lĩnh vực năng lượng, bước sang thế kỷ XXI, năng lượng đã và đang trở thành
vấn đề được thế giới quan tâm. Năng lượng không thuần túy là nhiên liệu sản xuất, thuộc
phạm trù kinh tế mà thực sự trở thành vấn đề an ninh quốc gia của tất cả các nước, do đó cả
Nga, Trung Quốc và Nhật Bản đều đưa ra chiến lược năng lượng quốc gia và chính sách an
ninh năng lượng với các mục đích và biện pháp thực hiện cụ thể. Năng lượng được sử dụng
như một công cụ chính trị trong các vấn đề ngoại giao. Tác giả Ngô Duy Ngọ đã có bài viết
“Chính trị hóa vấn đề năng lượng trong quan hệ quốc tế” đăng trên tạp chí Nghiên cứu châu
Âu, số 2-2008, khẳng định xu hướng trên trong quan hệ quốc tế. Qua đó ta cũng hiểu được
vì sao cả Nga, Trung Quốc và Nhật Bản lại chú trọng đến hợp tác năng lượng.
Một số bài viết đăng trên các tạp chí như Nghiên cứu châu Âu, Nghiên cứu quốc tế,
Kinh tế và chính trị thế giới, Nghiên cứu Đông Bắc Á và các thông tin từ Thông tấn xã Việt
Nam cũng đề cập đến quá trình hợp tác năng lượng giữa Nga với Trung Quốc và Nhật Bản.
Có thể kể đến một số bài viết trên tạp chí Nghiên cứu châu Âu như: “Dầu khí và chiến lược
năng lượng của Nga” (Nguyễn Cảnh Toàn, số 9-2008); “Nga triển khai chiến lược toàn cầu
về dầu mỏ” (Ngô Duy Ngọ, số 2-2008); “An ninh năng lượng và chiến lược năng lượng của
Nga đến 2030” (Nguyễn Thanh Hương, số 11-2013);… Trên tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc
Á tiêu biểu có bài viết “Hợp tác năng lượng giữa ba nước Nga-Nhật-Trung” ở khu vực Đông
Bắc Á (Hồ Châu, số 9-2007),….Tuy vậy, các công trình này chỉ đi sâu nghiên cứu các khía
cạnh riêng lẻ và trong một số giai đoạn nhất định mà chưa nghiên cứu hệ thống về hợp tác
năng lượng của Nga (trong vai trò chủ thể) với Trung Quốc và Nhật Bản đầu thế kỷ XXI.
Trên thế giới, Nga, Trung Quốc và Nhật Bản là một trong những tiêu điểm của giới
nghiên cứu về châu Âu và Đông Bắc Á. Vì vậy cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về
quan hệ Nga-Trung Quốc, Nga-Nhật Bản ở nhiều khía cạnh khác nhau, trong đó có hợp tác
trên lĩnh vực năng lượng. Có thể kể đến công trình của Viện nghiên cứu Năng lượng Oxford
là Energy Relations between Russia and China: Playing Chess with the Dragon (Tạm dịch:
Quan hệ về năng lượng giữa Nga và Trung Quốc: Chơi cờ vua cùng với Rồng). Công trình
chủ yếu đề cập đến quá trình hợp tác năng lượng song phương giữa Nga và Trung Quốc
trong giai đoạn hậu Crimea (năm 2014) và đánh giá trò chơi đàm phán phức tạp, kéo dài
giữa Nga và Trung Quốc trong vấn đề năng lượng.


6


Một công trình khác đề cập đến quan hệ Nga-Nhật Bản là “Japan’s need for Russian
oil and gas: A shift in energy flows to the far east” (Tạm dịch: Nhu cầu của Nhật Bản đối
với dầu và khí đốt của Nga: Sự thay đổi trong dòng chảy năng lượng sang Viễn Đông) của
tác giả Masumi Motomura. Nội dung chính của công trình đề cập đến việc xem xét sự lựa
chọn của chính phủ Nhật Bản đối với nguồn cung dầu mỏ và khí đốt của Nga và sự thay đổi
của Nhật Bản chuyển từ năng lượng hạt nhân sang khí hóa lỏng trong sản xuất điện sau vụ
tai nạn Fukushima hồi tháng 3 năm 2011.
Nhìn chung, các công trình này đều tập trung phân tích những khía cạnh đơn lẻ về
chính sách năng lượng của Nga, về quan hệ Nga-Trung Quốc, Nga-Nhật Bản, có liên quan
đến vấn đề năng lượng. Tuy vậy, việc phân tích hệ thống, cụ thể và chuyên sâu về hợp tác
năng lượng giữa Nga với Trung Quốc và Nhật Bản đầu thế kỷ XXI, đặc biệt là giai đoạn
2003-2016 chưa được chú trọng đúng mức. Vì vậy, để góp phần bổ sung một số nội dung
quan trọng còn khiếm khuyết trên, chúng tôi chọn chọn đề tài: “Hợp tác năng lượng giữa
Nga với Trung Quốc và Nhật Bản giai đoạn 2003-2016” làm đề tài nghiên cứu cho Luận
văn Thạc sĩ khoa học Lịch sử.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu quá trình hợp tác năng lượng giữa Nga
với Trung Quốc và Nhật Bản giai đoạn 2003-2016. Trên cơ sở đó, tác giả đề tài đưa ra
những nhận xét bước đầu về kết quả và tác động của quá trình trên.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu trên, tác giả tập trung giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Phân tích các nhân tố chủ yếu tác động đến quá trình hợp tác năng lượng giữa Nga
với Trung Quốc và Nhật Bản giai đoạn 2003-2016.
- Trình bày nội dung của quá trình hợp tác năng lượng giữa Nga với Trung Quốc và
Nhật Bản giai đoạn 2003-2016 trong xây dựng cơ sở hạ tầng và trong thương mại năng
lượng.


7


- Nhận xét về kết quả hợp tác năng lượng Nga-Trung Quốc và Nga-Nhật Bản giai
đoạn 2003-2016. Từ đó đưa ra một số đánh giá, so sánh về các mối quan hệ hợp tác nói trên.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Hợp tác năng lượng giữa Nga với Trung Quốc
và Nhật Bản giai đoạn 2003-2016.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Theo phân loại hiện nay, năng lượng thế giới bao gồm hai nhóm lớn là năng lượng
hóa thạch và năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, trong phạm vi nội dung của luận văn, tôi chỉ
giới hạn nghiên cứu về hai loại năng lượng thuộc nhóm năng lượng hóa thạch là dầu mỏ và
khí đốt vì đây là hai nguồn năng lượng quan trọng của thế giới hiện nay và là mối quan tâm
hàng đầu của Nga, Trung Quốc và Nhật Bản trong quá trình hợp ác giữa họ.
Về mặt thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu quá trình hợp tác năng lượng giữa
Nga với Trung Quốc và Nhật Bản từ 2003 đến 2016. Tuy nhiên, để đảm bảo tính hệ thống
xuyên suốt về quá trình hợp tác song phương và đa phương, luận văn cũng có nghiên cứu ở
mức độ nhất định và sau khung thời gian nghiên cứu được xác định.
Về mặt không gian: Giới hạn trong 3 nước là Nga, Trung Quốc và Nhật Bản. Không
gian nghiên cứu được đặt trong không gian chung của bối cảnh quốc tế và tình hình khu vực
Đông Bắc Á.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện Luận văn tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như
sau:
- Về phương pháp luận: chúng tôi quán triệt sâu sắc phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để nhìn nhận, xem xét vấn đề.
- Về phương pháp nghiên cứu cụ thể: Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng
kết hợp phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các

phương pháp nghiên cứu cụ thể khác như thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh, đối
chiếu,… nhằm đánh giá vấn đề một cách khách quan và khoa học.
8


6. Đóng góp của đề tài
Luận văn góp phần cung cấp những hiểu biết căn bản, hệ thống và cập nhật về quá
trình hợp tác năng lượng giữa Nga với Trung Quốc và Nhật Bản giai đoạn 2003-2016. Từ
đó có sự so sánh, đối chiếu và rút ra một số đặc điểm của quá trình hợp tác này. Ngoài ra,
dựa trên kết quả nghiên cứu, chúng tôi cũng dự báo triển vọng của mối quan hệ năng lượng
Nga-Trung Quốc và Nga-Nhật Bản trong thời gian tới. Đồng thời có những liên hệ đến vấn
đề an ninh năng lượng của Việt Nam và hợp tác năng lượng giữa Việt Nam với các cường
quốc trên trong khuôn khổ hợp tác Đông Á.
7. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Những nhân tố thúc đẩy sự hợp tác năng lượng giữa Nga với Trung Quốc và
Nhật Bản giai đoạn 2003-2016
Chương 2. Hợp tác năng lượng giữa Nga với Trung Quốc và Nhật Bản giai đoạn 20032016
Chương 3. Một số nhận xét về quá trình hợp tác năng lượng giữa Nga với Trung Quốc và
Nhật Bản giai đoạn 2003-2016

9


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
NHỮNG NHÂN TỐ THÚC ĐẨY SỰ HỢP TÁC NĂNG LƢỢNG GIỮA NGA VỚI
TRUNG QUỐC VÀ NHẬT BẢN GIAI ĐOẠN 2003-2016
1.1. Khái quát quan hệ hợp tác năng lƣợng giữa Nga với Trung Quốc và Nhật Bản
trƣớc năm 2003

1.1.1. Hợp tác năng lƣợng Nga- Trung Quốc trƣớc năm 2003
Nga và Trung Quốc là hai quốc gia láng giềng có mối quan hệ lịch sử lâu dài và phức
tạp. Năm 1949, khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập, Liên bang Xô viết
nhanh chóng trở thành Đồng minh, đánh dấu thắng lợi chủ nghĩa cộng sản ở hai quốc gia có
diện tích lớn hàng đầu thế giới. Trung Quốc hi vọng với sự giúp đỡ của Liên Xô về trang
thiết bị và lao động có tay nghề sẽ giúp Trung Quốc tiến hành thành công công cuộc công
nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Năm 1953, sau khi Stalin qua đời, quan hệ Trung Quốc và Liên Xô bước vào thời kì
căng thẳng do mâu thuẫn về lợi ích. Thậm chí, năm 1969, giữa hai nước đã xảy ra cuộc
xung đột quân sự ở biên giới phía đông trên sông Ussuri (được gọi là Đảo Damanskii ở
Nga) và phía tây biên giới Trung-Xô ở Tân Cương. Những cuộc đụng độ này đã dẫn tới việc
tăng cường các pháo đài biên giới và huy động dân cư ở cả hai bên, đồng thời thúc đẩy
Trung Quốc tìm kiếm sự liên kết với Mỹ. Năm 1976, với sự thay đổi của tình hình thế giới,
mâu thuẫn Trung- Xô bắt đầu giảm nhưng quan hệ giữa hai nước vẫn “nhạt” do mâu thuẫn
với nhau trong chính sách đối với những xung đột ở Việt Nam và Afghanistan.
Năm 1982, dưới thời kì của Brezhnev, quan hệ Liên Xô - Trung Quốc bắt đầu có
những chuyển biến mới. Kết quả là, trong lĩnh vực năng lượng, Liên Xô bắt đầu tiến hành
các ý tưởng, các kế hoạch xây dựng đường ống dẫn dầu và khí đốt vào Trung Quốc cuối
những năm 1980. Tuy nhiên, Bắc Kinh đã không thực hiện những kế hoạch này do Trung
Quốc đã từng bước tự sản xuất được một phần năng lượng cung ứng trên thị trường và nhập
khẩu một phần từ Trung Đông, do đó đã có sự dư thừa nguồn cung trên thị trường.
Quan hệ ngoại giao Liên Xô-Trung Quốc chỉ thực sự bắt đầu trở lại sau khi Liên Xô
sụp đổ vào năm 1991. Tháng 12/1992, mối quan hệ này được cải thiện hơn nữa khi Tổng
10


thống Nga đầu tiên Boris Yeltsin có chuyến thăm chính thức đến Trung Quốc. Chuyến thăm
này đã thúc đẩy các cuộc đàm phán về phân định biên giới và hợp tác thương mại giữa hai
nước.
Trong chuyến thăm Nga tháng 9/1994, Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân đã gọi

quan hệ song phương giữa hai nước là “Quan hệ đối tác xây dựng”. Đến tháng 4/1996, mối
quan hệ này được nâng tầm, gọi là “Đối tác chiến lược phối hợp”. Tháng 12/1998, hai nước
đã ban hành Thông cáo chung, cam kết xây dựng “Quan hệ đối tác bình đẳng và đáng tin
cậy”. Đây là một trong những thỏa thuận đối tác chiến lược đầu tiên của Trung Quốc.
Tuy nhiên, trong những năm đầu sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, mối quan hệ với
Trung Quốc không được Nga coi trọng do Nga đang cố gắng thực hiện chính sách “Định
hướng Đại Tây Dương” (tập trung mọi nguồn lực để xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp với
Hoa Kỳ và các nước Tây Âu, đồng thời nỗ lực lồng ghép Nga vào không gian châu Âu).
Nhiều nhà lãnh đạo Nga còn tỏ ra quan ngại về cách giải quyết của Trung Quốc ở vùng Viễn
Đông giàu năng lượng nhưng ít dân cư của Nga, sự tăng đầu tư của Trung Quốc và kiểm
soát các liên doanh năng lượng của Nga ở đó. Sự hợp tác về dầu mỏ và khí đốt của Trung
Quốc với các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ ở Trung Á cũng được coi là nguồn gây căng
thẳng tiềm ẩn khi các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc can thiệp vào khu vực mà
Moscow từng có ảnh hưởng chi phối trước đó.
Phù hợp với bối cảnh chính trị này, mối quan hệ năng lượng giữa Nga và Trung Quốc
trong những năm 90 của thế kỷ XX khá khiêm tốn. Mặc dù có tuyên bố về hợp tác năng
lượng song phương bao gồm thỏa thuận liên chính phủ về hợp tác trong lĩnh vực năng lượng
tháng 4/1996 và thỏa thuận giữa Bộ Năng lượng Liên bang Nga và Tổng Công ty Dầu khí
Quốc gia Trung Quốc (CNPC) về tổ chức hợp tác các dự án dầu khí vào tháng 6/1997,
nhưng cơ sở hạ tầng giao thông không đầy đủ, mối quan tâm về giá cả, sự nghi ngờ lẫn nhau
và sự cạnh tranh về ảnh hưởng Á-Âu đã hạn chế việc triển khai trên thực tế.
Tuy nhiên, vào cuối thập niên 19-90, hợp tác năng lượng giữa hai nước có bước khởi
sắc. Năm 1997, các dự án đường ống dẫn dầu và khí đốt tiềm năng đã tiến hành xây dựng ở
mỏ Kovykta (Siberia) sang Trung Quốc. Trong tương lai, cả Nhật Bản và Hàn Quốc sẽ tham
gia vào dự án này. Theo dự kiến, hàng năm dự án sẽ cung cấp ít nhất 20 tỷ mét khối khí tự
nhiên trong vòng 30 năm, trong đó 10 tỷ mét khối là cung cấp cho Trung Quốc, số còn lại
11


cung cấp cho Hàn Quốc, Nhật Bản. Việc chuẩn bị cơ sở kinh tế-kỹ thuật cần đến 50 triệu

USD, còn phương án cuối cùng được hoàn thiện vào năm 2001. Tổng trị giá dự án là 3 tỷ
USD. Năm 2006, những mét khối khí gas đầu tiên đã được cung cấp cho Trung Quốc [5;
tr.15].
Dưới thời Tổng thống V.Putin, phù hợp với chính sách “Cân bằng Âu-Á”, chính sách
đối ngoại của Nga với Trung Quốc đã thay đổi. Tổng thống V.Putin cho rằng việc tăng
cường hợp tác kinh tế Nga - Trung Quốc là sự cân bằng với các mối quan hệ kinh tế nổi trội
với phương Tây. Mặc dù V.Putin lo ngại ảnh hưởng quá mức của Trung Quốc ở vùng Viễn
Đông nhưng tầm quan trọng về địa chính trị của việc hợp tác với Trung Quốc đã vượt qua
những lo ngại này. Từ năm 2001, quan hệ đối tác chính trị Nga-Trung Quốc trở thành trọng
tâm đối với Kremlin. Hơn nữa, Tổng thống V.Putin nhấn mạnh rằng những sắc thái mới đã
xuất hiện trong mối quan hệ đối tác này, đặc biệt là việc duy trì và tăng cường hợp tác trên
những lĩnh vực mà cả hai đều có nhu cầu cấp thiết, trong đó có năng lượng.
Năm 2001, mối quan hệ ngày càng chặt chẽ giữa hai nước được khẳng định trong
Hiệp định hợp tác hữu nghị và láng giềng thân thiện. Đây là hiệp định chiến lược, kinh tế,
quân sự kéo dài 20 năm. Quan trọng hơn nữa, hiệp định này cũng mở ra những cơ hội phát
triển hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực năng lượng. Tổng thống V.Putin cũng tuyên bố
rằng sự tồn tại của hiệp ước này có nghĩa là “theo đặc điểm của nó, mối quan hệ giữa Nga
và Trung Quốc cao hơn mối quan hệ giữa Nga và Mỹ” [106].
Mặc dù Hiệp định Nga-Trung năm 2001 đã không chính thức tạo lập liên minh quân
sự hoặc chính trị giữa hai nước và không ghi nhận bất cứ nghĩa vụ bảo vệ chung nào trong
trường hợp có mối đe dọa từ bên ngoài nhưng nó đã thúc đẩy hơn nữa các cuộc đàm phán
giữa hai nước và khẳng định sự liên kết rộng hơn trong khu vực Á-Âu, khi Nga và Trung
Quốc cùng với Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan và Uzbekistan thành lập Tổ chức hợp tác
Thượng Hải (SCO), khẳng định vai trò mới cho cả hai nước ở Trung Á.
Tháng 5/2003, Trung Quốc và Nga đưa ra tuyên bố chung rằng bất kể tình hình thế
giới có thay đổi như thế nào thì sự ưu tiên trong chính sách đối ngoại chiến lược của cả hai
nước sẽ vẫn là tăng cường tình hữu nghị và hợp tác cùng có lợi. Tháng 10/2003, hai bên ký
kết một thỏa thuận phân định biên giới với nội dung Trung Quốc được trao quyền kiểm soát
12



đảo Tarabarov (đảo Yinlong), đảo Zhenbao, và khoảng 50% đảo Bolshoy Ussuriysky (đảo
Heixiazi), gần Khabarovsk. Sự kiện này đã tăng cường mối quan hệ chính trị giữa hai nước.
Tuy nhiên, bất chấp những tiến bộ về chính trị, hợp tác năng lượng vẫn còn ở mức
thấp, và trên thực tế không phải nước Nga mà công ty dầu mỏ Yukos mới là động lực chính
cho xuất khẩu dầu mỏ và khí đốt sang Trung Quốc. Năm 2001, Yukos đã đề xuất dự án xây
dựng đường ống dẫn dầu Đông Siberia-Thái Bình Dương (ESPO), kết nối nhà máy lọc dầu
của Yukos ở Angarsk đến Đại Khánh (thuộc tỉnh Hắc Long Giang). Đường ống này sẽ bổ
sung cho các tuyến đường sắt mà lúc đó là phương tiện duy nhất vận chuyển dầu vào thị
trường Trung Quốc. Yukos cũng bắt đầu quảng bá một đường ống dẫn khí, nhưng sự phá
sản của công ty vào năm 2003 đã tạm thời trì hoãn các cuộc thảo luận về đề xuất trên.
Tóm lại, trước năm 2003, hợp tác năng lượng Nga-Trung Quốc phụ thuộc vào mối
quan hệ chính trị “nồng ấm” hay “lạnh nhạt” giữa hai chính phủ. Một cách tổng quát, hợp
tác năng lượng hầu như chưa có kết quả nổi bật, còn khá khiêm tốn. Nguyên nhân chủ yếu
là do sự nghi kị lẫn nhau, hệ thống giao thông vận chuyển chưa thuận lợi và sự cạnh tranh
giữa hai nước trong khu vực bất chấp sự phát triển không ngừng của quan hệ thương mại
quốc tế.
1.1.2. Hợp tác năng lƣợng Nga-Nhật Bản trƣớc năm 2003
Quan hệ giữa Nhật Bản và Nga trong lịch sử có nhiều điểm bất đồng. Trong khi mối
quan hệ kinh tế và thương mại có sự tăng trưởng mạnh mẽ thì quan hệ chính trị giữa hai
nước vẫn còn một số xung đột, nhất là cuộc tranh chấp trên bốn quần đảo Kurile kể từ sau
Chiến tranh thế giới thứ hai. Năm 1956, Liên Xô và Nhật Bản tái thiết mối quan hệ ngoại
giao nhưng cả hai đã thất bại trong việc ký hiệp định hòa bình và giải quyết đường biên giới.
Trong những năm sau đó, tranh chấp lãnh thổ tiếp tục chiếm vị trí trung tâm trong
quan hệ Nga – Nhật. Cuối thập kỷ 1990 đến những năm đầu thế kỷ XXI, phù hợp với bối
cảnh quốc tế, quan hệ kinh tế Nga-Nhật có bước phát triển mới. Nga quan tâm đến sự giúp
đỡ của Nhật Bản trong phát triển cơ sở hạ tầng và khai thác các nguồn tài nguyên của vùng
Viễn Đông và Siberia. Sự hỗ trợ bao gồm các khoản cho vay trị giá lớn với lãi suất thấp;
tham gia các liên doanh để khai thác nguồn năng lượng và nguyên liệu thô, chuyển giao
công nghệ, kỹ năng quản lý và phát triển sản xuất hàng tiêu dùng xuất khẩu.

13


Về hợp tác năng lượng, bất chấp những khó khăn về hợp tác chính trị và kinh tế trong
thời kỳ Chiến tranh Lạnh, hai nước đã tham gia vào một số dự án năng lượng tập trung ở
Viễn Đông và Tây Siberia. Hợp tác năng lượng đầu tiên giữa Liên Xô và Nhật Bản là vào
đầu những năm 1970. Các đề xuất tập trung chủ yếu vào việc phát triển các nguồn năng
lượng của Liên Xô ở Tây Siberia, gồm có Dự án khí đốt tự nhiên Yakutia và Dự án phát
triển dầu Tyumen, ở vùng Viễn Đông có Dự án thăm dò dầu khí lục địa Sakhalin Có thể
xem xét diễn trình của các dự án qua bảng 1.1:
Bảng 1.1. Sáng kiến Năng lƣợng hợp tác Nhật Bản-Xô viết vào những năm 1970

Các dự án

Dự án khí đốt tự nhiên

Dự án phát triển dầu

Dự án thăm dò dầu khí

Yakutia

Tyumen

lục địa Sakhalin

Hiệp định chung ký vào Thảo luận đầu tiên đưa ra
Ngày bắt năm 1974;
đầu


vào tháng 2 năm1972;

Ngày bắt đầu dự kiến: Ngày bắt đầu dự kiến:
1982
Liên

Ngƣời ký
và phát
triển dự
án chính

1981
Xô:

Bộ

thương
Gas, Công ty khí thiên
nhiên Kondankai

chính thức vào tháng 1
năm 1975.
Liên Xô: Bộ Ngoại thương

Ngoại

Nhật Bản: Công ty Tokyo

Thoả thuận chung được ký


Nhật Bản: Công ty Sodeco
Liên Xô: Bộ Ngoại thương
Nhật Bản: Ủy ban Dầu khí

và Tập đoàn Dầu khí Quốc
gia Nhật Bản (JNOC)
Mỹ: Công ty Gulf Oil

Mỹ: Công ty khí tự nhiên
El Paso
Giai đoạn đầu tư để thăm

Tổng đầu dò: Nhật Bản và Hoa Kỳ


mỗi nước đầu tư 25 tỷ
USD.

Nhật Bản dự kiến sẽ cung
cấp khoản vay 1,3-1,7 tỷ
USD.

Nhật Bản đầu tư 237,5
triệu USD (bao gồm 150
triệu USD trong 5 năm
đầu)

14



- Thời hạn 25 năm;

- Nhật Bản dự kiến sẽ - Nhật Bản dự kiến sẽ

- Phát triển khu dự trữ khí cung cấp tất cả các thiết bị cung cấp vốn đầu tư và tín
đốt Yakutia và cơ sở hạ cần thiết cho việc thăm dò, dụng thương mại để tài trợ
tầng liên quan;
Tổng

khoan, vận chuyển dầu thô cho các hoạt động khoan

- Xây dựng đường ống và xây dựng một cảng biển và thăm dò của Liên Xô tại

quan về dẫn dầu đến cảng Olga tiếp nhận các chuyến hàng Sakhalin;
dự án

trên biển Nhật Bản và nhà dầu thô từ Nga;
máy LNG;

- Liên Xô sẽ cung cấp cho

- Trong trao đổi, Nhật Bản Nhật Bản 50% lượng dầu

- Khách hàng chính: Nhật sẽ được cung cấp 25 triệu thu được trong thời hạn
Bản và các bang phía Tây tấn dầu thô hàng năm cho vay và 10 năm sau khi
của Hoa Kỳ.

trong 25 năm.
-Phát triển cơ sở hạ tầng
và khoảng cách địa lý làm

phát sinh chi phí cao;

Do nhiều lý do khác nhau - Các cuộc biểu tình của
Tình

(chủ yếu là về mặt chính Mỹ và Trung Quốc về việc

trạng / trị), liên doanh ba bên đã xây dựng đường sắt đưa
Kết quả chính thức bị phá bỏ vào dầu thô đến bờ biển Thái
năm 1980.

Bình Dương.
- Kết quả: dự án bị trì hoãn
và bị lãng quên vào giữa
những năm 1970.

hết hạn.
- Vì các lý do chính trị,
kinh tế và kỹ thuật (thiếu
thiết bị khoan cần thiết và
chi phí khai thác dầu cấm),
dự án đã tạm ngưng vào
cuối những năm 1970 (đặc
biệt là sau chiến tranh ở
Afghanistan và các chính
sách cấm vận của Mỹ);
- Năm 1990, dự án được
tái khởi động với tên gọi
Dự án Sakhalin-I.


(Nguồn: The Institute of Energy Economics Japan (IEEJ), Japanese-Russian Energy
Cooperation, October 9-13, 2008, p.1-2)
Có thể thấy, ngoại trừ dự án dầu khí Sakhalin, hai dự án còn lại không được thực
hiện. Nguyên nhân chính là do sự căng thẳng về chính trị dẫn đến sự cân nhắc chiến lược
hợp tác trong thời kì Chiến tranh Lạnh. Đây là nhân tố đóng vai trò quan trọng nhất trong
việc chấm dứt các sáng kiến và các dự án năng lượng song phương Nga-Nhật thập niên
1970, 1980.
15


Về phía Nhật Bản, mặc dù quan tâm đến việc mở rộng hợp tác năng lượng với Liên
Xô nhưng với tư cách là đồng minh quân sự của Hoa Kỳ, Nhật Bản đã phải cân nhắc và tính
toán chiến lược đối ngoại của mình. Hơn nữa việc hai nước tranh chấp quần đảo Kurile đã
dẫn đến sự thay đổi trong chính sách của Tokyo đối với Moscow theo hình thức chính trị
hóa hợp tác thương mại và năng lượng. Đầu những năm 1980, hình thức này đã phát triển
thành chính sách “Không thể tách rời giữa chính trị và kinh tế” (seikei-fukabun).
Một yếu tố chính trị bên ngoài khác cản trở mối quan hệ hợp tác về năng lượng giữa
Nhật Bản và Liên Xô vào những năm 1970 là sự liên kết chính trị của Mỹ và Trung Quốc.
Trung Quốc tuyên bố ủng hộ chủ quyền lãnh thổ của Nhật Bản trong tranh chấp quần đảo
Kurile. Đổi lại, Nhật Bản phải rút khỏi các dự án năng lượng ở Đông Siberia, dưới sức ép
của Trung Quốc và Mỹ, đặc biệt là Dự án Phát triển Dầu Tyumen với lập luận rằng sự hợp
tác Liên Xô-Nhật Bản sẽ tạo cho Liên Xô lợi thế chiến lược trong khu vực.
Ngoài ra, Nhật Bản là đồng minh chiến lược của Mỹ, do đó sẽ tìm kiếm sự ủng hộ
chính trị của Mĩ đối với các yêu sách lãnh thổ trong mối quan hệ với Liên Xô. Việc không
đảm bảo được sự hậu thuẫn của Mĩ đã làm giảm nhiệt tình của người Nhật đối với việc tham
gia vào các sáng kiến năng lượng chung với Liên Xô. Hơn nữa, việc Liên Xô đem quân vào
Afghanistan năm 1979 và cấm vận thương mại của Mỹ đối với Liên Xô đã làm suy yếu hơn
nữa tính khả thi của hợp tác năng lượng Liên Xô – Nhật Bản.
Ngoài các lí do chính trị nói trên, việc thiếu công nghệ, thiết bị đầy đủ cũng như cơ
sở hạ tầng kém phát triển và điều kiện khí hậu khắc nghiệt ở Đông Siberia càng khiến cho

các dự án năng lượng Xô- Nhật trở nên khó khăn.
Đầu những năm 1990, với sự thay đổi của tình hình thế giới, hợp tác năng lượng
Nga-Nhật Bản được cải thiện. Năm 2000, trong chuyến đến Nga, Thủ tướng Nhật Bản
Yoshiro Mori đã có cuộc nói chuyện không chính thức với nhà lãnh đạo mới của Nga ở St
Petersburg về triển vọng của hiệp định hòa bình và khả năng Tổng thống V.Putin thăm Nhật
Bản, điều này mở ra triển vọng hợp tác kinh tế Nga-Nhật. Đặc biệt, trong lĩnh vực năng
lượng, Chính phủ Nhật Bản tuyên bố ủng hộ tài chính cho Nga. Sự hỗ trợ đầu tiên sẽ được
sử dụng để xây dựng dự án đường ống dẫn khí đốt tự nhiên giữa Nga và Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy
kết quả còn khiêm tốn, song sự kiện này hứa hẹn một khởi đầu mới cho sự hợp tác NgaNhật Bản trong lĩnh vực năng lượng đầu thế kỷ XXI.
16


1.2. Bối cảnh quốc tế và khu vực Đông Bắc Á những năm đầu thế kỷ XXI
1.2.1. Bối cảnh quốc tế
Đầu thế kỷ XXI, xu thế toàn cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Ở một chừng mực
nhất định, toàn cầu hóa đã làm gia tăng mức độ ảnh hưởng, phụ thuộc lẫn nhau giữa các
quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Bất kì một thay đổi nào ở các quốc gia, khu vực
khác nhau đều ảnh hưởng đến các quốc gia, khu vực trong cùng hệ thống, tổ chức hay thậm
chí ở quy mô toàn cầu. Đối với Nga và Trung Quốc, Nhật Bản, sự tùy thuộc này ngày càng
lớn, đặc biệt trên lĩnh vực năng lượng với vai trò “kẻ bán”- “người mua”.
Sự phát triển của chủ nghĩa khủng bố cũng là một trong những vấn đề nổi bật của an
ninh toàn cầu. Đặc biệt ở Trung Đông, khu vực đang chứa đựng nhiều bất ổn lại là một
trong những rốn dầu của thế giới, điều này tác động rất lớn đến an ninh thế giới nói chung
và an ninh năng lượng nói riêng, trong đó có các nước xuất nhập khẩu dầu mỏ lớn như Nga,
Trung Quốc và Nhật Bản.
Trên các tuyến đường hàng hải huyết mạch qua Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương,
sự mất an ninh ở những điểm nóng như vùng biển Somali, eo biển Hormuz, eo biển
Malacca, cùng với tranh chấp chủ quyền trên các vùng biển được xem là vấn đề nghiêm
trọng ảnh hưởng đến an ninh hàng hải toàn cầu, trong đó có vận tải dầu mỏ. Đối với Trung
Quốc, xấp xỉ 80% lượng dầu thô nhập khẩu của Trung Quốc đi qua Biển Đông, đối với

Nhật, con số đó là 90% [26; tr.35]. Sự bất ổn ở khu vực này tạo ra những mối lo ngại đến
nguồn cung cấp năng lượng ổn định cho hai nền kinh tế lớn và có tốc độ tăng trưởng cao
như Trung Quốc, Nhật Bản.
Cùng với an ninh hàng hải, an ninh năng lượng cũng là một trong những vấn đề sống
còn đối với các nước trên thế giới, nhất là các cường quốc như Nga, Trung Quốc, Nhật Bản.
Với nhu cầu tiêu thụ ngày càng lớn, thế giới đang chứng kiến cuộc “chạy đua” tìm kiếm
năng lượng của các quốc gia bởi “nếu lấy trữ lượng toàn thế giới chia cho nhu cầu tại các
thời điểm (từ năm 2015 đến năm 2025) thì dầu lửa chỉ đáp ứng nhu cầu của nhân loại đến
năm 2050” [1; tr.5]. Sự cạn kiệt của nguồn năng lượng không tái sinh này là điều không thể
tránh khỏi trong tương lai, nhưng trước mắt, dầu mỏ đang không ngừng tác động đến cuộc
sống của con người dưới nhiều góc độ khác nhau-trong đó có lĩnh vực kinh tế và đối ngoại.

17


Nga,Trung Quốc và Nhật Bản là những cường quốc xuất và nhập khẩu dầu mỏ lớn, tất yếu
chịu tác động sâu sắc của vấn đề này.
Bên cạnh đó, sự xung đột về lợi ích quốc gia giữa những “người bán” như Nga, Mĩ,
giữa những “người mua” như Trung Quốc-Nhật Bản và giữa “người bán-kẻ mua” như NgaTrung, Nga-Nhật,… về các vấn đề chính trị, an ninh - quốc phòng, cùng với sự cộng hưởng
của các vấn đề an ninh truyền thống và phi truyền thống cũng tác động lớn đến an ninh năng
lượng thế giới nói chung và hợp tác năng lượng giữa Nga với Trung Quốc và Nhật Bản nói
riêng.
1.2.2. Bối cảnh khu vực Đông Bắc Á
Sự phát triển của khu vực Đông Bắc Á được xem là điểm nổi trội trong quá trình toàn
cầu hóa kinh tế đầu thế kỷ XXI. Sự vươn lên của các nền kinh tế như Trung Quốc, Nhật
Bản, Hàn Quốc là minh chứng cho sự phát triển phồn thịnh của khu vực này.
Với những chỉ số tăng trưởng kinh tế ấn tượng, sự trỗi dậy của Trung Quốc từ cuối
thập niên 1990 đến nay là nhân tố quan trọng nhất, chi phối an ninh kinh tế Đông Bắc Á.
Trung Quốc trở thành cường quốc xuất khẩu trên thế giới, là chủ nợ lớn thứ hai của Mỹ [27;
tr.3]. Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển kinh tế, Trung Quốc phải đối mặt với nguy cơ

thiếu hụt năng lượng nghiêm trọng và phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu bên ngoài, chủ yếu từ
Trung Đông trong bối cảnh khu vực này đang bất ổn. Nhật Bản vốn là cường quốc kinh tế
nhưng lại nghèo tài nguyên thiên nhiên và phụ thuộc lớn vào nguồn nhập khẩu năng lượng
từ bên ngoài. Điều này trở thành vấn đề quan trọng, ảnh hưởng đến an ninh của mỗi quốc
gia cũng như an ninh khu vực và thế giới.
Mặt khác, diễn biến của quan hệ quốc tế tại Đông Bắc Á, nhất là vấn đề hạt nhân trên
bán đảo Triều Tiên và sự can dự của các cường quốc vào khu vực này, đặc biệt là sự tăng
cường hiện diện của Mỹ cũng tác động không nhỏ đến dòng chảy hợp tác kinh tế tại khu
vực. Quá trình thống nhất hai miền Nam-Bắc Triều Tiên gặp nhiều vấn đề phức tạp và khó
khăn do Mỹ thắt chặt quan hệ an ninh với Nhật Bản và Hàn Quốc. Chính nguy cơ bùng nổ
hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên và sự tăng cường hiện diện của Mỹ là những nhân tố gây
quan ngại cho Nga, Trung Quốc và Nhật Bản trong những năm gần đây, nhất là trong vấn đề
an ninh năng lượng.
18


Cùng với đó, những diễn biến trong quan hệ giữa Nga với Mĩ và phương Tây liên
quan đến vấn đề Crimea (năm 2014) ngày càng căng thẳng, càng khiến Nga thúc đẩy hợp
tác với Trung Quốc như một biện pháp đối kháng. Việc Nhật Bản tăng cường hợp tác với
Mỹ trong bối cảnh Trung Quốc đang trỗi dậy mạnh mẽ càng khiến cho hai người “láng
giềng” này (Trung Quốc và Nhật Bản) cạnh tranh với nhau và cạnh tranh trong hợp tác với
nước thứ ba. Như vậy, Đông Bắc Á trong thời kì này trở thành một trong những khu vực
tranh giành ảnh hưởng giữa các cường quốc. Điều này tác động rất lớn đến chính sách hợp
tác năng lượng của Nga với Trung Quốc và Nhật Bản, nơi mà Nga không chỉ muốn khẳng
định sự hiện diện và ảnh hưởng của mình.
1.3. Nhu cầu hợp tác năng lƣợng với nhau của Nga, Trung Quốc và Nhật Bản đầu thế
kỷ XXI
1.3.1. Đối với Nga
1.3.1.1. Tiềm năng năng lượng và tình hình nước Nga đầu thế kỷ XXI
a. Tiềm năng năng lượng của Nga

Hiện nay, Nga vẫn là một cường quốc năng lượng thế giới. Năm 2013, Nga đứng thứ
8 thế giới với trữ lượng dầu thô lên tới 80 tỷ thùng [102], đứng thứ hai thế giới về sản lượng
khai thác và xuất khẩu dầu thô trên thế giới. Về trữ lượng khí đốt, Nga chiếm vị trí số một
trên bản đồ phân bố năng lượng hóa thạch thế giới với 50,4 nghỉn tỉ mét khối, bỏ xa nước
đứng thứ hai là Iran với 33,7 nghìn tỷ mét khối và Qatar 24,7 nghỉn tỷ mét khối [99].
Ngoài ra, từ năm 1999 đến 2005, tập đoàn Lukoil đã phát hiện thêm 6 mỏ dầu khí tại
biển bắc Caspie (phần lãnh thổ thuộc Nga) với tổng trữ lượng ước tính tương đương 4,7 tỉ
thùng dầu. Chỉ riêng khu vực hình yên ngựa mà người Nga gọi là Lomonosop trong lòng
Bắc Cực chứa đến 10 tỷ tấn dầu [89], chưa kể tới số lượng phong phú các loại mỏ kim
cương, vàng, platinum, thiếc, mangan, niken, chì. Khu vực này và cả lãnh thổ phía bắc liền
kề có đủ nguồn tài nguyên để nuôi sống nhân loại trong nhiều thập kỉ.
Vùng Đông Siberia và Viễn Đông của Nga có tiềm năng sản xuất dầu khổng lồ. Một
số mỏ dầu lớn nhất ở Siberia nằm ở phía Đông, cụ thể là Vankorskoye có trữ lượng dầu khai
thác được khoảng 440 triệu tấn (tương đương 3,2 tỷ thùng); Verkhnechonskoye 200 triệu
tấn (tương đương 1,5 tỷ thùng); Talakanskoye có hơn 120 triệu tấn dầu (900 triệu thùng) và
19


60 tỷ mét khối khí; Yurubcheno-Tokhomskoye hơn 70 triệu tấn dầu (500 triệu thùng) và 180
tỷ mét khối khí; Kuyumbinskoye có 150 triệu tấn (1,1 tỷ thùng) và Srednebotuobinskoye
130 triệu tấn (950 triệu thùng). Với trữ lượng lớn như trên cùng với công nghệ và kinh
nghiệm khai thác, sản xuất năng lượng đạt trình độ hàng đầu thế giới, Nga được các nền
kinh tế đặc biệt chú ý như là nhà cung cấp năng lượng đầy tiềm năng và ổn định.
b. Tình hình nước Nga đầu thế kỷ XXI
Sau khi Liên Xô tan rã năm 1991, nước Nga mới phải đối mặt với không ít những
khó khăn, thách thức. Về địa – chính trị, cùng với sự tan rã của Liên Xô, việc tách ra của 15
nước cộng hóa đã khiến cho Nga mất đi nhiều hải cảng quan trọng có tính chất chiến lược
về kinh tế và quốc phòng trên biển Đen và biển Bantic cùng hàng loạt các sân bay thuộc khu
vực này. Bên cạnh đó, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu - vốn là khu vực đệm về
an ninh của Nga – và sự giải thể của khối quân sự Varsava – tấm lá chắn quân sự của Nga đã đẩy Nga vào tình thế bất lợi. Ngoài ra, việc Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) giải thể

khiến Nga mất đi thị trường nước ngoài truyền thống, nơi vốn chiếm 2/3 thị trường xuất
nhập khẩu của Liên Xô trước đây [24; tr.103] đã đem đến nhiều khó khăn cho công cuộc
khôi phục kinh tế của Nga.
Chính trường Nga sau sự sụp đổ của Liên Xô cũng rơi vào tình trạng bất đổn định với
những mâu thuẫn tranh giành quyền lực lên đến đỉnh điểm, tạo nên sự rối loạn đe doạ đến
việc tái thiết quốc gia.
Về kinh tế, theo đà trượt dốc từ cuộc khủng hoảng kinh tế những năm 80 của thế kỷ
XX, kinh tế Nga sau năm 1991 càng khủng hoảng trầm trọng hơn, sản xuất đình trệ, thiếu
hụt tư liệu sản xuất, các nhu yếu phẩm cần thiết, hàng tiêu dùng,… nợ nước ngoài tăng cao.
Những khó khăn này khiến Nga giảm sút vai trò trên trường quốc tế.
Vượt qua gần 10 năm sóng gió, bước sang thế kỷ XXI, nước Nga không những đã
chấm dứt thời kì khủng hoảng mà còn thực hiện mục tiêu khôi phục lại vị thế trên trường
quốc tế. Đây chính là kim chỉ nam định hướng cho con đường phát triển của Nga. Từ thực
tiễn lịch sử, các nhà chính trị, nhà khoa học Nga đã nhận thấy rằng, chính nền văn minh Nga
với sức mạnh Á-Âu, nước Nga đã từng có một quá khứ hào hùng trong đời sống chính trị

20


quốc tế. Đó là cơ sở để Nga đề ra học thuyết Á-Âu nhằm phát triển chính sách đối ngoại và
chiến lược phát triển bền vững lâu dài của Nga trong thời kỳ mới.
Ngày 7/5/2000, ngay sau khi trở thành Tổng thống Liên bang Nga, với tài năng và
tinh thần quyết tâm khôi phục nước Nga, Tổng thống V.Putin đã thực hiện những chính sách
cải cách mạnh mẽ, đưa kinh tế Nga nhanh chóng đi từ phục hồi, ổn định đến phát triển.
Trong 8 năm liên tục (2000-2008), tốc độ tăng trưởng kinh tế Nga đạt mức trung bình là
6,4%, đặc biệt năm 2007 đạt mức tăng trưởng cao nhất là 8,1% [22; tr.16].
Với tham vọng khôi phục lại vị thế cường quốc thế giới, sức mạnh quân sự và vị trí
thành viên trong Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc là cơ sở để Nga cùng các nước hướng tới
một thế giới đa cực, từng bước cạnh tranh với Mỹ (những biện pháp cứng rắn của Nga trong
cuộc chiến với Grudia 8/2008 chính là thông điệp chính trị mạnh mẽ với thế giới, nhất là với

Mỹ về sự “trở lại” của Nga).
Về đối ngoại, từ năm 1991 đến năm 1993, Nga rơi vào thuyết “Châu Âu trung tâm”,
thực hiện chính sách đối ngoại “Định hướng Đại Tây Dương”. Những người lãnh đạo nước
Nga mới hi vọng bằng cách “cải tổ” theo mô hình phương Tây và nhờ sự trợ giúp tài chính,
khoa học kỹ thuật,… của phương Tây, nước Nga sẽ nhanh chóng hồi phục và vươn lên
mạnh mẽ. Tuy nhiên, do đường lối cải cách nóng vội, Nga không dễ hòa nhập vào cộng
đồng phương Tây, vì thế kết quả của chính sách “Định hướng Đại Tây Dương” không đạt
được như mong muốn.
Năm 1994, Nga có sự điều chỉnh lớn trong chính sách đối ngoại, từ “Định hướng Đại
Tây Dương” sang “Định hướng Âu-Á”, cân bằng các mối quan hệ với cả phương Tây và
phương Đông nhằm tăng cường quan hệ với châu Á. Cân bằng Đông - Tây giúp Nga tạo lập
được vị thế của mình, tạo môi trường quốc tế ổn định, phục vụ cho sự phát triển của Nga cả
trước mắt cũng như lâu dài.
Từ năm 2000 đến nay, trước sự trỗi dậy mạnh mẽ của Nga, Mỹ đẩy mạnh nhiều biện
pháp nhằm kiềm chế Nga, buộc Nga phải tiếp tục điều chỉnh chính sách đối ngoại. Một mặt,
Nga uyển chuyển trong chính sách đối ngoại với Mỹ và phương Tây, mặt khác đẩy mạnh
xây dựng những mối quan hệ đối tác chiến lược, đặc biệt là những nước láng giềng như
Trung Quốc, Ấn Độ và cả Nhật Bản – một đồng minh thân cận của Mỹ. Quá trình này được
21


thực hiện trước hết dựa trên những lợi ích và nhu cầu thiết thực của mỗi bên, đó chính là
năng lượng.
1.3.1.2. Nhu cầu hợp tác năng lượng của Nga với Trung Quốc và Nhật Bản
a. Chiến lược năng lượng của Nga đến năm 2030
Trong những nguồn năng lượng toàn cầu, dầu mỏ và khí đốt chiếm vị trí trung tâm
với 40% tổng cầu năng lượng thô của thế giới. Dự báo đến năm 2030, các nguồn năng lượng
này vẫn chiếm khoảng 35% tổng cầu năng lượng toàn hành tinh [88]. Những con số đó cho
phép xếp dầu khí vào danh sách các nguồn nguyên liệu thô có tính “chiến lược” và mối
quan hệ quốc tế xung quanh vấn đề dầu khí luôn mang những khía cạnh chính trị đặc biệt

mà hầu hết các quốc gia trên thế giới đều phải tính đến. Quá trình chính trị hóa dầu khí đã
được thể hiện khá rõ nét trong các cú sốc dầu lửa thập niên 70 và 90 của thế kỷ XX, khi
năng lượng không còn là một loại hàng hóa đơn thuần trao đổi giữa người bán và người mua
mà đã trở thành một vũ khí sắc bén trong quan hệ quốc tế.
Ý thức được tầm quan trọng của vấn đề năng lượng, hầu hết các quốc gia, trong đó
có Liên Bang Nga đã xây dựng được cho mình một chiến lược năng lượng phù hợp và dầu
khí luôn chiếm vị trí trung tâm. Ngày 28/8/2003, Chính phủ Nga đề ra “Chiến lược năng
lượng toàn cầu giai đoạn 2003-2020” và sau đó, đến ngày 13/11/2009, Chính phủ Nga tiếp
tục phê duyệt Chiến lược năng lượng đến năm 2030. Mục tiêu của chính sách năng lượng là
tối đa hoá việc sử dụng có hiệu quả các nguồn năng lượng tự nhiên và tiềm năng của ngành
năng lượng để duy trì tăng trưởng kinh tế, cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân và
nâng cao vị thế kinh tế của đất nước trên trường quốc tế [46; tr.10].
Liên Bang Nga được thiên nhiên ban tặng một trữ lượng dồi dào về dầu mỏ và khí
đốt mà nhiều quốc gia khác phải “đố kị”. Tuy nhiên, dưới thời Xô viết, kho báu “trời cho”
ấy dù đã được khai thác rất lớn nhưng chưa thực sự phát huy được hiệu quả như mong muốn
để xây dựng một xã hội tốt đẹp như các nhà lãnh đạo thời bấy giờ đề ra.
Bước sang thế kỷ XXI, để khôi phục lại kinh tế trong nước và lấy lại vị thế nước Nga
trên trường quốc tế, Nga đã sử dụng “con bài năng lượng” không chỉ là hàng hóa thông
thường mà phải là công cụ hữu hiệu để phát triển kinh tế đất nước, là vũ khí lợi hại để chi

22


phối các nước cạnh tranh. Sức mạnh của Nga “hôm qua là xe tăng, hôm nay là dầu khí”
[30].
Chiến lược đặc biệt ưu tiên đa dạng hóa các điểm sản xuất và xuất khẩu, đặc biệt là
Đông Siberia và Viễn Đông. Đây được xem là “vector phương Đông” trong chính sách năng
lượng của Nga bởi nhiều lí do. Thứ nhất, chính sách này tạo ra các trung tâm năng lượng
mới ở Đông Siberia và Viễn Đông góp phần tăng cường an ninh năng lượng của Nga, cũng
như tái lập và tăng cường mối quan hệ năng lượng và nhiên liệu bị phá vỡ giữa các vùng

Đông Siberia và Viễn Đông. Thứ hai, sự phát triển nhanh chóng và quy mô lớn của ngành
năng lượng ở miền Đông nước Nga và sự tham gia vào thị trường năng lượng Nhật Bản,
Trung Quốc, Hàn Quốc được coi là phương tiện quan trọng để đảm bảo vai trò của Nga
trong khu vực chiến lược quan trọng này. Thứ ba, xây dựng cơ sở hạ tầng phát triển tốt ở
miền Đông Nga và Đông Bắc Á, như đường ống dẫn dầu và khí đốt liên bang sẽ góp phần
giảm chi phí của các tàu năng lượng, cải thiện độ tin cậy của nguồn năng lượng và nhiên
liệu cho người tiêu dùng cuối. Thứ tư, hợp tác với các nước Đông Bắc Á, đặc biệt là công
nghệ hàng đầu của Nhật Bản và nguồn vốn dồi dào của Trung Quốc sẽ giúp Nga thúc đẩy
hiệu quả khai thác năng lượng, giảm ô nhiễm môi trường sinh thái, phát triển năng lực sản
xuất, hiện đại hóa các đường ống hiện có và xây dựng các tuyến vận chuyển năng lượng
mới, nâng cấp công nghệ thăm dò và sản xuất, từ đó làm tăng mức sản xuất dầu khí.
Để thực hiện điều này, Nga đã triển khai các biện pháp sau:
- Tăng cường tìm kiếm, khai thác, nâng cao sản lượng khai thác, tăng thị phần của
Nga trên thị trường dầu quốc tế.
- Phát triển cơ sở hạ tầng và công nghệ khai thác trong nước.
- Tiếp tục hội nhập ngành năng lượng Nga vào hệ thống năng lượng thế giới [46;
tr.15-16].
Tóm lại, thông qua việc thực hiện chiến lược năng lượng, Nga đang hướng đến xây
dựng con đường phát triển kinh tế bền vững và nâng cao vị trí của Nga trên thị trường năng
lượng thế giới, trước hết là ở Đông Bắc Á.
b. Nhu cầu hợp tác năng lượng của Nga với Trung Quốc và Nhật Bản
23


Bước vào thế kỷ XXI, tình hình năng lượng thế giới có nhiều biến đổi, dù là nước
xuất khẩu hay nhập khẩu năng lượng cũng đều phải thay đổi, tìm kiếm chiến lược năng
lượng thích hợp cho riêng mình. Trong bối cảnh trung tâm tiêu thụ năng lượng đã chuyển
sang khu vực châu Á-Thái Bình Dương, Trung Quốc và Nhật Bản nổi lên như một điểm
sáng thu hút các nhà xuất khẩu dầu khí của Nga. Tuy nhiên, Nga muốn biến nguồn tiềm
năng to lớn này thành món lợi cần phải có nguồn vốn rất lớn và thời gian khá dài (khoảng 810 năm). Vì vậy, trong Chiến lược năng lượng đến 2020 (và sau kéo dài đến 2030), Trung

Quốc và Nhật Bản vừa là nhà đầu tư và cũng là nhà tiêu thụ đầy tiềm năng.
Thứ nhất, một tiền đề quan trọng cho việc Nga và Trung Quốc, Nhật Bản kí các hợp
đồng dầu khí là chiến lược xoay trục về châu Á của Moscow, nói cách khác là quan hệ
thương mại chặt chẽ hơn giữa Nga và các nước láng giềng phía Đông. Cho đến nay, vai trò
của châu Á trong hoạt động xuất khẩu khí đốt của Nga vẫn khá hạn chế. Nga bắt đầu xuất
khẩu khí đốt sang châu Á từ năm 2009 nhưng cho đến năm 2014, châu Á mới chỉ chiếm 7%
lượng khí xuất khẩu của nước này [21; tr.265]. Các dự án khí đốt mà Nga đang theo đuổi ở
khu vực Đông Siberia và vùng Viễn Đông chủ yếu nằm trên đảo Sakhalin, ngoài khơi Thái
Bình Dương. Đây đều là các dự án do Tập đoàn Khí đốt Gazprom và Công ty Dầu khí Nga
Rosneft hợp tác với các công ty năng lượng phương Tây thực hiện. Tuy nhiên, năm 2009,
Nga đã công bố “Chiến lược năng lượng đến năm 2030”, trong đó đưa ra tầm nhìn về những
cải cách căn bản nhằm đưa ngành năng lượng hoạt động hiệu quả hơn, sinh lời cao hơn và
bền vững hơn. Chiến lược này ưu tiên phát triển nguồn dầu mỏ và khí đốt tại Đông Siberia
và vùng Viễn Đông, đồng thời với việc tăng nguồn khí xuất khẩu sang châu Á. Thực tế này
đã được D.Medvedev xác định khi còn đương nhiệm Tổng thống (2008): “Chúng ta đang ở
nhà, trên lục địa châu Âu, chúng ta có thể tự quyết định: chúng ta cần hệ thống ống dẫn khí
đốt nào, dẫn đi đâu và xây dựng các mối quan hệ trên cơ sở nào. Vì vậy, tôi nhắc lại: châu
Âu là một hướng hợp tác cần được ưu tiên…Hướng thứ ba. Không phải tuân theo ý nghĩa
mà theo vị trí địa lý – Vùng Viễn Đông và châu Á” [23; tr.27]; [18; tr.194].
Thứ hai, mặc dù những thị trường lớn như Trung Quốc, Nhật Bản là một lực kéo
hướng ngành dầu khí của Nga về châu Á nhưng khó có thể không nghĩ đến lực đẩy đằng sau
chiến lược “xoay trục châu Á”. Năm 1997, khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu xảy ra,
kinh tế Nga bị đe dọa bởi tăng trưởng chậm, nợ cao và lạm phát, cùng với niềm tin của nhà
24


đầu tư suy giảm. Xuất khẩu dầu thô và khí đốt chiếm 52% ngân sách chính phủ Nga, trong
khi ngân sách đã bị thâm hụt nặng nề. Việc cân đối ngân sách phụ thuộc lớn vào đà tăng giá
dầu và đánh thuế cao hơn đối với các công ty năng lượng. Các công ty như Gazprom đang
thiếu vốn để đầu tư vào các mỏ khí mới, đặc biệt ở vùng Viễn Đông vốn có trữ lượng lớn.

Nadym-pur-Taz, mỏ khí chiếm đến 90% sản lượng khí đốt của Nga đã đạt công suất tối đa.
Theo ước tính, từ nay đến 2030, Nga sẽ cần đầu tư 700 tỉ USD chỉ để giữ sản lượng của
ngành dầu khí ở mức hiện tại [33; tr.5].
Sự độc tôn của Nga trên thị trường dầu khí cũng ngày càng suy giảm đòi hỏi Nga cần
có những thị trường mới ổn định. Theo các số liệu năm 2002, Nga với thị phần chiếm 20,1%
thị trường thế giới, vẫn là nước xuất khẩu khí đốt lớn nhất, bỏ xa Qatar ở vị trí thứ hai, với
thị phần 11,6%. Nhưng thị phần của Nga đang suy giảm do cuộc cách mạng dầu và khí đá
phiến tại Mĩ và hoạt động xuất khẩu LNG từ Trung Đông vào châu Á-Thái Bình Dương.
Trong lúc trữ lượng khí đá phiến tiếp tục được phát hiện trên khắp thế giới thì Nga chỉ đứng
thứ chín về trữ lượng đá phiến có thể khai thác [33; tr.3-4]. Như vậy, nguồn cung trên thị
trường toàn cầu tăng sẽ dẫn đến sự dư thừa khí đốt từ Nga trong tương lai là điều không thể
tránh khỏi.
Thứ ba, Gazprom - tập đoàn dầu khí lớn nhất, có sức ảnh hưởng nhất đến kinh tế Nga
có phần lớn doanh thu đến từ việc bán khí đốt cho phương Tây với giá cao. Dù hiện vẫn là
nhà cung ứng khí đốt lớn nhất ở châu Âu, nhưng Gazprom đang mất dần thị phần tại đây.
Chính phủ các nước châu Âu đang xây dựng hạ tầng dầu khí mới. Ba Lan và Latvia đang
xây dựng các cảng LNG riêng để giảm sự phụ thuộc vào đường ống của Nga. Một số nước
châu Âu cũng đã lên kế hoạch xây dựng các đường ống dẫn khí mới để hạn chế sự thao túng
của Nga như dự án đường ống Nabucco đầy tham vọng, dự kiến chạy từ Azerbaijan qua
Gruzia và Thổ Nhĩ Kí tới biên giới Bulgari; dự án Đường ống xuyên bán đảo Anatolia
(TANAP) và Đường ống xuyên biển Adriatic (TAP) dự kiến hoàn thành trước năm 2020.
Thêm vào đó, xu hướng ly tâm năng lượng Nga của các nước châu Âu và khả năng
phải chia sẻ thị trường Tây Âu với các nước xuất khẩu năng lượng Bắc Mỹ (Mỹ, Canada,
Brazil, Colombia) từ sau sự kiện Crimea (2014) càng thúc đẩy hơn nữa chính sách “hướng
Đông” của Nga.
25


×