TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA THƯƠNG MẠI-DU LỊCH-MARKETING
MÔN QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ
Đề tài:
TOÀN CẦU HÓA
VÀ MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN
CỦA TRUNG QUỐC VÀ NHẬT BẢN
Giảng viên hướng dẫn: Ths. Quách Thị Bửu Châu
Thực hiện : Nhóm P2VN
Giảng đường : KDQT-K35
o0o
Năm học 2011 – 2012
DANH SÁCH NHÓM P2VN
TÊN MSSV LỚP-K35 NHIỆM VỤ MỨC ĐỘ
HOÀN
THÀNH
PHẠM THỊ KIM
NGỌC
3109102047
7
KD1
Nội dung 95%
TRẦN THỊ KIM
PHƯƠNG
*
3109102449
7
KD3
Nội dung,
thuyết trình
95%
VÕ THỊ PHƯỢNG 3109102383
5
KD3
Nội dung 95%
LÊ DUY VINH 3109102451
3
KD3
Nội dung, IT 95%
*: Nhóm Trưởng
2
Toàn Cầu Hóa Và Môi Trường Tự Nhiên Của Trung Quốc Và Nhật Bản
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
gày nay, toàn cầu hóa là xu hướng chung của thế giới. Nhưng toàn
cầu hóa là gì? Thật đáng ngạc nhiên, người ta lại rất khó trả lời và đi
đến thống nhất về khái niệm toàn cầu hóa. Theo ông Thomas
Friedman (tác giả của “Chiếc Lexus và cây ô liu” và “Thế giới
phẳng”) thì toàn cầu hóa là một thế lực không gì ngăn cản nổi, được thúc đẩy bởi
những bước tiến dài trong các lĩnh vực công nghệ, truyền thông, tài chính v.v. cho
phép con người, hàng hóa, thông tin, và các dòng vốn lưu chuyển xuyên biên giới với
một quy mô chưa từng thấy, từ đó kiến tạo nên diện mạo của những con người tự do
và những quốc gia thịnh vượng. Còn theo David Held (tác giả của “Global
Transformations: Politics, Economics and Culture” và một vài cuốn sách khác về toàn
cầu hóa) thì toàn cầu hóa là một phong trào rộng lớn trong lịch sử phát triển của loài
người và có những hệ quả rộng lớn và sâu sắc đối với mọi mặt của đời sống con
người, xã hội, và thế giới. Sự bất đồng này về quan điểm phản ánh phạm vi bao trùm
và tính phức tạp của toàn cầu hóa: bao trùm đến nỗi hình như mỗi người đều thấy
mình bị toàn cầu hóa tác động theo cách này cách khác, và phức tạp đến nỗi không
một cá nhân nào có thể nhận thức đầy đủ về nó.
N
Nếu như khái quát, toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã
hội và trong nền kinh tế thế giới, là một quá trình tương tác và hội nhập, tạo ra bởi
mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân
ở góc độ môi trường, chính trị-luật pháp, văn hóa và kinh tế. Có rất nhiều làn sóng
hiện tại của toàn cầu hóa tương tự như những thực trạng trước khi bùng nổ của Thế
chiến thứ nhất vào năm 1914. Việc quản lý dòng chảy của vốn, lao động, hàng hóa, và
ý tưởng tạo nên làn sóng toàn cầu hóa hiện tại của mỗi quốc gia cần được quan tâm.
3
Toàn Cầu Hóa Và Môi Trường Tự Nhiên Của Trung Quốc Và Nhật Bản
Để tìm sự cân bằng giữa mặt lợi và mặt hại liên quan đến toàn cầu hóa, mỗi công dân
của mọi quốc gia cần phải hiểu các công trình toàn cầu hóa như thế nào và lựa chọn
chính sách phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia.
Làn sóng toàn cầu hóa đã để lại nhiều hệ quả sâu sắc. Toàn cầu hóa có ý nghĩa rất lớn
đối với môi trường, chính trị-luật pháp, văn hóa và kinh tế. Tuy nhiên, việc khẳng
định toàn cầu hóa ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đối với những góc độ trên còn rất
nhiều tranh cãi. Toàn cầu hóa có thể là thuốc chữa tất cả các căn bệnh của thế giới hay
là nguyên nhân gây ra những căn bệnh đó. Các cuộc tranh luận về vấn đề liên kết giữa
môi trường tự nhiên và toàn cầu hóa cũng bị mắc kẹt trong vũng lầy của những nghi
vấn trên. Môi trường tự nhiên là địa bàn và đối tượng của toàn cầu hóa, còn toàn cầu
hóa là nguyên nhân tạo nên sự biến đổi của môi trường tự nhiên. Tuy nhiên toàn cầu
hóa cũng mang lại áp lực, đè nặng lên môi trường tự nhiên, sử dụng và khai thác quá
mức ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên của quốc gia. Vì vậy phải cân đối như thế
nào để có thể mang đến những cơ hội và hạn chế những thách thức mà toàn cầu hóa
tạo ra đối với việc đầu tư và phát triển của quốc gia.
Môi trường tự nhiên liên quan đến phát triển kinh tế và thúc đẩy toàn cầu hóa của
quốc gia. Môi trường tự nhiên cung cấp nguồn tài nguyên thiên nhiên và hệ sinh thái –
nền tảng cho cuộc sống của con người. Toàn cầu hóa tạo ra dòng vốn, mang đến trình
độ, công nghệ, khoa học kỹ thật và tạo ra điều kiện thuận lợi để phát triển môi trường
tự nhiên cũng như tận dụng những yếu tố tự nhiên này để góp phần thúc đẩy, phát
triển nền kinh tế quốc dân. Tầm quan trọng về mối liên hệ giữa toàn cầu hóa và môi
trường tự nhiên là rất lớn. Tuy nhiên sự hiểu biết của chúng ta về sự tương tác giữa
chúng vẫn còn yếu kém. Cần phải gắn liền thúc đẩy toàn cầu hóa và trách nhiệm môi
trường, phát triển môi trường tự nhiên là mục tiêu của toàn cầu hóa chứ không phải là
một nạn nhân.
Trong khu vực Châu Á, Trung Quốc và Nhật Bản là hai quốc gia có tốc độ phát triển
cao và hội nhập nhanh với xu hướng toàn cầu hóa. Mặc khác, hai quốc này có khác
biệt lớn về môi trường tự nhiên. Trung Quốc là quốc gia có diện tích trải dài, tiếp giáp
với nhiều quốc gia, còn Nhật Bản là quốc gia hải đảo, được bao bọc chủ yếu bởi biển,
hơn nữa, Nhật Bản nghèo khoáng sản. Điều kiên phát triển cũng như tác động của môi
4
Toàn Cầu Hóa Và Môi Trường Tự Nhiên Của Trung Quốc Và Nhật Bản
trường tự nhiên đến hai quốc gia này khác nhau. Như vậy, toàn cầu hóa và môi trường
tự nhiên của hai quốc gia này ảnh hưởng qua lại như thế nào. Để có thể hiểu rõ hơn về
những vấn đề liên quan này, nhóm P2VN xin giới thiệu bài tiểu luận về Toàn cầu hóa
và môi trường tự nhiên của Châu Á và xin chọn Trung Quốc và Nhật Bản là hai quốc
gia đại diện của khu vực Châu Á để phân tích tác động toàn cầu hóa và môi trường tự
nhiên và cơ hội kinh doanh quốc tế. P2VN mong nhận được sự góp ý quý báo của cô
và các bạn về bài tiểu luận này. Xin trân trọng cảm ơn!
5
Toàn Cầu Hóa Và Môi Trường Tự Nhiên Của Trung Quốc Và Nhật Bản
I. TOÀN CẦU HÓA VÀ MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN CỦA TRUNG
QUỐC VÀ NHẬT BẢN
1. TRUNG QUỐC
1.1. Môi Trường Tự Nhiên
Vị Trí Địa Lý
Trung Quốc có diện tích 9.571.300 km² chiếm 65% đất thổ của thế giới, có diện tích
gấp 29 lần Việt Nam. Tọa độ địa lý từ Nam sang Bắc là 200B – 530B dài 3650 Km,
từ Đông sang Tây là 730Đ – 1350Đ dài 5700 Km, có đường biên giới với 14 quốc
gia và lãnh thổ bao gồm: Nga, Mông Cổ, Triều Tiên, Việt Nam, Myanma, Bhutan,
Nepal, ẤnĐộ, Pakistan, Afghanistan, Tajikistan, Kazakhstan, Kyrgyzstan và Lào.
Trung Quốc là quốc gia lớn thứ 4 thế giới về tổng diện tích (sau Nga, Canada và
Hoa Kỳ). Trung Quốc có đường bờ biển dài 18000 Km giáp với biển Hoàng Hải, Hoa
Đông, Biển Đông của Thái bình Dương.
Khí Hậu
Do đất nước rộng lớn, địa hình phức tạp, độ cao chênh lệch lớn nên khí hậu Trung
Quốc khá phức tạp, đa dạng, hơn nữa nằm trong khu vực bắc ôn đới, thuộc khí hậu
gió mùa lục địa, nên hầu hết các vùng có bốn mùa rõ rệt, mùa đông lạnh giá,mùa hè
nóng nực. Từ nam lên bắc lần lượt là các vùng nhiệt đới, á nhiệt đới, trung ôn đới,
hàn ôn đới,… Còn khí hậu vùng cao nguyên Thanh Tạng là vùng khí hậu theo đường
thẳng đứng.
Mùa đông, phần lớn lãnh thổ nghìn dặm băng giá, vạn dặm tuyết rơ, ngay khu Mạc
Hà nhiệt độ trung bình trong tháng riêng là -30
0
C, trong khi đó ở phía Nam đảo Hải
Nam trung bình là 20
0
C. Đặc điểm khí hậu Trung Quốc là về mùa đông đa số các
vùng lạnh giá, khí hậu miền Nam Bắc chênh lệch rõ rệt. Về mùa hè do ánh mặt trời
chiếu thẳng xuống Bắc bán cầu nên miền Bắc ngày dài hơn, về mùa đông mặt trời
chiếu tới hai miền Nam Bắc nên ngày gần như nhau. Trừ vùng cao nguyên Thanh
Tạng có địa hình quá cao ra, cả nước đều nóng ấm, khí hậu chênh lệch không nhiều.
Đa số các vùng do ảnh huởng dòng khí vùng biển ẩm, thổi vào lục địa nên mưa
nhiều, nhưng lượng mưa giữa các vùng và các mùa không đều nhau. Miền Đông
mưa nhiều, miền Tây ít. Từ Đông Nam tới Tây Bắc lượng mưa giảm dần đồng thời
mưa nhiều vào mùa hạ. Miền Nam mùa mưa kéo dài từ tháng 5 tới tháng 10. Miền
Bắc mùa mưa ngắn, tập trung vào tháng 7, tháng 8. Lượng mưa hàng năm cũng
không đều, năm nhiều, năm ít và chênh nhau rất lớn. Đa số các miền của Trung
Quốc nằm về phía Bắc vĩ tuyến bắc nên mùa đông thời gian mặt trời chiếu ngắn,
nhận được năng lượng mặt trời ít, càng về phía Bắc càng ít nên thời tiết càng lạnh.
6
Toàn Cầu Hóa Và Môi Trường Tự Nhiên Của Trung Quốc Và Nhật Bản
Mùa hè do mặt trời chiếu thẳng xuống bán cầu tới gian mặt trời chiếu nhiều hơn
nên nhiệt độ cao hơn.
Địa Hình
Trung Quốc kéo dài khoảng 5.026 km ngang qua theo khối lục địa Đông Á giáp với
biển Đông Trung Hoa,vịnh Triều Tiên, Hoàng Hải, và biển Đông, giữa Bắc Triều
Tiên và Việt Nam trong một hình dạng thay đổi của các đồng bằng rộng lớn, các sa
mạc mênh mông và các dãy núi cao chót vót. Đây là quốc gia có địa hình đa dạng
với với cao nguyên và sa mạc ở khu vực phía bắc gần Mông Cổ và Siberi của Nga,
rừng cận nhiệt đới ở miền nam gần Việt Nam, Lào, Myanmar.
Địa hình cao và hiểm trở, 60% diện tích là núi cao trên 1000 m. Địa hình cao về
phía Tây và thấp dần về phía Đông.
Phía Đông của quốc gia này là các vùng duyên hải rìa các đảo- một vùng bình
nguyên phì nhiêu, đồi và núi, các sa mạc và các thảo nguyên và các khu vực cận
nhiệt đới. Đây là vùng đồng bằng thấp, có 14.500 km chiều dài bờ biển. Trong vùng
trung tâm của phía đông là các châu thổ của hai con sông chính Hoàng Hà và
Dương Tử. Những con sông lớn khác gồm có Tây Giang, Lan Thương Giang (Mê
Kông), Brahmaputra và Hắc Long Giang.
Phía Tây của Trung Quốc là một vùng các lưu vực chìm trong các cao nguyên, các
khối núi, bao gồm phần cao nguyên cao nhất trên trái đất. Địa hình ở phía tây gồ
ghề với các dãy núi cao, đáng lưu ý nhất là dãy Hymalaya với đỉnh cao nhất của
Trung Quốc cũng như của thế giới là đỉnh Everest kết hợp với dãy Thiên Sơn hình
thành biên giới tự nhiên với Ấn Độ và các quốc gia thuộc khu vực Trung Á. Trung
Quốc cũng có cao nguyên Tây Tạng về phía Nam. Cao nguyên Tây Tạng là một cao
nguyên rộng lớn với cao độ cao. Về phía Bắc của cao nguyên Tây Tạng là các Sa
mạc Gobi và Taklamakan, trải ra từ Cực Tây Bắc về phía Đông qua Mông Cổ
Khoáng Sản
Trung Quốc có tài nguyên khoáng sản phong phú, đã khám phá rõ chiếm 12% tổng
lượng thế giới, đứng thứ 3 trên thế giới. Cho đến nay, Trung Quốc phát hiện 171
loại khoáng sản, trong đó có 158 loại khoáng sản đã được khám phá rõ trữ lượng
(khoáng sản năng lượng 10 loại, khoáng sản kim loại màu đen 5 loại, khoáng sản
kim loại màu 41 loại, khoáng sản kim loại quý 8 loại, khoáng sản phi kim loại 91
loại, khoáng sản dạng khí khác 3 loại). Trung Quốc đã trở thành một trong những
ít nước có tổng lượng tài nguyên khoáng sản phong phú. Tính theo trữ lượng khám
phá rõ, 25 loại khoáng sản trong 45 loại khoáng sản chủ yếu Trung Quốc đứng ngôi
thứ 3 trở lên trên thế giới, trong đó 12 loại khoáng sản như nguyên tố đất hiếm,
7
Toàn Cầu Hóa Và Môi Trường Tự Nhiên Của Trung Quốc Và Nhật Bản
thạch cao, vanađi, titan, tantan, vônfram, graphit, sunfat natri ngậm nước, barit,
quặng magnesit và stibi… đứng đầu thế giới.
Tình hình phân bố tài nguyên khoáng sản Trung Quốc như sau: dầu mỏ và khí đốt
thiên nhiên chủ yếu phân bố ở miền Đông Bắc, Hoa Bắc và Tây Bắc. Than đá chủ
yếu phân bố tại miền Hoa Bắc và Tây Bắc. Sắt chủ yếu phân bố tại miền Đông Bắc,
Hoa Bắc và Tây Nam. Đồng chủ yếu phân bố tại miền Tây Nam, Tây Bắc và Hoa
Đông. Quặng chì và quặng kẽm phân bố khắp nước. Quặng vônfram, quặng thiếc,
quặng môlypđen, quặng stibi và quặng nguyên tố đất hiếm chủ yếu phân bố tại
miền Hoa Nam và Hoa Bắc. Quặng vàng và quặng bạc phân bố khắp nước, Đài
Loan cũng có nơi sản xuất quan trọng. Quặng phốtpho chủ yếu phân bố tại miền
Hoa Nam.
Tài nguyên khoáng sản chủ yếu bao gồm:
Tài nguyên than đá: trữ lượng than đá Trung Quốc đứng đầu thế giới. Cả nước có
trữ lượng than đá đã khám phá rõ là 1000 tỷ tấn, chủ yếu phân bố tại khu vực miền
Hoa Bắc và Tây Bắc, nhất là ở tỉnh Sơn Tây, tỉnh Thiểm Tây, Khu tự trị Nội Mông có
trữ lượng nhiều nhất.
Tài nguyên dầu khí: chủ yếu tàng trữ tại khu vực miền Tây Bắc, thứ đến khu vực
miền Đông Bắc, Hoa Bắc và thềm lục địa biển cạn ven biển ở khu vực miền Đông
Nam. Tính đến cuối năm 1998, Trung Quốc đã khám phá 509 mỏ dầu và 163 mỏ khí
đốt thiên nhiên. Trữ lượng dầu mỏ và khí đốt thiên nhiên đã khám phá rõ lần lượt
là 19,85 tỷ tấn và 1950 tỷ mét khối, đứng thứ 9 và thứ 20 trên thế giới. Trong đó,
trữ lượng dầu mỏ và trữ lượng khí đốt thiên nhiên trên đường bộ lần lượt chiếm
73,8% và 78,4% tổng trữ lượng tài nguyên cùng loại Trung Quốc, đã hình thành 6
khu vực sản xuất dầu khí cỡ lớn như Khu sản xuất dầu khí Tùng Liêu, vịnh Bột Hải,
Ta-lim, Dun-cát-Tu-lu-phan, Tứ Xuyên, Thiểm Cam Ninh.
Khoáng sản kim loại chủ yếu bao gồm:
Kim loại màu đen: Trung Quốc đã khám phá rõ trữ lượng sắt, mangan, vanađi và
titan, trong đó trữ lượng quặng sắt có gần 50 tỷ tấn, chủ yếu phân bố tại tỉnh Liêu
Ninh, Hà Bắc, Sơn Tây và TứXuyên.
Kim loại màu: những quặng kim loại màu phát hiện trên thế giới, thì ở Trung Quốc
đều có. Trong đó, trữ lượng nguyên tố đất hiếm chiếm khoảng 80% tổng lượng thế
giới, trự lưỡng quặng stibi chiếm 40% tổng lượng thế giới, trữ lượng quặng
vônfram tăng gấp 4 lần trữ lượng các nước khác trên thế giới.
Yếu Tố Tự Nhiên Khác
8
Toàn Cầu Hóa Và Môi Trường Tự Nhiên Của Trung Quốc Và Nhật Bản
Môi trường sinh vật
Trung Quốc cũng là một trong những nước có tài nguyên thực vật dồi dào nhất
trên thế giới, có khoảng hơn 30 nghìn loài thực vật, xếp thứ 3 trên thế giới chỉ đứng
sau Ma-lai-xi-a và Bra-xin.
Trung Quốc hầu như có tất cả các thực vật chủ yếu trong Hàn Đới, Ôn Đới và Nhiệt
Đới ở Bắc bán cầu. Trung Quốc có hơn 2000 loài thực vật có thể ăn được; hơn 3000
loài thực vật có thể làm thuốc dược, nhân sâm của núi Trường Bạch Sơn, Hồng Hoa
của Tây Tạng, Cẩu Kỷ của Ninh Hạ, Tam Thất của Vân Nam và Quý Châu đều thuộc
thuốc bắc quý. Trung Quốc cũng có rất nhiều loài hoa cỏ, hoa Mẫu Đơn—“nhà vua
trong hoa cỏ” chỉ có ở Trung Quốc, hoa Mẫu Đơn có bông hoa lớn, nhiều cánh, màu
sắc tươi đẹp, là một trong những hoa tiêu biểu của Trung Quốc.
Theo khí hậu, từ miền bắc sang miền nam, vùng rừng Trung Quốc có vùng rừng cây
lá nhọn ở Hàn Đới và Ôn Đới. Trong đó, chẳng có khu vực nào trong dải có độ vĩ bắc
giống nhau trên thế giới có thể so sánh với vùng rừng Á Nhiệt Đới về tính đa dạng
và tính quan trọng của loài giống động thực vật.
Môi trường đất
Trung Quốc có đất đai rộng mênh mông, loại hình tài nguyên đất đai da dạng.
Ruộng đất, vùng rừng, đồng cỏ, hoang mạc, bãi lầy rải rác tại Trung Quốc với diện
tích lớn. Nhưng Trung Quốc có đất đồi nhiều, đồng bằng ít, ruộng đất và vùng rừng
chiếm tỷ lệ nhỏ. Tài nguyên đất đai các loại rải rác không đồng đều, ruộng đất chủ
yếu tập trung ở khu vực đồng bằng và vùng lòng chảo thuộc khu vực gió mùa miền
đông; đồng cỏ chủ yếu rải rác ở vùng cao nguyên và vùng núi ở đất liền; phần lớn
vùng rừng tập trung ở vùng hẻo lánh ở miền đông bắc và tây nam. Trung Quốc hiện
nay có diện tích vùng rừng 158 triệu 940 nghìn héc-ta. Vùng rừng thiên nhiên
Trung Quốc phần lớn tập trung rải rác ở khu vực miền đông bắc và tây nam, ở
vùng đồng bằng miền đông với dân số đông, kinh tế phát triển và ở khu vực miền
tây bắc rộng mênh mông, vùng rừng rất ít ỏi.
1.2. Sự Tác Động Qua Lại Của Toàn Cầu Hóa Và Tự Nhiên
1.2.1.Tự Nhiên Tác Động Đến Toàn Cầu Hóa
1.2.1.1. Tích cực
Phía Đông bờ biển dài 9000 Km tạo thuận lợi cho việc giao lưu quốc tế, và phát triển
các ngành kinh tế biển như khai thác hải sản, đóng tàu, vận tải biển,…Gần với các khu
vực kinh tế phát triển năng động như Hàn Quốc, Nhật Bản, khu vực ASEAn thuận lợi
cho việc giao lưu kinh tế và hợp tác phát triển.
9
Toàn Cầu Hóa Và Môi Trường Tự Nhiên Của Trung Quốc Và Nhật Bản
Lãnh thổ trãi dài với các cảnh quan thiên nhiên đa dạng tạo điều kiện để phát triển
tổng hợp các ngành kinh tế.
Vùng núi thấp và các phù sa màu mỡ như vùng Đông Bắc, Hoa Bắc, Hoa Trung, Hoa
Nam có cơ hội phát triển các ngành nông nghiệp tạo ra nhiều nông sản xuất khẩu đến
các nước. Bên cạnh đó giao thông vận tải phát triển thuận lợi cho việc thu hút nhà đầu
tư. Vùng núi cao, có các sơn nguyên xen lẫn với các bồn địa thuận lợi cho phát triển
lâm nghiệp và chăn nuôi gia súc. Đi từ đông sang tây, địa hình Trung Quốc là những
bậc thang khổng lồ, làm thay độ dốc lòng sông, nước sông chảy xiết có giá trị lớn về
thủy điện.
Khí hậu Trung Quốc đa dạng. Miền tây có khí hậu ôn đới lục địa và khí hậu cận nhiệt
núi cao chủ yếu là ở Pamia và Tây Tạng với lượng mưa ít và lạnh. Miền đông có khí
hậu ôn đới gió mùa và khí hậu cận nhiệt đời gió mùa với lượng mưa tương đối lớn
nóng và ẩm. Nhờ sự đa dạng đó nên thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, cơ cấu cây
trồng phát triển phong phú.
1.2.1.2. Tiêu cực
Sự rộng lớn của quốc gia này và sự cằn cỗi của vùng nội địa phía tây kéo theo những
vấn đề quan trọng trong chiến lược phòng thủ. Dù có nhiều bến cảng tốt dọc theo
chiều dài bờ biển khoảng 18000 km nhưng định hướng truyền thống của đất nước
không phải ra biển mà hướng về đất liền, để phát triển thành một quốc gia hùng mạnh
với trung tâm ở Hoa Trung và Hoa Nam, vươn tới tận vùng đồng bằng bắc Hoàng Hà.
Khí hậu lục địa khắc nghiệt của Trung Quốc hình thành các vùng hoang mạc lớn.
Đồng thời hạn hán kéo dài và có lẽ kỹ thuật canh tác nông nghiệp nghèo nàn, các cơn
bão cát thường xuyên xảy ra vào mùa xuân ở Trung Quốc. Theo cơ quan Bảo vệ môi
trường Trung Quốc, sa mạc Gobi đang mở rộng và trở thành khởi nguồn của những
cơn bão cát ảnh hưởng đến Trung Quốc và các khu vực khác ở đông bắc Á như Đài
Loan, Triều Tiên và Nhật. Cát bụi từ đồng bằng phía bắc Trung Quốc còn tìm thấy ở
Bờ Tây nước Mỹ.Bão bụi gây nên do gió mạnh và bão, mưa bào mòn đất sa mạc, đất
trồng và gió thổi tung lên thành bụi. Nước biển bốc hơi và cùng với sóng biển tung
bọt mang theo bụi muối lan truyền vào không khí.Điều này ảnh hưởng tới việc sản
10
Toàn Cầu Hóa Và Môi Trường Tự Nhiên Của Trung Quốc Và Nhật Bản
xuất và phát triển nông nghiệp của Trung Quốc. Dẫn theo sản lượng xuất khẩu của
Trung Quốc ngày càng giảm sút.
Sự phụ thuộc của Trung Quốc vào năng lượng từ than đá làm cho chất lượng không
khí tồi tệ nhất trên thế giới. Năm 2000, Cơ quan quản lý bảo vệ môi trường Trung
Quốc (SEPA) đã tiến hành thử nghiệm chất lượng không khí trong hơn 300 thành phố
Trung Quốc, và thấy rằng gần hai phần ba không đạt được các tiêu chuẩn được thiết
lập bởi các Tổ chức Y tế Thế giới cho mức độ chấp nhận được của các hạt bụi gây ô
nhiễm trong không khí, đó cũng chính là những thủ thủ phạm chính trong bệnh đường
hô hấp và phổi. Thiệt hại về con người cũng dẫn đến chất lượng lao động ngày càng
kém gây tác động nhiều đến các ngành sản xuất đòi hỏi nhiều nhân công.
Mưa axit cũng ảnh hưởng đến hơn một phần tư đất của Trung Quốc, bao gồm cả một
phần ba đất nông nghiệp, gây thiệt hại cây trồng và thủy sản.
Theo báo cáo mới đây, đến năm 2020, tiêu thụ năng lượng của Trung Quốc sẽ tăng
gấp đôi do tăng trưởng kinh tế tăng gấp bốn. Trong năm 2003, tổng tiêu thụ năng
lượng của nước đông dân nhất thế giới này là 1,68 tỉ tấn, trong đó 67,1% là than,
22,7% dầu thô, 2,8% khí thiên nhiên và 7,3% năng lượng tái sử dụng. Theo thống kê,
hằng năm khoảng 2/3 khu vực ở Trung Quốc đã bị sụt giảm điện áp hoặc mất điện
thường xuyên. Nguồn cung điện thiếu là do không xây dựng đủ nhà máy điện trong
vòng vài năm qua, cũng như tiêu thụ điện năng tăng mạnh trong những ngành như
thép, nhôm, xi măng và công nghiệp hoá chất. Trong khi đó, kết quả khảo sát cho
thấy, trữ lượng năng lượng của Trung Quốc thấp hơn nhiều so với mức bình quân của
quốc tế. Thiếu hụt năng lượng và nhập khẩu năng lượng gia tăng sẽ cản trở tăng
trưởng kinh tế và đe doạ an ninh quốc gia và môi trường.
Hiện nay, có sự tương phản rất lớn về nguồn nước giữa phía Nam và phía Bắc của
Trung Quốc. Ở phía Nam thì lượng nước dồi dào, số lượng các hộ gia đình có thể sử
dụng nước sông từ 5% năm 1990 lên 55% 2005. Trong khi phía Bắc thì lượng nước
giảm dần do hiện tượng sa mạc hóa trở thành mối đe dọa nghiêm trọng ảnh hưởng đến
đời sống sinh hoạt của người dân, cũng như nhu cầu tưới tiêu phục vụ cây nông
nghiệp và công nghiệp.
11
Toàn Cầu Hóa Và Môi Trường Tự Nhiên Của Trung Quốc Và Nhật Bản
Đặc biệt, mưa nhiều và bão lớn đã khiến Trung Quốc đang phải trải qua những trận lũ
lụt tồi tệ nhất trong vòng ít nhất một thập kỷ trở lại đây và biến mùa hè năm 2005 tại
đây thành mùa chết chóc. Theo AFP, mưa lũ từng hoành hành các vùng phía Nam,
miền Trung và gần đây là vùng Đông Bắc Trung Quốc đã khiến 1,4 triệu ngôi nhà đã
bị phá hủy và thiệt hại ước tính lên đến 275 tỉ nhân dân tệ, tương đương 30 tỉ euro.
Tại miền Nam Trung Quốc, mưa như trút nước đã gây vỡ đê, sạt lở đất, cắt đứt hệ
thống đường bộ, đường sắt chạy qua khu vực này. Theo số lượng thống kê, đến nay tại
khu vực này đã có 210 người chết, 119 người mất tích và buộc hơn 2.400.000 người
phải đi sơ tán đến nơi an toàn. Lũ lụt gây thiệt hại về kinh tế khoảng 6,2 tỷ USD,
1.600.000ha đất nông nghiệp bị ngập, khoảng 195.000 ngôi nhà bị phá hủy hoàn toàn
và đẩy hơn 2 triệu người bị ảnh hưởng nặng nề. Còn tại các tỉnh miền Đông Trung
Quốc lụt nặng, làm 107 người chết và 59 người mất tích.Tình hình mưa lũ tại các tỉnh
khu vực phía Nam Trung Quốc tiếp tục diễn biến theo chiều hướng xấu.
Khu vực Tây Bắc và miền Trung nước này đang trải qua đợt nắng nóng bất thường,
đặc biệt nhiệt độ tại Khu tự trị Tân Cương có thể lên tới 45 độ C. Các tỉnh Hà Nam,
An Huy, Sơn Tây và Khu tự trị Nội Mông có nhiệt độ trung bình từ 35-37 độ C.
Vấn đề ô nhiễm tại Trung Quốc rất lớn, tác hại không chỉ đến con người, môi trường,
mà cả đến kinh tế. Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới cho thấy rằng tác hại của vấn
đề môi trường đối với mức tăng trưởng của Trung Quốc có thể lên đến 4% hay 5%.
Theo dự báo của các chuyên gia, trong vòng 15 năm tới, Trung Quốc đặt mục tiêu trở
thành một xã hội sung túc – GDP sẽ tăng gấp 4 lần – nhưng nếu Trung Quốc vẫn duy
trì mức sản xuất và tiêu dùng hiện tại thì ô nhiễm và tiêu thụ năng lượng ở nước này
cũng sẽ tăng gấp 4 lần. Nhũng điều này có thể làm cho quá trình toàn cầu hóa bị đình
trệ và chậm hơn ở Trung Quốc.
1.2.2.Toàn Cầu Hóa Tác Động Đến Tự Nhiên
1.2.2.1. Tích cực
Xu hướng toàn cầu hóa có thể nâng cao điều kiện sống về vật chất và tinh thần của
con người qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải tiến quan hệ xã hội, nâng cao chất
lượng văn hoá và cải tạo lại môi trường tự nhiên. Phát triển là xu thế chung của từng
cá nhân và cả loài người trong quá trình sống. Giữa môi trường tự nhiên và sự phát
12
Toàn Cầu Hóa Và Môi Trường Tự Nhiên Của Trung Quốc Và Nhật Bản
triển có mối quan hệ hết sức chặt chẽ: môi trường tự nhiên là địa bàn và đối tượng của
sự phát triển, còn phát triển là nguyên nhân tạo nên các biến đổi của môi trường tự
nhiên.
Trong hệ thống kinh tế xã hội, hàng hoá được di chuyển từ sản xuất, lưu thông, phân
phối và tiêu dùng cùng với dòng luân chuyển của nguyên liệu, năng lượng, sản phẩm,
phế thải. Các thành phần đó luôn ở trạng thái tương tác với các thành phần tự nhiên và
xã hội của hệ thống môi trường đang tồn tại trong địa bàn đó. Khu vực giao nhau giữa
hai hệ thống trên là môi trường nhân tạo.
Tác động của toàn cầu hóa đến môi trường thể hiện ở khía cạnh có lợi là cải tạo môi
trường tự nhiên hoặc tạo ra kinh phí cần thiết cho sự cải tạo đó. Toàn cầu hóa có thể
mang công nghệ môi trường đền các nước có môi trường bị ô nhiễm hay tài nguyên bị
cạn kiệt. Công nghệ môi trường là tổng hợp các biện pháp vật lý, hoá học, sinh học
nhằm ngăn ngừa và xử lý các chất độc hại phát sinh từ quá trình sản xuất và hoạt động
của con người. Công nghệ môi trường bao gồm các tri thức dưới dạng nguyên lý, quy
trình và các thiết bị kỹ thuật thực hiện nguyên lý và quy trình đó. Công nghệ sạch là
quy trình công nghệ hoặc giải pháp kỹ thuật không gây ô nhiễm môi trường, thải hoặc
phát ra ở mức thấp nhất chất gây ô nhiễm môi trường. Nhờ vào toàn cầu hóa, Trung
Quốc có thể áp dụng các công nghệ gọi là sản xuất sạch. Sản xuất sạch cải tiến liên
tục quá trình sản xuất công nghiệp, sản phẩm và dịch vụ để giảm sử dụng tài nguyên
thiên nhiên, để phòng ngừa tại nguồn ô nhiễm không khí, nước và đất, và giảm phát
sinh chất thải tại nguồn, giảm thiểu rủi ro cho con người và môi trường:
- Đối với quá trình sản xuất: Sản xuất sạch hơn bao gồm tiết kiệm nguyên vật liệu,
năng lượng, loại trừ các nguyên liệu độc, giảm lượng và độ độc của các dòng thải
trước khi đi ra khỏi quá trình sản xuất.
- Đối với sản phẩm: Sản xuất sạch hơn làm giảm ảnh hưởng trong toàn bộ vòng đời của
sản phẩm từ khâu chế biến nguyên liệu đến khâu thải bỏ cuối cùng.
Có thể áp dụng công nghệ sạch và sản xuất sạch đối với các quy trình sản xuất trong
bất kỳ ngành công nghiệp nào và bất kỳ sản phẩm công nghiệp nào. Đối với các quá
trình sản xuất, công nghệ sạch nhằm giảm thiểu các tác động môi trường tự nhiên và
an toàn của các sản phẩm trong suốt chu trình sống của sản phẩm, bảo toàn nguyên
13
Toàn Cầu Hóa Và Môi Trường Tự Nhiên Của Trung Quốc Và Nhật Bản
liệu, nước, năng lượng, loại bỏ các nguyên liệu độc hại, nguy hiểm, giảm độc tính của
các khí thải, chất thải ngay từ khâu đầu của quy trình sản xuất.
Toàn cầu hóa làm cho ngành du lịch Trung Quốc phát triển. Điều này cũng có thể tác
động tích cực đến môi trường tự nhiên. Các tác động tích cực có thể gồm:
- Bảo tồn thiên nhiên: Du lịch góp phần khẳng định giá trị và góp phần vào việc bảo tồn
các diện tích tự nhiên quan trọng, phát triển các Khu Bảo tồn và Vườn Quốc gia.
- Tăng cường chất lượng môi trường: Du lịch có thể cung cấp những sáng kiến cho việc
làm sạch môi trường thông qua kiểm soát chất lượng không khí, nước, đất, ô nhiễm
tiếng ồn, thải rác và các vấn đề môi trường khác thông qua các chương trình quy
hoạch cảnh quan, thiết kế xây dựng và bảo dưỡng các công trình kiến trúc.
- Đề cao môi trường: Việc phát triển các cơ sở du lịch được thiết kế tốt có thể đề cao
giá trị các cảnh quan.
- Cải thiện hạ tầng cơ sở: Các cơ sở hạ tầng của địa phương như sân bay, đường sá, hệ
thống cấp thoát nước, xử lý chất thải, thông tin liên lạc có thể được cải thiện thông
qua hoạt động du lịch.
- Tăng cường hiểu biết về môi trường của cộng đồng địa phương thông qua việc trao
đổi và học tập với du khách.
1.2.2.2. Tiêu cực
Ngoài những tác động tích cực, toàn cầu hóa có thể gây ra ô nhiễm môi trường tự
nhiên hoặc nhân tạo. Mặt khác, môi trường tự nhiên đồng thời cũng tác động đến sự
phát triển kinh tế xã hội thông qua việc làm suy thoái nguồn tài nguyên đang là đối
tượng của hoạt động phát triển hoặc gây ra thảm hoạ, thiên tai đối với các hoạt động
kinh tế xã hội trong khu vực. Để đạt được sự phát triển kinh tế như hiện tại với GDP
trung bình hằng năm trên 8% thì Trung Quốc phải đổi lại việc môi trường bị tác động
mạnh mẽ. Chúng ta thấy rằng, toàn cầu hóa ở Trung Quốc đã gây ra quá trình đô thị
hóa và công nghiệp hóa nhanh chóng đã dẫn đến việc ô nhiễm môi trường
Những ảnh hưởng này được kết hợp bởi các nguồn tài nguyên có sẵn của Trung quốc.
Trung Quốc bị thiếu nước, Trung Quốc có 20% dân số thế giới nhưng chỉ có 7%
nguồn tài nguyên nước toàn cầu. Hơn nữa Trung Quốc phụ thuộc lớn vào nguồn tài
nguyên than đá như một nguyên liệu để tạo ra năng lượng ( Trung Quốc có dự trữ than
đá lớn thứ 3 thế giới), đây là nguồn nguyên liệu gây ô nhiễm môi trường rất lớn.
14
Toàn Cầu Hóa Và Môi Trường Tự Nhiên Của Trung Quốc Và Nhật Bản
Nguyên nhân đằng sau sự gia tăng ô nhiễm
Môi trường bị ô nhiễm
Đô Thị Hóa Nhanh
• Tiêu dùng gia tăng nhanh chóng
• Sự di cư dân từ nông thôn lên thành phố
• Canh tác đất nông nghiệp với cường độ lớn (Ví dụ việc sử dụng phân bón hóa học nhiều)
Công Nghiệp Hóa Nhanh
• Tốc độ phát triển về sản xuất nông nghiệp-trung bình 12%/năm, Trung quốc đứng thứ 3 thế giới về sản
lượng nhà máy.
• Phụ thuộc lớn vào ngành Công nghiệp nặng (như sắt, thép, máy móc, hóa dầu…)
Ô Nhiễm Không Khí
• Khí thải từ động cơ xe
• Năng lượng truyền thống ( Đặc biệt là nhà máy điện than đá)
• Khí thải từ ngành công nghiệp nặng
Ô Nhiễm Nước
• Việc sử lý nước thải và chất thải rắn không phù hợp
• Nước thải công nghiệp, mưa axit
• Thuốc trừ sâu và phân bón tác động lớn đến lớp đất bề mặt
Ô Nhiễm Đất
• Chất thải xây dựng
• Chất thải kim loại
15
Toàn Cầu Hóa Và Môi Trường Tự Nhiên Của Trung Quốc Và Nhật Bản
• Chất thải khí
• Chất thải hóa học và hữu cơ
TOÀN CẦU HÓA
Mối Quan Hệ Giữa Toàn Cầu Hóa Và Ô Nhiễm Môi Trường
Ô Nhiễm Không Khí
Ô nhiễm không khí ở Trung Quốc là yếu tố lớn nhất bị tụt lại đằng sau những chương
trình môi trường của Trung Quốc thể hiện trong kế hoạch 5 năm lần thứ 10 (2001-
2006). Ô nhiễm không khí là do giải phóng lượng khí thải độc lại (chủ yếu SO2 và
CO2) và các chất thải hạt (chủ yếu là khí đen từ xe và khí thải bụi công nghiệp).
Khí thải SO2 hầu hết nằm ngoài mục tiêu của mục đích kết hoạch 5 năm. Mục tiêu
năm 2005 đối với khí thải SO2 được đặt ở mức 18 triệu tấn/năm nhưng lượng khí thải
thực tế trong năm 2005 là 25,5 triệu. Do đó vượt hơn mục tiêu tới 40% (xem hình
dưới đây) về khí đen xe và khí thải bụi công nghiệp, chúng ta cũng ngoài mục tiêu kế
hoạch 5 năm vào năm ngoái lần lượt 11% và 1%, nhưng mức độ có ổn định hơn kể từ
16
Toàn Cầu Hóa Và Môi Trường Tự Nhiên Của Trung Quốc Và Nhật Bản
năm 2000 khoảng 12 triệu tấn/năm cho khí đen từ xe cộ và khoảng 10 triệu tấn/năm
đối với khí bụi công nghiệp. Đối với khí đen xe, SO2 và bụi công nghiệp, chúng ta
thấy rằng việc ngoài mục tiêu chủ yếu là do khí thải công nghiệp.
Có lẽ thú vị hơn là lưu ý vào các mô hình và sự phân phối của khí thải. Thật kì lạ, đã
có sự gia tăng về số lượng các thành phố với mức độ không khí chấp nhận được (theo
SEPA phân loại thành phố loại II) từ 32% năm 2000 lên 52% vào năm 2005. Dữ liệu
này chỉ ra rằng cao điểm ở khu vực công nghiệp đã tăng lượng khí thải trong khi các
khu vực ngành công nghiệp mũi nhọn có giảm. Mô hình này tập trung ngày càng gia
tăng của lượng khí thải độc hại xung quanh khu vực công nghiệp lớn cũng khẳng định
sự phân bố của mưa axit, vấn đề liên quan trực tiếp nhất của khí thải SO2¬. Mưa axit
cũng tập trung vào khu vực bờ biển công nghiệp phía đông nam, nơi có tăng nồng độ
axit trong các khu công nghiệp.
Như chúng ta thấy, khí thải công nghiệp đặc biệt là xung quanh các khu công nghiệp
lớn, đang tác động làm chất lượng không khí xuống thấp. Trong hỗn hợp các ngành
công nghiệp, đóng góp chính cho lượng khí thải là ngành công nghiệp sản xuất sử
dụng năng lượng than (>50% khí thải SO
2
) và ngành công nghiệp xi măng (chịu trách
nhiệm vệ 40% lượng khí thải CO
2
). Cả hai cơ bản là để duy trì một nền kinh tế phát
triển nhanh chóng theo xu hướng toàn cầu hóa. Trong thực tế, năm 2006, CO
2
thải ra
từ việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch của Trung Quốc tăng 9% so với thế giới chỉ tăng
17
Toàn Cầu Hóa Và Môi Trường Tự Nhiên Của Trung Quốc Và Nhật Bản
2% của lượng khí thải CO
2
cùng năm. Không có gì đáng ngạc nhiên, năm 2006 Trung
Quốc vượt Mỹ về việc thải ra khí CO
2
lớn nhất thế giới.
Một nghiên cứu mới cho biết sự thất bại của Trung Quốc trong kiểm soát lượng khí
thải nitơ có thể làm ảnh hưởng tới cố gắng của nước này trong việc giảm mức độ
sulphur dioxide (SO
2
) trong môi trường. Sự phát thải khí nitơ và sulphur là nguyên
nhân chính gây nên đất chua và ô nhiễm môi trường. Theo các nhà khoa học, tổng khí
thải lưu huỳnh dioxít (SO
2
), thành phần chính trong mưa axít, cao hơn 80% mức cho
phép và vẫn đang tăng. Trẻ em ở các thành phố của Trung Quốc cũng đang phải hít
thở bầu không khí độc hại tương đương với việc hút hai gói thuốc mỗi ngày.
Ô Nhiễm Nước
Như chúng ta thấy, nguyên nhân chính dẫn đến giảm chất lượng nước xuất phát từ
chất thải từ sinh hoạt của những khu vực đông dân cư. Ở Trung Quốc, năm 2005, 90%
trong số 400 đoạn sông xung quanh thành phố lớn không đáp ứng các tiêu chuẩn nước
sạch.
Mưa axít làm hư hại một diện tích lớn cây cối và lâu lâu lại có những thông tin về
những vấn đề liên quan đến sức khỏe cộng đồng do những chất gây ung thư mà các
nhà máy thải ra; hay những vụ gâyô nhiễm nguồn nước.
Việc vứt chất thải tiêu dùng cũng như chất thải công nghiệp bừa bãi vào các con sông,
việc sử dụng tài nguyên nước không hiệu quả cho tưới tiêu và tiêu dùng, việc xây
18
Toàn Cầu Hóa Và Môi Trường Tự Nhiên Của Trung Quốc Và Nhật Bản
dựng nhiều đập chứa nước, cũng như vấn đề sói mòn đất đai đang trở thành mối quan
ngại trong quan hệ giữa Trung Quốc với các nước láng giềng.
Kết quả của các dự án công trình công cộng với quy mô lớn như nắn sông, đặc biệt là
xây đập đã làm ảnh hưởng đến dòng chảy, hệ sinh thái ở sông hồ, kéo theo hiện tượng
ô nhiễm trong tương lai.
Ô Nhiễm Đất
Quá trình phát triển công nghiệp, đô thị và xu hướng toàn cầu hóa cũng ảnh hưởng
đến các tính chất vật lý và hoá học của đất. Những tác động về vật lý như xói mòn,
nén chặt đất và phá huỷ cấu trúc đất do các hoạt động xây dựng, sản xuất và khai thác
mỏ. Các chất thải rắn, lỏng và khí đều có tác động đến đất. Các chất thải có thể được
tích luỹ trong đất trong thời gian dài gây ra nguy cơ tiềm tàng đối với môi trường.
Tài nguyên rừng của Trung Quốc cũng xếp hạng thấp nhất thế giới. Nhu cầu đồ gỗ,
đũa, và giấy đã thúc đẩy thương mại khai thác gỗ ngày càng có lợi nhuận nhưng môi
trường bị tàn phá vì việc khai thác bất hợp pháp. Đến giữa năm 1990, một nửa của
rừng phòng của Trung Quốc đã bị chặt hạ với tốc độ chóng mặt. Mất đa dạng sinh
học, thay đổi khí hậu, và xói mòn đất là tất cả về sự gia tăng của nạn phá rừng, và hoạt
động chăn thả quá mức, khai hoang thiếu kiểm soát và việc sử dụng nước không hợp
lý cũng đang gây khó khăn cho việc ngăn chặn sa mạc xâm lấn những diện tích đất đai
rộng lớn tại miền bắc và tây của nước này.“Trung Quốc vẫn là nước có diện tích đất bị
sa mạc hóa lớn nhất thế giới”, Chúc Liệt Khắc, Phó giám đốc Ủy ban Lâm nghiệp Nhà
nước Trung Quốc, cho biết.
- Khoảng 27% tổng diện tích của Trung Quốc, tức khoảng 2,6 triệu km vuông, được
xem là đất bị sa mạc hóa, trong khi 18% diện tích đất đai khác bị cát làm cho xói mòn.
- Các chuyên gia tin rằng 530.000 km vuông của các sa mạc ở Trung Quốc có thể được
phủ xanh trở lại nhưng quá trình này sẽ mất đến 300 năm nếu xét đến tốc độ khắc
phục tình trạng sa mạc hóa khoảng 1.700 km vuông mỗi năm như hiện nay.
- Cũng theo China Daily, lưu vực sông Hoàng Hà, con sông lớn thứ hai ở Trung Quốc,
hiện được xem là một trong những nơi bị xói mòn nghiêm trọng nhất thế giới, với
62% diện tích bị ảnh hưởng.
19
Toàn Cầu Hóa Và Môi Trường Tự Nhiên Của Trung Quốc Và Nhật Bản
Theo xu hướng toàn cầu hóa, Trung Quốc quá tập trung vào việc tăng trưởng GDP
nóng mà không chú ý đến vấn đề phát triển bền vững, thể hiện qua việc các vấn đề ô
nhiễm môi trường vẫn chưa có những giải pháp rõ ràng. Do đó, Trung Quốc đang phải
trả một cái giá khá cao cho sự phát triển của mình, bao gồm ô nhiễm, khí thải gây hiệu
ứng nhà kinh, mất đi sự đa dạng sinh học, sự suy thoái của hệ sinh thái và nguồn tài
nguyện bị cạn kiệt một cách nhanh chóng, chẳng hạn như:
- 5 trong 10 thành phố ô nhiễm nhất thế giới là ở Trung Quốc
- Ô nhiễm không khí ở các thành phố Trung Quốc cao gấp 5 lần so với mức khuyến cáo
của Tổ chức Y tế Thế giới.
- 40% đất Trung Quốc bị ảnh hưởng nghiêm trọng do sự xói mòn đất và 25% lãnh thổ
Trung Quốc bị sa mạc hóa. Những tác động này gây ra việc giảm năng suất nông
nghiệp và di cư từ nông thôn đến các khu vực đô thị.
- Chính quyền địa phương lơ là trong việc giải quyết vấn đề thiếu nước nghiêm trọng ở
phía Bắc.
Mấy thập niên qua, kinh tế khu vực châu Á-Thái Bình Dương (TBD) phát triển vượt
bậc, thu nhập bình quân đầu người không ngừng tăng lên, thế nhưng mô hình phát
triển thiếu bền vững đã kéo theo nhiều hệ lụy, trong đó những hệ lụy về môi trường
không phải là nhỏ. Trong một báo cáo được công bố mới đây, Chương trình Môi
trường Liên Hợp Quốc (UNEP) đã chính thức kêu gọi các nước châu Á tiến hành một
"cuộc cách mạng công nghiệp xanh".Môi trường thành nạn nhân khi quá trình toàn
cầu hóa.
Ở Trung Quốc, việc chuyển giao công nghệ tiên tiến nhưng do không đáp ứng được
yêu cầu về kinh phí cũng như chuyên gia nên hậu quả là quy mô triển khai bị gặp vấn
đề nên môi trường lại chịu những tổn thất nặng nề.Hiện trạng thế giới năm 2004” chủ
yếu nói về “tầng lớp tiêu thụ” ngày càng gia tăng trên tòan cầu và cảnh báo về nguy
cơ thế giới đang bị cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên với một tốc độ đáng lo ngại. Rừng,
đầm lầy, ao, hồ, biển và nhiều tài nguyên thiên nhiên đang trở thành nạn nhân của sự
khai thác tàn nhẫn để lại môi trường bị ô nhiễm, đa dạng sinh học bị phá họai.
Trong các kế hoạch 5 năm ở Trung Quốc luôn đề cập đến việc nỗ lực xây đập thủy
điện, nhiều hơn bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Nếu được thông qua, kế hoạch cắt
20
Toàn Cầu Hóa Và Môi Trường Tự Nhiên Của Trung Quốc Và Nhật Bản
giảm khí thải này có thể sẽ mang lại cho Trung Quốc những hệ lụy không mong
muốn. Nó có thể phá hủy mãi mãi các dòng sông lớn của Trung Quốc và các điểm
nóng đa dạng sinh học quan trọng của thế giới. Chỉ tính đến nay Trung Quốc đã có
nhiều đập thủy điện trên lãnh thổ của mình hơn bất cứ quốc gia nào khác. Và chính
Trung Quốc cũng đã phải trả giá đắt cho sự phát triển này. Các con đập của Trung
Quốc ước tính đã khiến 23 triệu người phải di dời chỗ ở. Sự cố nứt vỡ đập ở đất nước
này với hồ sơ an toàn tệ hại nhất thế giới đã giết hại chừng 300 000 người. Các bằng
chứng khoa học cũng chỉ ra rằng chính con đập Tử Bình Bạc (Zipingpu Dam) của
Trung Quốc đã gây nên trận động đất kinh hoàng ở Tứ Xuyên năm 2008. Các đập
nước đồng thời là thủ phạm gây nên sự mất mát lớn về đa dạng sinh học của Trung
Quốc và là nguyên nhân đẩy các loài thủy sinh quý hiếm tới nạn tuyệt chủng, như Cá
heo sông Dương Tử.
Nằm trong mục tiêu cắt giảm carbon, chính phủ Trung Quốc đang lên kế hoạch thông
qua các dự án thủy điện mới với tổng công suất lên tới 140 GW trong 5 năm tới.
Trong khi đó, Brazin, Mỹ và Canada mỗi nước chỉ có khoảng 75 đến 85 GW công
suất thủy điện trong suốt cả lịch sử phát triển của mình. Để đạt được kế hoạch này
Trung Quốc sẽ phải xây nhiều bậc thang thủy điện trên nhiều con sông phía Tây Nam
Trung Quốc và Cao nguyên Tây Tạng, khu vực sinh sống của các dân tộc thiểu số, với
hệ sinh thái mỏng manh, giàu có về đa dạng sinh học và có nhiều hoạt động địa chấn.
Chưa hết, như báo hiệu cho một xu hướng mới, chính phủ Trung Quốc gần đây còn
tuyên bố có thể sẽ cho phép xây các đập thủy điện trên con sông Nộ Giang (cách
người Trung Quốc gọi con sông Salween trên phần lãnh thổ của mình) – dòng sông
ban sơ nằm ở trung tâm của một Di sản Thế giới. Chính phủ Trung Quốc cũng đã
đồng ý thu hẹp lại khu dự trữ thủy sản quan trọng nhất trên sông Dương tử, vì thế một
kế hoạch thủy điện mới có thể sẽ được khởi động tại đây. (tụi này nghĩ nên rút gọn lại)
Vẫn biết biến đổi khí hậu là mối đe dọa môi trường nghiêm trọng nhất mà thế hệ
chúng ta đang phải đối mặt. Thế giới đang mất đa dạng sinh học ở mức báo động. Và
chính các dòng sông, hồ nước và đầm lầy lại đang phải đối mặt với những thay đổi
nghiêm trọng hơn bất cứ hệ sinh thái nào khác. Trong khi đó, chính vì xây đập và các
tác nhân khác, dân số các loài thủy sinh đã suy giảm một nửa kể từ năm 1970 đến
2000 và hơn 1/3 các loài cá nước ngọt đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng.
21
Toàn Cầu Hóa Và Môi Trường Tự Nhiên Của Trung Quốc Và Nhật Bản
1.3. Phản Ứng Của Quốc Gia Trước Toàn Cầu Hóa
Nhiệm kỳ 2, đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 9 đã đề ra chính sách tiếp tục đầu tư
mạnh vào nông nghiệp, thúc đẩy sự phát triển toàn diện kinh tế nông thôn, nhằm gia
tăng thu nhập của người dân, xây dựng cơ cấu nông nghiệp, tăng cường vốn cho các
dự án cấp thoát nước sạch, trồng xen các loại cây bán nông nghiệp, điều chỉnh cơ cấu
doanh nghiệp thành thị, phát triển định hướng thị trường chế xuất và nâng cao giá trị
sản phẩm nông nghiệp.
Nông nghiệp nông thôn của Trung Quốc đang phải chịu những thách thức to lớn trong
quá trình hội nhập WTO. Đó là sức ép cạnh tranh mạnh, tình trạng nhiều ngành hàng
suy yếu bị đào thải, thất nghiệp tăng, mức thu nhập thấp, bất bình đẳng thu nhập tăng
gây ra nguy cơ bất ổn định về kinh tế, xã hội và môi trường. Để đối phó với những tác
động bất lợi của hội nhập, Trung Quốc đã tiến hành một loạt biện pháp điều chỉnh
chính sách trong khu vực nông nghiệp và nông thôn. Những hướng tập trung là:
chuyển dịch cơ cấu kinh tế; tăng thu nhập cho nông dân; nâng cao khả năng cạnh
tranh quốc tế của nông sản. Gia nhập WTO mang lại nhiều cơ hội cũng như thách thức
lớn cho nông nghiệp Trung quốc. Bước sang giai đoạn mới, thay đổi cơ bản về thương
mại nông sản, chính sách nông nghiệp của Trung quốc có những thay đổi mang tính
căn bản. Công cuộc điều chỉnh chính sách nông nghiệp Trung Quốc bao gồm những
nội dung chính sau:
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn
- Tăng thu nhập cho nông dân
- Nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế của nông sản
Hội nhâp WTO ảnh hưởng lớn đến vận mệnh nền nông nghiệp quốc gia Trung Quốc.
Không cần phải bàn thì dỡ bỏ hàng rào thuế quan là điều tất yếu, đặc biệt trong các
lĩnh vực giao thương nông sản. Diễn giải ra, chính là việc thay đổi về cơ chế giao
thương, các hành xử thương mại và chính sách giá cả.
Cơ quan thuộc chính phủ Trung Quốc đã đưa ra biện pháp để quản lý chặt chẽ hơn
hoạt động sản xuất và xuất khẩu đất hiếm, loại khoáng sản được sử dụng rộng rãi
trong nhiều công nghệ và sản phẩm mang tính sống còn với phương Tây. Bộ Đất đai
và Tài nguyên Trung Quốc đã sử dụng một luật khai mỏ hiếm dùng để kiểm soát trực
22
Toàn Cầu Hóa Và Môi Trường Tự Nhiên Của Trung Quốc Và Nhật Bản
tiếp 11 khu khai thác đất hiếm tại miền Nam Trung Quốc.Theo tuyên bố của bộ được
công bố trên website, hoạt động khai thác mỏ tại 11 khu vực này đã được đưa vào diện
kiểm soát quốc gia.Như vậy chính quyền các hạt và tỉnh không còn có thể kiểm soát
hoạt động khai thác đất hiếm tại các mỏ này nữa.Trước khi chủ tịch Nhà nước Trung
Quốc Hồ Cẩm Đào đến Mỹ, quan chức kinh tế Mỹ đã tuyên bố họ muốn có được sự
đảm bảo nào đó từ phía Trung Quốc về việc nước này sẽ tiếp tục cung cấp đất
hiếm.Tuy nhiên phía quan chức kinh tế Trung Quốc đã phản bác các cam kết quốc tế
về sản lượng của ngành khai mỏ. Tuyên bố 41 điểm mà Mỹ với Trung Quốc mới đạt
được không đề cập đến vấn đề đất hiếm.Trung Quốc là nước sản xuất và xuất khẩu đất
hiếm lớn nhất thế giới, hiện cung cấp đến 92% tổng sản lượng đất hiếm loại nhẹ của
thế giới, loại đất hiếm này được sử dụng trong sản xuất kính và lọc dầu. Đối với đất
hiếm loại nặng dùng trong sản xuất điện thoại thông minh và đèn compaq, Trung
Quốc nắm tới 99% nguồn cung.Trung Quốc thời gian qua đã liên tiếp hạ hạn ngạch
xuất khẩu đất hiếm từ các mỏ do chính phủ quản lý và đồng thời tăng thuế đối với đất
hiếm xuất khẩu.Sau khi tranh chấp lãnh thổ với Nhật vào tháng 9/2010, Trung Quốc
bất ngờ áp dụng lệnh cấm xuất khảu đất hiếm sang Nhật và kiểm soát chặt chẽ các
đơn hàng mua đất hiếm của nước khác để ngăn đất hiếm vào Nhật. Ngoài việc nắm
kiểm soát khai thác đất hiếm tại tỉnh Giang Tây, Bộ quản lý đất đai và tài nguyên
Trung Quốc còn quản lý chặt chẽ hoạt động khai thác quặng sắt tại tình Tứ
Xuyên.Tỉnh Tứ Xuyên còn có 2 kim loại quý khác bao gồm titanium và vanadium.
Titanium được sư dụng trong ngành hàng không vũ trụ và nhiều ngành khác trong khi
đó vanadium dược dùng trong sản xuất axit sulfuric.
Nhằm đối phó với thách thức lớn nhất trong 20 năm tới là thiếu các nguồn tài nguyên,
đặc biệt là năng lượng, chính phủ Trung Quốc phải tìm cách duy trì phát triển kinh tế.
Việc tiết kiệm năng lượng sẽ gặp khó khăn do thiếu động cơ kinh tế cũng như thiếu
luật liên quan đến tiết kiệm năng lượng. Do vậy, sự ra đời của luật năng lượng tái sinh
sẽ góp phần hỗ trợ cho chiến lược này.Trung Quốc có khả năng cải thiện nguồn điện
năng và giảm ảnh hưởng của việc thiếu hụt điện. Theo báo cáo chính thức, Trung
Quốc chi 13% GDP cho tiêu thụ năng lượng, gấp đôi tỷ lệ tương đương ở Mỹ. Ví dụ
đối với ngành nhà ở, chỉ 2,5%-5% những ngôi nhà mới xây đáp ứng tiêu chuẩn tiết
kiệm năng lượng. Theo ông Zhao Jiarong, Chủ nhiệm Trung tâm nghiên cứu chiến
23
Toàn Cầu Hóa Và Môi Trường Tự Nhiên Của Trung Quốc Và Nhật Bản
lược năng lượng quốc tế thuộc Đại học nhân dân Trung Quốc, mỗi đơn vị tăng trưởng
kinh tế của Trung Quốc sử dụng tới 65% nguồn tài nguyên thiên nhiên, trong khi ở
các nước phát triển chỉ có 25%. Vì vậy, tiết kiệm và ứng dụng kỹ thuật cao mới là
quốc sách cho chiến lược năng lượng của Trung Quốc. Quan chức chính phủ và các
chuyên gia đã kêu gọi thực hiện các biện pháp cụ thể để đạt được mục tiêu tiết kiệm
năng lượng và duy trì tăng trưởng kinh tế.
Ông Zhao Jiarong nhấn mạnh: Các ngành như sản xuất điện, ngành thép, xăng dầu,
than, thông tin và xây dựng phải hợp tác tiết kiệm năng lượng. Theo đó, vốn được tiêu
thụ chủ yếu sẽ vẫn được dùng để chế tạo điện, dầu sẽ được dùng trong giao thông vận
tải, các thành phố nên dùng khí thiên nhiên cho việc sưởi ấm và các mục đích gia
dụng khác, chiến lược hàng đầu là tiết kiệm sử dụng xăng dầu.Đến thời điểm 2020,
Trung Quốc đặt kế hoạch tiết kiệm khoảng 1,4 tỷ tấn than tiêu chuẩn, tương đương
một nửa mức tiêu thụ năm ngoái ở Trung Quốc khi Trung Quốc đạt mục tiêu phát triển
toàn xã hội. Trung Quốc đặt ra mục tiêu tiêu thụ năng lượng sẽ đạt 3 tỷ tấn than tiêu
chuẩn năm 2020 với mức tiết kiệm năng lượng hàng năm 3%.Ông Huang Shengchu,
chủ tịch Viện Thông tin Than Trung Quốc nhận định, Trung Quốc nên xem xét lại cơ
cấu kinh tế, giảm phụ thuộc vào các ngành tiêu thụ nhiều điện năng như thép và
nhôm. Huang nhận định cần cân bằng giữa công nghiệp hoá và tiêu thụ năng lượng.
Ông cho rằng chính phủ nên tiếp tục thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô để giảm đầu
tư vào một số ngành, đặc biệt những ngành tiêu thụ nhiều năng lượng. Một số công ty
phải chủ động nguồn điện năng, không trông chờ vào mạng điện của quốc gia. Những
doanh nghiệp sử dụng nhiều điện năng mà hoạt động kém hiệu quả phải đóng cửa.
Cơ quan Bảo vệ môi trường Trung Quốc và các cơ quan có liên quan khác đã cố gắng
để thiết lập một khuôn khổ pháp lý rộng lớn và cơ sở hạ tầng để giải quyết vấn đề môi
trường. Tuy nhiên, mức kinh phí cho việc cải thiện môi trường vẫn còn dưới mức cần
thiết, chỉ để giữ cho tình hình tạm ổn. Đồng thời, chính phủ cũng khuyến khích sự
tham gia của công chúng trong việc bảo vệ môi trường. Thông qua hỗ trợ song
phương từ cộng đồng quốc tế, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức quốc tế… và gần
đây nhất, các công ty đa quốc gia cũng là một lực lượng mạnh mẽ trọng việc định hình
các hoạt động môi trường của Trung Quốc.
24
Toàn Cầu Hóa Và Môi Trường Tự Nhiên Của Trung Quốc Và Nhật Bản
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã đưa ra các chiến lược giải quyết môi trường, gồm 5
phần chính: chính sách chỉ đạo từ Trung Ương, phân cấp thẩm quyền bảo vệ môi
trường cho chính quyền địa phương, hợp tác với cộng đồng quốc tế, khuyến khích
người dân bảo vệ môi trường và tăng cường hệ thống pháp luật.
Chính sách chỉ đạo từ Trung Ương
Cơ quan quản lý bảo vệ môi trường (SEPA), Hội đồng Ủy ban Kế hoạch và phát triển
nhà nước, Hội đồng Ủy ban Kinh tế và Thương mại, Ủy ban tài nguyên thiên nhiên và
bảo vệ môi trường (EPNRC) đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường và
phát triển kinh tế.
Phân cấp thẩm quyền bảo vệ môi trường cho chính quyền địa phương
Kết quả không có gì đáng ngạc nhiên, khu vực giàu có thì có xu hướng tốt hơn trong
khi khu vực nghèo hơn thì không có tín hiệu khả quan trong việc bảo vệ môi trường.
Như ở Thượng Hải, thường xuyên đầu tư hơn 3% doanh thu của địa phương trong
việc bảo vệ môi trường và có những bước tiến đáng kể đối với làm sạch không khí và
các vấn đề ô nhiễm nguồn nước. Khu vực nghèo hơn, ngược lại, tiếp tục nhìn thấy
môi trường của họ xấu đi, bất chấp sự cải thiện tổng thể của nền kinh tế Trung Quốc.
Họ không thể tin cậy vào sự hỗ trợ từ trung ương, và không có đủ kinh phí địa phương
để đầu tư cải thiện môi trường. Bên cạnh đó, khu nghèo hơn cũng có nhiều khả năng
bị thiếu nhân viên được đào tạo về lĩnh vực bảo vệ môi trường để có thể thực hiện
kiểm tra và thi hành pháp luật ở địa phương tốt hơn. Hơn nữa, các quan chức địa
phương ở các khu vực này thường đặt áp lực rất lớn về Văn phòng bảo vệ môi trường
đã hạn chế hoặc thậm chỉ bỏ qua các khoản phí tiền phạt do các doanh nghiệp gây ô
nhiễm môi trường.
Hợp tác với cộng đồng quốc tế
Một yếu tốt thứ ba của kế hoạch của Trung Quốc để cải thiện tổng thể môi trường là
tận dụng vào khả năng chuyên môn và nguồn lực từ cộng đồng quốc tế. Trung Quốc là
nước nhận lớn nhất từ hỗ trợ bên ngoài về môi trường như Ngân hàng Thế giới, Ngân
hàng Phát triển Châu Á, Quỹ môi trường toàn cầu, Nhật Bản cùng các tổ chức cộng
đồng phi chính phủ. Với sự hổ trợ đó, Trung Quốc thực thi các chính sách bảo vệ môi
25
Toàn Cầu Hóa Và Môi Trường Tự Nhiên Của Trung Quốc Và Nhật Bản