Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Giáo dục và khoa cử nho học ở quảng trị dưới triều nguyễn từ 1802 đến 1919

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.6 MB, 129 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

LÊ THÀNH LUÂN

GIÁO DỤC VÀ KHOA CỬ NHO HỌC Ở QUẢNG TRỊ DƢỚI
TRIỀU NGUYỄN TỪ 1802 ĐẾN 1919
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60220313

LUẬN VĂN THẠC SĨ SỬ HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HUỲNH CÔNG BÁ

Thừa Thiên Huế, năm 2016
i


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi,
các số liệu và kết quả nghiên cứu ghi trong luận văn là trung
thực, được các đồng tác giả cho phép sử dụng và chưa từng
được công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
Họ tên tác giả

Lê Thành Luân

ii



LỜI CẢM ƠN
Luận văn tốt nghiệp cao học được hoàn thành tại Đại học Huế. Có được bản
luận văn tốt nghiệp này, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sự tri ân sâu
sắc đến Đại học Huế, trường Đại học Sư phạm, phòng đào tạo sau đại học…
Đặc biệt, tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Thầy giáo Tiến sĩ Sử học
Huỳnh Công Bá, đã trực tiếp hướng dẫn, dìu dắt, giúp đỡ tác giả với những chỉ dẫn
khoa học quý giá trong suốt quá trình triển khai, nghiên cứu và hoàn thành đề tài
"Giáo dục và khoa cử Nho học ở Quảng Trị dưới triều Nguyễn từ 1802 đến 1919".
Với lòng biết ơn sâu sắc, tác giả xin chân thành cảm ơn quý Thầy Cô giáo - Các
nhà khoa học đã trực tiếp giảng dạy truyền đạt những kiến thức khoa học thuộc chuyên
ngành lịch sử Việt Nam cho bản thân tác giả trong suốt thời gian học tập tại trường.
Xin gửi tới thư viện trường ĐHSP Huế, thư viện trường ĐHKH Huế, thư viện
Tổng hợp Thừa Thiên Huế lời cảm ơn sâu sắc vì đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp
tác giả thu thập những tài liệu nghiên cứu cần thiết liên quan tới đề tài tốt nghiệp.
Xin ghi nhận công sức và những đóng góp quý báu và nhiệt tình của các anh
chị, các bạn học viên lớp lịch sử Việt Nam khóa 23 đã đóng góp ý kiến và giúp đỡ
tác giả thực hiện đề tài này.
Tác giả rất mong nhận được sự đóng góp, phê bình của quý Thầy Cô giáo, các
nhà khoa học, đọc giả và các bạn đồng nghiệp.
Thừa Thiên Huế, tháng 9 năm 2016
Tác giả

Lê Thành Luân

iii


MỤC LỤC
Trang phụ bìa ......................................................................................................... i
Lời cam đoan………………………………………….……………………………….ii

Lời cảm ơn………………………………………………….…………………………iii
Mục lục………………………………………………………….……………………....1
Danh mục các bảng…….………….…….………..…….……….……….………………3
MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. .4

1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................4
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................................5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................7
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................7
5. Nguồn tư liệu nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu ......................................8
6. Đóng góp của luận văn ........................................................................................8
7. Bố cục của luận văn .............................................................................................9
NỘI DUNG .........................................................................................................................10
CHƢƠNG 1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, LỊCH SỬ, TRUYỀN THỐNG GIÁO DỤC KHOA CỬ QUẢNG TRỊ TRƢỚC NĂM 1802 VÀ GIÁO DỤC - KHOA CỬ NHO
HỌC VIỆT NAM DƢỚI TRIỀU NGUYỄN ...................................................................10

1.1. Đặc điểm tự nhiên và lịch sử tỉnh Quảng Trị .................................................10
1.1.1. Đặc điểm tự nhiên tỉnh Quảng Trị ...........................................................10
1.1.2. Khái quát lịch sử tỉnh Quảng Trị .............................................................13
1.2. Truyền thống giáo dục và khoa cử Nho học ở Quảng Trị trước năm 1802 ...18
1.3. Khái quát giáo dục - khoa cử Nho học dưới triều Nguyễn ............................20
1.3.1. Chính sách về giáo dục và khoa cử .........................................................20
1.3.2. Tình hình giáo dục dưới triều Nguyễn.....................................................26
1.3.3. Tình hình thi cử dưới triều Nguyễn .........................................................29
CHƢƠNG 2. TỔ CHỨC GIÁO DỤC VÀ KẾT QUẢ THI CỬ NHO HỌC Ở QUẢNG
TRỊ DƢỚI TRIỀU NGUYỄN........................................................................................... 33

2.1. Tổ chức giáo dục Nho học ở Quảng Trị dưới triều Nguyễn ..........................33
2.1.1. Dựng Văn Miếu, Văn Thánh, Văn Từ, Văn Chỉ để xiển dương Nho học ...33


1


2.1.2. Tổ chức trường lớp ..................................................................................35
2.1.3. Đội ngũ thầy giáo.....................................................................................40
2.1.4. Nội dung giáo dục và tài liệu học tập ......................................................44
2.2. Thi cử và kết quả khoa cử Nho học ở Quảng Trị dưới triều Nguyễn ............46
2.2.1. Thi Hương và kết quả đỗ Cử nhân, Tú tài ...............................................46
2.2.2. Thi Hội, thi Đình và kết quả đỗ Tiến sĩ, Phó bảng ..................................52
CHƢƠNG 3. VAI TRÕ CỦA GIA TỘC VÀ LÀNG XÃ, ĐÓNG GÓP CỦA GIÁO
DỤC - KHOA CỬ NHO HỌC QUẢNG TRỊ DƢỚI TRIỀU NGUYỄN VÀ BÀI HỌC
KINH NGHIỆM ................................................................................................................. 59

3.1. Vai trò của làng xã và dòng họ đối với giáo dục - khoa cử Quảng Trị dưới
triều Nguyễn ..........................................................................................................59
3.1.1. Những làng xã và dòng họ có truyền thống đỗ đạt ..................................59
3.1.2. Vai trò của làng xã và dòng họ đối với giáo dục - khoa cử .....................65
3.2. Đóng góp của giáo dục và khoa cử Nho học ở Quảng Trị dưới triều Nguyễn ...72
3.2.1. Trên lĩnh vực chính trị và xã hội .............................................................72
3.2.2. Trên lĩnh vực văn hóa và tư tưởng ...........................................................74
3.2.3. Đối với phong trào giải phóng dân tộc cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX .77
3.3. Bài học kinh nghiệm từ giáo dục - khoa cử Nho học Quảng Trị dưới triều
Nguyễn ..................................................................................................................81
KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 88

2


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Thống kê Nho sĩ Quảng Trị đỗ Cử nhân ở các huyện .............................50
Bảng 2.2: Danh sách Nho sĩ Quảng Trị đỗ Tiến sĩ, Phó bảng dưới triều Nguyễn......54
Bảng 2.3: Thống kê Nho sĩ Quảng Trị sĩ đỗ Tiến sĩ, Phó bảng ở các huyện ...........56

GHI CHÚ
NXB

: Nhà xuất bản

SCN

: Sau Công nguyên

TCN

: Trước Công nguyên

Tr

: Trang

[33, tr.126]

: Dẫn theo tài liệu tham khảo số 33, trang 126

3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Triều Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử phong kiến Việt
Nam, cũng như các triều đại trước đó rất coi trọng giáo dục, khoa cử nhằm đào tạo
nhân tài phục vụ cho việc xây dựng bộ máy chính quyền, làm nền tảng cho sự phát
triển quốc gia dân tộc. Dưới thời Nguyễn, trên cơ sở kế thừa và tiếp nối truyền
thống, trong những điều kiện mới, một hệ thống giáo dục Nho học đã nhanh chóng
được thiết lập từ trung ương cho đến địa phương.
Mục đích của nền giáo dục phong kiến nói chung và giáo dục triều Nguyễn
nói riêng là đào tạo nguồn nhân lực xuất thân từ Nho học để mỗi người, tùy theo địa
vị, chức phận của mình giúp vua trong việc trị quốc an dân, bình thiên hạ. Họ còn là
hạt nhân tiên phong trong việc truyền bá hệ tư tưởng Nho giáo sâu rộng trong nhân
dân. Tuy khẳng định việc cầu hiền có thể bằng nhiều biện pháp khác nhau, song
giáo dục - khoa cử vẫn là con đường khách quan, nhờ đó có được nguồn nhân lực
theo ý muốn. Trên đà như vậy, việc hoạch định chính sách giáo dục - khoa cử thời
triều Nguyễn càng trở nên chặt chẽ và quy củ hơn.
Nội dung giáo dục và thi cử trong suốt thời kỳ phong kiến Việt Nam nói
chung và thời nhà Nguyễn nói riêng là tư tưởng Nho giáo thông qua các sách giáo
khoa kinh điển của Nho gia. Trong hệ thống các nhà trường công lập, tư thục, cũng
như việc giáo dục trong gia đình, tài liệu dạy và học chủ yếu là “Tứ thư”, “Ngũ
kinh”, các lời dạy của các bậc thánh hiền. Song, nội dung chủ yếu vẫn là những tri
thức về đạo đức, phương pháp tu dưỡng đạo đức, cách thức ứng xử trong các quan hệ
xã hội của con người, đặc biệt là những tri thức chính trị, cùng những kinh nghiệm,
những bài học cho nhà vua, cho người cầm quyền trong việc trị nước, an dân theo
đường lối đức trị, lễ trị.
Thời kỳ này, tầng lớp Nho sĩ trở thành đẳng cấp chính của xã hội và là rường
cột của Nhà nước phong kiến, là nguồn bổ sung chủ yếu của bộ máy nhà nước phong
kiến quan liêu. Tầng lớp quan lại Nho học đã đóng vai trò hết sức quan trọng trong
việc định ra và triển khai hoạt động của bộ máy nhà nước. Nhờ đó, triều Nguyễn đã
thực hiện việc quản lý xã hội ngày càng có quy mô, nề nếp, có hiệu quả hơn.
4



Việc nghiên cứu về giáo dục và thi cử dưới triều Nguyễn đã có rất nhiều
công trình được công bố trong và ngoài nước. Tuy nhiên, hiện nay chúng tôi nhận
thấy rằng chưa có một công trình nào nghiên cứu và tái hiện đầy đủ tình hình giáo
dục và khoa cử Nho học ở Quảng Trị dưới triều Nguyễn. Tình hình giáo dục và khoa
cử Nho học ở Quảng Trị dưới triều Nguyễn đã phát triển ra sao? Các nhà khoa bảng
đã có những đóng góp gì cho sự phát triển của nước nhà lúc bấy giờ? Đặc điểm giáo
dục và khoa cử ở Quảng Trị dưới triều Nguyễn có những điểm gì giống và khác với
những địa phương khác?... Mặt khác, công tác nghiên cứu giáo dục và khoa cử dưới
triều Nguyễn ở nước ta nói chung và Quảng Trị nói riêng, hiện nay có nhiều ý kiến
trái chiều của các học giả trong và ngoài nước. Là thế hệ đi sau, được thừa hưởng
thành quả nghiên cứu công phu của thế hệ đi trước, chúng tôi lấy lòng cảm kích, và
dưới sự gợi ý của Tiến sĩ Sử học Huỳnh Công Bá chúng tôi quyết định chọn đề tài
“Giáo dục và khoa cử Nho học ở Quảng Trị dưới triều Nguyễn từ 1802 đến 1919”
để làm Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Sử học thuộc chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Liên quan đến đề tài đã có một số công trình nghiên cứu sau:
Với tầm quan trọng của việc đào tạo và sử dụng nhân tài, ngay trong triều đại
nhà Nguyễn đã có một số công trình ghi chép, nghiên cứu và biên soạn sử sách về
giáo dục và khoa cử dưới triều Nguyễn. Người có công lớn nhất ghi chép lại các nhà
khoa bảng triều Nguyễn là Cao Xuân Dục với bộ Quốc triều Hương khoa lục, chép
lại những người đỗ khoa thi Hương từ năm Gia Long thứ 6 (1807) đến khoa thi
Hương cuối cùng năm Khải Định thứ 3 (1918) và bộ Quốc triều Đăng khoa lục chép
lại những người đỗ khoa thi Hội đầu tiên (1822) đến khoa thi Hội cuối cùng (1919).
Trong những năm 90 của thế kỷ XX, đã có nhiều công trình nghiên cứu về
giáo dục và khoa cử triều Nguyễn nói riêng và các triều đại phong kiến Việt Nam
nói chung. Có thể kể đến như: Lược khảo về khoa cử Việt Nam (Từ khởi thủy đến
khoa Mậu Ngọ 1818) của Trần Văn Giáp (1941); Tìm hiểu nền giáo dục Việt Nam
trước năm 1945 của Vũ Ngọc Khánh (1985); Giáo dục Việt Nam thời cận đại của Phan
Trọng Báu (1994); Sự phát triển giáo dục và chế độ thi cử Việt Nam thời phong kiến

của Nguyễn Tiến Cường (1998); Khoa cử và giáo dục Việt Nam của Nguyễn Q. Thắng

5


(1998); Việc đào tạo và sử dụng quan lại dưới triều Nguyễn từ năm 1802 đến năm
1884 của Lê Thị Thanh Hòa (1998). Những công trình trên đã đi sâu tìm hiểu, nghiên
cứu một cách toàn diện về những chính sách, tình hình giáo dục, nội dung cũng như
cách thức tổ chức thi cử dưới triều Nguyễn… Tác phẩm Những ông Nghè ông cống
triều Nguyễn của Bùi Hạnh Cẩn (1995) đã lược khảo khá đầy đủ về danh tính, quê
quán, làm đến chức quan nào… của các vị Cử nhân, Tiến sĩ dưới triều Nguyễn.
Năm 2000, công trình Khoa cử và các nhà khoa bảng triều Nguyễn do Phạm
Đức Thành Dũng và Vĩnh Cao chủ biên đã nghiên cứu đầy đủ tình hình thi cử dưới
triều Nguyễn, nghiên cứu về Văn Miếu, Bia Tiến sĩ và trình bày lược khảo các nhà
khoa bảng Nho học dưới triều Nguyễn trong đó có các nhà khoa bảng ở Quảng Trị.
Năm 2003, Tác giả Hoàng Nhật Lân đã nghiên cứu đề tài Tình hình giáo dục
và thi cử ở Quảng Trị dưới triều Nguyễn (1802-1945) làm Khóa luận tốt nghiệp đại
học trường Đại học khoa khọc Huế đã nghiên cứu về tình hình giáo dục và thi cử ở
Quảng Trị dưới triều Nguyễn. Tuy nhiên, đề tài chưa làm rõ được những vai trò của
làng xã, dòng họ có truyền thống đỗ đạt; những đóng góp của các nhà khoa bảng
Quảng Trị với quê hương, đất nước. Đặc biệt, đề tài có một số hạn chế như: trong
đề tài, phải chăng tác giả đã nhầm lẫn khi cho rằng thi Hội đỗ Phó bảng, thi Đình đỗ
Tiến sĩ, khi tác giả đặt mục “2.3. Thi Hội và những người Quảng Trị đỗ Phó bảng”
[53, tr.58], và “2.4. Thi Đình và những người Quảng Trị đỗ Tiến sĩ” [53, tr.61]; tác
giả cho rằng dưới triều Nguyễn “Không có người nào đỗ Trạng nguyên” [53, tr.64],
nhưng thực chất theo lệ “tứ bất” triều đình không lấy đỗ Trạng nguyên. Nhìn chung,
do hạn chế của một khóa luận tốt nghiệp nên đề tài chưa đi sâu tìm hiểu thêm để
hoàn thiện về chế độ giáo dục và khoa cử Nho học ở Quảng Trị.
Năm 2005, trong báo cáo đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của tác giả
Nguyễn Văn Đăng về Giáo dục và khoa cử Việt Nam thời Nguyễn (1802 - 1884); và

gần đây cuốn Hệ thống giáo dục và khoa cử Nho giáo triều Nguyễn của Nguyễn
Ngọc Quỳnh (2011) đã nghiên cứu đầy đủ về tình hình giáo dục và lược khảo thân
thế các vị Tiến sĩ triều Nguyễn. Đặc biệt phải kể đến là Luận văn thạc sĩ sử học của
tác giả Trần Thị Ngọc Sa về Thống kê định lượng và kết quả thi Hương, thi Hội
dưới triều Nguyễn (1802 - 1919). Tác giả không chỉ thống kê các khoa thi Hương,

6


thi Hội và kết quả chung qua các triều đại nhà Nguyễn mà còn hệ thống hóa một
cách đầy đủ, khoa học danh sách những người thi Hương, thi Hội dưới triều Nguyễn
theo từng tỉnh, huyện và xã. Bên cạnh đó, tác giả đã thống kê tình hình đỗ thi
Hương của các dòng họ trong cả nước. Qua đó, tác giả đã đưa ra những nhận xét và
rút ra bài học kinh nghiệm từ thi cử dưới triều Nguyễn. Ngoài ra, còn có một số tác
phẩm là bài báo, luận văn nghiên cứu về giáo dục và khoa cử triều Nguyễn và các
nhà khoa bảng ở Quảng Trị được đăng trên các tạp chí.
Các công trình nêu trên tuy đã nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống
về giáo dục và khoa cử triều Nguyễn. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu tìm
hiểu một cách có hệ thống, đầy đủ về giáo dục và khoa cử Nho học ở Quảng Trị
dưới triều Nguyễn.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là giáo dục và khoa cử Nho học ở
Quảng Trị dưới triều Nguyễn. Ngoài ra, luận văn còn đề cập đến những đóng góp
của giáo dục và các nhà khoa bảng Nho học Quảng Trị dưới triều Nguyễn đối với
quê hương, đất nước.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu giáo dục và khoa cử Nho học
ở Quảng Trị dưới triều Nguyễn.
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu từ khi triều Nguyễn thành lập năm 1802

đến khoa thi Nho học cuối cùng được tổ chức vào năm 1919.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nhằm khôi phục lại bức tranh về giáo
dục và khoa cử Nho học ở Quảng Trị dưới triều Nguyễn. Qua đó, khẳng định vị trí,
vai trò của nền giáo dục và đóng góp của các nhà khoa bảng Nho học Quảng Trị
dưới triều Nguyễn đối với quê hương, đất nước.

7


4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ đặt ra là phải sưu tầm, xử
lý các tài liệu liên quan để làm rõ tình hình giáo dục và khoa cử Nho học ở Quảng
Trị dưới triều Nguyễn. Qua đó rút ra những đóng góp từ giáo dục và các nhà khoa
bảng Nho học ở Quảng Trị dưới triều Nguyễn.
5. Nguồn tƣ liệu nghiên cứu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tƣ liệu nghiên cứu
Để thực hiện luận văn, chúng tôi tiếp cận và sử dụng nhiều nguồn tư liệu
khác nhau từ các công trình sử học do Quốc sử quán và Nội các triều Nguyễn biên
soạn đã được dịch và xuất bản như: Đại Nam thực lục, Khâm định Đại Nam hội
điển sử lệ, Quốc triều Chính biên toát yếu, Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam liệt
truyện… Các sách chuyên khảo về khoa cử đã được biên soạn dưới triều Nguyễn
như Quốc triều Hương khoa lục, Quốc triều Đăng khoa lục của Cao Xuân Dục và
những nguồn tư liệu gốc khác có liên quan
Luận văn cũng tham khảo các công trình nghiên cứu trước đây về giáo dục
và khoa cử đã được xuất bản, các bài báo được đăng trên các tạp chí, các báo cáo tại
các hội nghị khoa học, các luận văn có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp luận:

Cơ sở phương pháp luận của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử.
5.2.2. Phương pháp cụ thể:
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp
với phương pháp logic. Bên cạnh đó, chúng tôi còn sử dụng phương pháp thống kê,
phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu… để rút ra kết luận khoa học, chính xác.
6. Đóng góp của luận văn
Thứ nhất: Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống về giáo dục và
khoa cử Nho học ở Quảng Trị dưới triều Nguyễn bao gồm hệ thống trường lớp, đội
ngũ thầy giáo, nội dung giáo dục và tài liệu học tập. Luận văn hệ thống hóa đầy đủ
về những nhà khoa bảng Nho học ở Quảng Trị dưới triều Nguyễn, qua đó rút ra

8


những đóng góp của nền giáo dục và các nhà trí thức khoa bảng Nho học Quảng Trị
đối với đất nước trong giai đoạn đương thời, Đây là nguồn sử liệu thành văn quan
trọng, làm cơ sở cho việc tìm hiểu một cách toàn diện về giáo dục và khoa cử Nho
học ở Quảng Trị dưới triều Nguyễn. Luận văn là nguồn tư liệu tham khảo bổ ích
trong việc nghiên cứu, biên soạn và giảng dạy lịch sử địa phương Quảng Trị.
Thứ hai: Thông qua việc nghiên cứu về nền giáo dục truyền thống, về các
nhà khoa bảng, đặc biệt là các làng và dòng họ có truyền thống hiếu học, chúng ta
có thể khơi dậy niềm tự hào dân tộc, về quê hương đất nước góp phần giáo dục
truyền thống hiếu học cho thế hệ trẻ, phát huy truyền thống của cha ông để tiếp tục
xây dựng quê hương đất nước ngày một giàu mạnh.
Thứ ba: Bên cạnh đó, nước ta đang thực hiện công cuộc công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước thì giáo dục là vấn đề đã và đang được Đảng và Nhà nước
quan tâm, đặc biệt là trong bối cảnh nước ta đang từng bước cải cách nền giáo dục
để phù hợp với tiến trình phát triển của đất nước, luận văn góp phần rút ra những
bài học kinh nghiệm cho việc xây dựng nền giáo dục, tổ chức thi cử, cũng như vấn

đề sử dụng nhân tài ở Quảng Trị nói riêng và cả nước nói chung. Từng bước hoàn
thiện nền giáo dục của nước nhà phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của
luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1. Đặc điểm tự nhiên, lịch sử, truyền thống giáo dục - khoa cử Quảng
Trị trước năm 1802 và giáo dục - khoa cử Nho học Việt Nam dưới triều Nguyễn
Chương 2. Tổ chức giáo dục và kết quả thi cử Nho học ở Quảng Trị dưới
triều Nguyễn
Chương 3. Vai trò của gia tộc và làng xã, đóng góp của giáo dục - khoa cử
Nho học Quảng Trị dưới triều Nguyễn và bài học kinh nghiệm

9


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, LỊCH SỬ, TRUYỀN THỐNG
GIÁO DỤC - KHOA CỬ QUẢNG TRỊ TRƢỚC NĂM 1802 VÀ GIÁO
DỤC - KHOA CỬ NHO HỌC VIỆT NAM DƢỚI TRIỀU NGUYỄN
1.1. Đặc điểm tự nhiên và lịch sử tỉnh Quảng Trị
1.1.1. Đặc điểm tự nhiên tỉnh Quảng Trị
Vị trí địa lý, Quảng Trị là vùng đất đã có lịch sử hình thành từ xa xưa nhưng
phải đến năm Minh Mạng thứ 13 (năm 1832), Quảng Trị với tư cách là một đơn vị
hành chính cấp tỉnh mới chính thức hình thành. Là một tỉnh nằm ở khu vực miền
Trung của đất nước, nơi chuyển tiếp giữa hai miền Nam - Bắc của nước ta. Lãnh thổ
Quảng Trị có tọa độ trên đất liền ở cực Bắc là 17°10’ vĩ Bắc thuộc thôn Tây, xã
Vĩnh Thái, huyện Vĩnh Linh; cực Nam là 16°18’ vĩ Bắc thuộc thôn Hạ, xã Quế Hải,
huyện Hải Lăng; cực Đông là 107°240’ kinh Đông thuộc thôn Thâm Khê, xã Hải
Khê, huyện Hải Lăng và cực Tây là 106°24’ thuộc Đồn Cù Bai, xã Hướng Lập,
huyện Hướng Hóa.

Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Bình; phía Nam giáp tỉnh Thừa Thiên Huế; phía
Đông giáp biển Đông với chiều dài bờ biển trên 75 km và được án ngự ngoài khơi
bởi đảo Cồn Cỏ rộng khoảng 4km², cách bờ biển (Mũi Lay) khoảng 30km; phía Tây
giáp 2 tỉnh Savanakhet và Saravan của nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, với
chiều dài biên giới 206km, được ngăn cách bởi dãy Trường Sơn hùng vĩ và được
thông thương thuận lợi qua cửa khẩu quốc tế Lao Bảo, nơi hạ thấp của dãy Trường
Sơn (độ cao 350m), và cửa khẩu quốc gia La Lay.
Đặc điểm về địa hình: Do cấu tạo của dãy Trường Sơn, địa hình Quảng Trị
thấp dần từ Tây sang Đông, Đông Nam và chia thành 4 dạng địa hình: vùng núi cao
phân bố ở phía Tây từ đỉnh dãy Trường Sơn đến miền đồi bát úp; vùng trung du và
đồng bằng nhỏ hẹp chạy dọc tỉnh; kế đến là vùng cát nội đồng và ven biển. Do địa
hình phía Tây núi cao, chiều ngang nhỏ hẹp nên hệ thống sông suối đều ngắn và dốc.
Trong đó, diện tích đồi núi chiếm 80%; Đồng bằng chiếm 11,5%; Bãi cát và cồn cát

10


trắng ven biển chiếm 7,5%. Điển hình như ở Hải Lăng, hội tụ đầy đủ về đặc điểm địa
hình Quảng Trị, “phía Đông có kênh dài, phía Tây có núi liền nhau” [33, tr.126].
Địa hình núi cao, phân bố ở phía Tây từ dãy Trường Sơn, chiếm diện tích lớn
nhất, có độ cao từ 250-2000m. Địa hình phân cắt mạnh, có độ dốc lớn, quá trình xâm
thực và rửa trôi mạnh; địa hình gò đồi, núi thấp là phần chuyển tiếp từ địa hình núi cao
đến địa hình đồng bằng, chạy dài dọc theo tỉnh. Có độ cao từ 50-250m, một vài nơi có
độ cao trên 500m, phân bố ở Cam Lộ, phía Tây của Gio Linh, Vĩnh Linh…
Về đồng bằng có đặc điểm là bồi tụ hẹp, có lớp bồi tích mỏng, độ dinh dưỡng
nghèo, phù sa bồi đất ít, riêng đồng bằng sông Bến Hải phía Bắc tỉnh tương đối phì
nhiêu. Đồng bằng Triệu Phong được bồi tụ bởi phù sa của sông Thạch Hãn khá màu mỡ.
Đồng bằng vùng Hải Lăng phổ biến là cát, kém dinh dưỡng cho cây trồng phát triển.
Nét nổi bật về tự nhiên ở Quảng Trị là cồn cát và đụn cát chạy dọc theo bờ biển
từ Nam Cửa Tùng đến giáp Thừa Thiên Huế, có bề rộng trung bình 4-5km, độ cao từ 515m. Cồn cát Nhĩ Thượng - Gio Linh cao 31m. Do tính chất liên kết kém bền vững, độ

cao lớn, lại chịu ảnh hưởng của gió mạnh nên nạn cát bay, cát lấp, đồi cát di động
thường xảy ra, gây tác hại xấu đến sản xuất và sinh hoạt đời sống nhân dân trong vùng.
Với 3/4 diện tích là đồi núi, địa hình Quảng Trị bị chia cắt mạnh bởi có nhiều
đồi núi, sông suối, đầm phá dày đặc, đồng bằng nhỏ hẹp. Phía Tây lộ thiên đá gốc
nhọn, sườn dốc thoải lượn sóng. Phía Đông chủ yếu là bãi cát và cồn cát. Địa hình
đồng bằng cấu tạo bởi phù sa lại thấp ở giữa nên dễ bị ngập úng vào mùa mưa lũ.
Về Sông ngòi, Quảng Trị có mật độ sông ngòi trung bình 0,8-1km/km2, vùng
núi và vùng đồi của tỉnh có mật độ sông ngòi dày đặc cao lên tới 1,85km/km2. Hầu
hết sông ngòi đều dốc, ngắn, ở vùng phía Tây lòng sông thường hẹp và nhiều thác
ghềnh. Quảng Trị có 12 con sông lớn hình thành 3 hệ thống sông chính là: Sông
Bến Hải; Sông Thạch Hãn; Sông Ô Lâu (Mỹ Chánh) và có hơn 60 phụ lưu sông
khác. Sông Bến Hải đổ ra biển Cửa Tùng, sông Thạch Hãn đổ ra biển Cửa Việt,
sông Ô Lâu ( Mỹ Chánh) đổ vào Phá Tam Giang qua Cửa Lác
Về khí hậu, nhìn chung khí hậu ở Quảng Trị rất khắc nghiệt, do nằm trọn
trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa và là vùng chuyển tiếp giữa hai miền khí hậu
Bắc - Nam. Quảng Trị còn chịu ảnh hưởng lớn của miền khí hậu Đông Trường Sơn,

11


do đó khí hậu chia làm hai mùa rõ rệt: Mùa gió Tây - Nam thì khô, nóng bức, ít mưa
và dễ gây ra hạn hán; mùa mưa lại ngắn và thường đến chậm. Từ tháng 7 đến tháng
11 hàng năm thường xuyên có nhiều mưa bão hay gây ra lũ lụt, gió xoáy, gió lốc.
Mùa nóng ở Quảng Trị kéo dài từ tháng 4 đến tháng 7 hàng năm, từ cuối tháng 12
đến giữa tháng 2 năm sau là mùa lạnh. Sách Đại Nam nhất thống chí có chép:
“Tháng 5 tháng 6 và tháng 7 gió Nam thổi mạnh; trước ngày 7 tháng 7
có mưa;… tháng 8 tháng 9 khí trời mát dần, thường có mưa lũ, lại thỉnh
thoảng có gió Đông vài ba ngày mới tắt “tục gọi là gió từ bến”; tháng 10
trong những ngày mồng 3, 13 và 23 thường bị lụt, ngạn ngữ có câu: ông
tha mà bà chẳng tha, làm cho cái lụt ngày 3 tháng 10” [75, tr.110].

Tỉnh Quảng Trị chịu ảnh hưởng của hai hướng gió chính là gió mùa Tây Nam
(gió Lào) và gió mùa Đông Bắc. Đặc biệt gió Tây Nam khô nóng ở Quảng Trị là
hiện tượng rất điển hình, được đánh giá là dữ dội nhất ở nước ta, làm ảnh hưởng
không nhỏ tới các hoạt động kinh tế - xã hội, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp.
Quảng Trị nằm trong khu vực chịu nhiều ảnh hưởng của bão. Mùa bão thường tập
trung vào các tháng 9 và 10. Bão có cường suất gió mạnh kèm theo mưa lớn tạo ra
lũ quét ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp và đời sống dân cư.
Do địa hình và chế độ thuỷ văn ở Quảng Trị rất đa dạng và phức tạp nên đất ở
đây cũng đa dạng, chủ yếu tập trung vào 3 nhóm cơ bản: Nhóm cồn cát và đất cát
ven biển từ Vĩnh Linh đến Hải Lăng với diện tích khoảng 28.630 ha, chiếm 6,23%
diện tích đất tự nhiên, hầu hết là đất nghèo dinh dưỡng, hoang hoá, đất chua; nhóm
đất phù sa do các sông bồi đắp dọc sông Mỹ Chánh, Thạch Hãn, sông Hiếu, Bến
Hải có diện tích khoảng 9.130 ha, chiếm 2% diện tích đất tự nhiên, đây là đất có
tiềm năng dinh dưỡng cao đã và đang khai thác vào sản xuất nông nghiệp khá hiệu
quả; nhóm đất đỏ vàng được gọi là Bazan ở vùng núi và gò đồi trung du Hướng
Hoá, Vĩnh Linh, Gio Linh, Cam Lộ diện tích 20.000 ha, đất trồng dày, tơi xốp, độ
mùn khá, dinh dưỡng cao rất thích hợp phát triển trồng cây công nghiệp lâu năm.
Ngoài ra, đất đỏ vàng nâu còn có khả năng khai thác ở vùng lau lách, đồi trọc diện
tích khá nhưng chất lượng không cao, đất chua, đất nghèo mùn.

12


Quảng Trị có đường bờ biển dài 75 km, có 2 cửa lạch là: Cửa Tùng và Cửa
Việt, có cảng Cửa Việt khá sâu thuận lợi cho tàu trọng tải lớn ra vào. Ngoài khơi có
đảo Cồn Cỏ cách đất liền chừng 30km, tạo thế thuận lợi vươn ra biển và là vị trí quan
trọng trong quân sự phòng thủ biển Đông. Quảng Trị có khả năng phát triển nuôi
trồng thuỷ hải sản xuất khẩu khá lớn, tuy nhiên lại thường xuyên bị thiên tai, lũ lụt
gây ra không ít khó khăn.
Với một phức thể về địa lý và tự nhiên mang nhiều nét khu biệt đó, các thế hệ

người Quảng Trị đã nối tiếp nhau cùng cộng sinh, vượt qua mọi thách thức, chung
sức chung lòng xây dựng quê hương. Quá trình đó đã tạo ra tính cách chịu thương,
chịu khó, vượt mọi khó khăn của con người Quảng Trị. Chính điều kiện thiên nhiên
khắc nghiệt với “gió Lào, cát trắng”, những Nho sĩ Quảng Trị đã nổ lực vươn lên,
dùi mài kinh sử để mong tới ngày được vinh danh.
1.1.2. Khái quát lịch sử tỉnh Quảng Trị
Trong lịch sử, Quảng Trị đã từng chịu nhiều biến động, xáo trộn và chia cắt.
Từ thời đại Hùng Vương theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi, vùng đất Quảng Trị xưa
thuộc một trong 15 bộ của nước Văn Lang, Âu Lạc với tên gọi là Việt Thường thị.
Thời Triệu Việt vương, đổi làm nội bản của châu Bắc Cảnh thuộc nước Nam Việt,
“là phiên dậu thứ tư về phương Nam” [103, tr.44]. Nhưng theo học giả Đào Duy
Anh trong tác phẩm Đất nước Việt Nam qua các đời và cho rằng Việt Thường Thị
là vùng đất thuộc Hà Tĩnh ngày nay, tác giả cho rằng: “Việt Thường Thị: Tên nước
xưa trong truyền thuyết, từ đời Ngô thì thành tên một huyện thuộc quận Cửu Đức,
tương đương với miền Hà Tĩnh ngày nay” [5, tr.18]. Theo tác giả, quận Nhật Nam
là đất của người Chăm, vùng Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế và Quảng
Nam ngày nay, “Giao Chỉ, Cửu Chân thuộc nước Âu Lạc xưa.., còn quận Nhật
Nam tương đương với miền đất của người Chàm là láng giềng ở phía Nam của tổ
tiên chúng ta sẽ lập thành nước Lâm Ấp hay nước Chiêm Thành” [5, tr.69].
Các nhà khảo cổ học thì chứng minh “trong giai đoạn tiền Chămpa (nhất là từ
giữa thế kỷ I TCN đến đầu CN), vùng đất Quảng Trị ngày nay trực thuộc tiểu quốc
Bắc Chăm, nằm trong vùng Amaravati. Bộ phận cư dân ở đây mặc dù không thuộc
hệ chính thống của bộ lạc Dừa” [99, tr99]. Như vậy, có thể khẳng định, dưới thời

13


Văn Lang - Âu Lạc, cư dân ở vùng đất Quảng Trị là hậu duệ của cư dân Sa Huỳnh,
cư trú vùng Bắc đèo Hải Vân và được sát nhập vào vương quốc Chămpa sau này.
Đến thời Bắc thuộc, năm 111 TCN, nhà Hán thay thế họ Triệu xâm lược và

thống trị Âu Lạc. Ngoài hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân, nhà Hán cho lập thêm
quận Nhật Nam. Quận Nhật Nam là miền đất từ núi Hoành Sơn vào đến Quảng Nam.
Quận Nhật Nam có 5 huyện: Tây Quyển, Tỉ Cảnh, Chu Ngô, Lô Dung và Tượng Lâm.
Quận trị lúc đầu đóng ở Tây Quyển, về sau dời sang Chu Ngô. Theo Dư địa chí của
Nguyễn Trãi, “mãi đến thời Nam – Bắc Triều vẫn gọi là huyện Tỉ Cảnh, có lẽ là vùng
đất Quảng Trị ngày nay” [103, tr.143]. Theo học giả Đào Duy Anh thì Tỉ Cảnh (Tỉ
Ảnh) có thể là huyện Địa Lý và Ma Linh sau này, còn Chu Ngô chắc là vùng đất thuộc
lưu vực sông Thạch Hãn, sau đổi thành Châu Ô. “Tỉ Ảnh ở miền Nam Quảng Bình,
trong vùng lưu vực sông Nhật Lệ, cho đến sông Bến Hải; Chu Ngô ở miền Quảng Trị,
trong vùng lưu vực sông Thạch Hãn” [5, tr.61]. Như vậy, Quảng Trị cổ lúc ấy có thể
thuộc một phần của huyện Tỉ Cảnh và toàn bộ huyện Chu Ngô. Tuy nhiên, sự cai trị
của nhà Hán đối với vùng này có lẽ rất lỏng lẽo, chứ không như ở Giao Chỉ, Cửu Chân.
Như vậy, từ năm 111 TCN đến năm 192 SCN, Quảng Trị thuộc quận Nhật Nam.
Đến cuối thế kỷ thứ II, thuộc đời Sơ Bình (190-193), nhân lúc xã hội Trung
Quốc rơi vào cảnh loạn lạc, nhà Đông Hán suy sụp, cư dân trên đất Quảng Trị cùng
với nhân dân vùng Tượng Lâm, dưới sự lãnh đạo của Khu Liên nổi dậy khởi nghĩa
giành quyền tự chủ và lập nước. Tác giả Huỳnh Công Bá trong cuốn Giáo trình lịch
sử Việt Nam cổ trung đại cho biết: “Quốc gia mới lập của nhân dân Tượng Lâm
một thời gian dài được các thư tịch cổ Trung Quốc gọi là Lâm Ấp (do rút gọn từ
Tượng Lâm Ấp mà ra). Nhưng thực ra, tên gọi quốc gia của người Chăm chính là
Chămpa” [15, tr.147]. Như vậy, từ năm 192 đến năm 1069, vùng đất Quảng Trị
thuộc vương quốc Chămpa.
Sau khi giành được quyền độc lập tự chủ, quốc gia phong kiến Đại Việt đã
không ngừng phát triển, lớn mạnh về mọi mặt. Nhằm phá tan âm mưu của nhà Tống
cấu kết với chính quyền Chămpa để đánh nước ta và để loại trừ mối nguy hiểm về
phía nam, năm 1069, vua Lý Thánh Tông thân chinh cùng với Lý Thường Kiệt đem
5 vạn quân tiến đánh Chămpa, bắt vua Rudravarman III cùng 5 vạn tù binh. Vua

14



Chămpa “xin dâng 3 châu Địa Lý và Ma Linh, Bố Chính để chuộc tội” [55, tr.323].
Vua Lý chấp thuận, châu Ma Linh thuộc phần đất Quảng Bình và Bắc Quảng Trị.
Năm 1075, Lý Thường Kiệt cho vẽ bản đồ 3 châu. “Đổi châu Địa Lý làm
châu Lâm Bình, châu Ma Linh làm châu Minh Linh” [55, tr.323], đồng thời chiêu
mộ dân vùng Thanh Hoá, Nghệ An vào sinh sống làm ăn, cùng binh lính trấn đóng
vùng đất này, đây là lớp người di dân đầu tiên vào Quảng Trị. Vùng đất của Quảng
Trị lúc bấy giờ thuộc châu Minh Linh, kể từ Cửa Việt trở ra phía Bắc bao gồm đất
của các huyện: Vĩnh Linh, Gio Linh và một phần đất của thị xã Đông Hà, Cam Lộ,
Hướng Hoá ngày nay. Trong khoảng thời gian từ năm 1075-1306, Quảng Trị là
vùng đất của 2 nước Đại Việt và Chămpa.
Trong thời gian này, bên ngoài tuy hòa hiếu, nhưng bên trong, giai cấp thống
trị Champa nhiều lần gây chiến với Đại Việt để lấy lại đất. Sau khi kháng chiến
chống Nguyên thắng lợi, quan hệ giữa Đại Việt và Champa trở nên tốt đẹp. Năm
1306, Vua Chăm là Chế Mân (Jaya simhavarman III) đem châu Ô, châu Lý làm quà
sính lễ để cưới Công chúa Huyền Trân, đó là vùng đất Nam Quảng Trị, Thừa Thiên
Huế và Bắc Quảng Nam ngày nay. Năm 1307, nhà Trần đổi châu Ô thành Thuận
Châu, châu Lý thành Hóa Châu. Theo học giả Đào Duy Anh “phủ Triệu Phong là
châu Ô của Chiêm Thành, đến đời Trần thành châu Thuận… Các huyện Thuận
Xương (nay là huyện Triệu Phong) và Hải Lăng cũng là đất châu Thuận xưa. Châu
Thuận có thể là gồm cả đất Quảng Trị từ Cửa Việt trở vào, tức là phủ Triệu Phong
ở thời chúa Nguyễn” [5, tr.163]. Như vậy, Thuận Châu là dải đất từ sông Hiếu (Cửa
Việt) vào đến Bắc tỉnh Thừa Thiên Huế ngày nay.
Từ năm 1307-1400 Quảng Trị là đất thuộc châu Minh Linh (phía bắc Quảng
Trị) và Châu Thuận (phía nam Quảng Trị), là một bộ phận đất đai của nước Đại
Việt. Nhà Trần chiêu mộ nhân dân trong vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh vào đây làm ăn
sinh sống, vua Trần còn cắt cử quan lại vào trấn thủ ở vùng Thuận Hóa.
Năm 1466, Lê Thánh Tông chia cả nước thành 12 đạo thừa tuyên, Quảng Trị
là vùng đất thuộc thừa tuyên Thuận Hóa.
Năm 1558, Nguyễn Hoàng được vua Lê cho vào trấn thủ vùng đất Thuận Hóa,

ông chọn Quảng Trị làm nơi đặt thủ phủ của mình tại xã Ái Tử huyện Vũ Xương

15


(nay thuộc huyện Triệu Phong tỉnh Quảng Trị) gọi là dinh Ái Tử với mưu đồ cát cứ
lâu dài. Năm 1570, Nguyễn Hoàng được vua Lê phong làm Tổng trấn hai xứ Thuận
Hóa và Quảng Nam, ông cho di dân, khai khẩn đất đai. Có một thời gian ngắn,
Quảng Trị là thủ phủ của chúa Nguyễn.
Năm 1802, sau khi đánh bại Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế lấy hiệu
là Gia Long. Ông lấy hai huyện Hải Lăng và Đăng Xương thuộc Phủ Triệu Phong,
huyện Minh Linh thuộc Phủ Quảng Bình lập ra Dinh Quảng Trị, riêng phía tây đặt
đạo Cam Lộ thuộc dinh Quảng Trị. “Gia Long năm mới lên ngôi gọi là trực lệ doanh
Quảng Trị có 1 phủ 3 huyện 1 đạo 1 châu là phủ Triệu Phong lĩnh 3 huyện: Đăng
Xương, Hải Lăng, Minh Linh; đạo Cam Lộ lĩnh châu Hướng Hóa” [65, tr.23].
Năm Minh Mạng thứ tư (1823) ở miền núi đặt châu Hướng Hoá thuộc đạo
Cam Lộ. Năm Minh Mạng thứ 8 (1827) đổi dinh Quảng Trị thành trấn Quảng Trị.
Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ có chép: “Minh Mạng năm thứ 8 (1827), đổi
doanh làm trấn bỏ hai chữ trực lệ tất cả 9 đạo trại Mường người thiểu số dâng
cống gồm: Mường Vang, Na Bí, Thượng Kế, Tá Bang, Xương Thịnh, Tầm Bồn, Ba
Lan, Mường Bổng, Làng Thì, đều đổi làm châu” [65, tr.23]. Năm Minh Mạng thứ
12 (1831) đổi trấn Quảng Trị thành tỉnh Quảng Trị và cải đạo Cam Lộ thành phủ
Cam Lộ. Năm 1834 đổi châu Hướng Hoá thành huyện Hướng Hoá. Năm 1836 đặt
thêm huyện Địa Linh với đất trích ở hai huyện Minh Linh và Đăng Xương.
Năm Tự Đức thứ 3 (1850) đổi huyện Hướng Hoá thành huyện Thành Hoá.
Năm 1853, Tự Đức bỏ tên tỉnh Quảng Trị thành lập đạo Quảng Trị và sát nhập vào
Phủ Thừa Thiên. Đến năm 1876 lại đổi đạo Quảng Trị thành tỉnh Quảng Trị như cũ
và đặt lại 2 phủ Triệu Phong và Cam Lộ kiêm lý hai huyện Đăng Xương và Thành
Hóa. Năm Đồng Khánh thứ 1 (1886) đặt huyện Gio Linh, tức huyện Địa Linh cũ.
Năm Duy Tân thứ 2 (1908) đổi huyện Thành Hoá làm huyện Hướng Hoá. Theo

Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, dưới triều Nguyễn, tỉnh Quảng Trị “có 2 phủ 5
huyện 9 châu là phủ Triệu Phong lĩnh 4 huyện: Đăng Xương, Hải Lăng, Minh Linh,
Địa Linh; phủ Cam Lộ lĩnh 1 huyện Hướng Hóa và 9 châu: Mường Vang, Na Bí,
Thượng Kế, Tá Bang, Xương Thịnh, Tầm Bồn, Ba Lan, Mường Bổng, Làng Thì”
[65, tr.23]. Các châu ấy nay thuộc về đất Lào.

16


Dưới thời Pháp thuộc, về cơ bản hệ thống hành chính cơ sở ở Quảng Trị vẫn
được giữ như cũ, chỉ thay đổi địa giới, tên gọi một số huyện. Cả tỉnh lúc này có 6
huyện là: Hải Lăng, Triệu Phong, Gio Linh, Vĩnh Linh, Cam Lộ và Hướng Hoá.
Năm 1906, Phủ toàn quyền Đông Dương quyết định thành lập thị xã Quảng Trị.
Ngày 5/9/1929 Phủ toàn quyền Pháp ở Đông Dương quyết định thành lập thêm thị
xã Đông Hà. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, các đơn vị hành chính
cấp phủ đổi thành cấp huyện, bỏ đơn vị cấp tổng, giữ cấp xã.
Tháng 7/1954 Hiệp định Giơnever được ký kết, nước ta tạm thời bị chia cắt
làm hai miền Bắc - Nam, vĩ tuyến 17 sông Bến Hải là giới tuyến quân sự chia đôi
tỉnh Quảng Trị. Với âm mưu chia cắt lâu dài, chính quyền Sài Gòn thành lập 3 quận
phía Nam sông Bến Hải là: Quận Ba Lòng, quận Mai Lĩnh, quận Trung Lương. Phía
Bắc sông Bến Hải là huyện Vĩnh Linh có vị trí và vai trò đặc biệt là tiền đồn của miền
Bắc xã hội chủ nghĩa, hậu phương trực tiếp của miền Nam ruột thịt nên Chính phủ
quyết định thành lập đặc khu Vĩnh Linh trực thuộc Trung ương, tương đương đơn vị
hành chính cấp tỉnh. Tháng 3 năm 1975, Quảng Trị được giải phóng hoàn toàn. Từ
tháng 7/1976, tỉnh Quảng Trị cùng với tỉnh Quảng Bình, tỉnh Thừa Thiên Huế và khu
vực Vĩnh Linh hợp nhất lại thành lập tỉnh mới đó là tỉnh Bình - Trị - Thiên. Bấy giờ các
huyện của tỉnh Quảng Trị cũ cũng tiến hành sát nhập lại với quy mô lớn hơn (gồm 1 thị
xã và 3 huyện): Thị xã Đông Hà (gồm Đông Hà và một phần Cam Lộ); huyện Bến Hải
(gồm huyện Vĩnh Linh, Gio Linh và một phần Cam Lộ); huyện Triệu Hải (gồm Triệu
Phong, Hải Lăng, thị xã Quảng Trị) và huyện Hướng Hoá.

Tháng 7/1989, Quảng Trị trở lại đơn vị hành chính cấp tỉnh trực thuộc Trung
ương có 4 đơn vị hành chính: thị xã Đông Hà, Bến Hải, Triệu Hải, Hướng Hoá.
Đến đầu năm 1991 có sự thay đổi về địa giới và tên gọi các huyện, thị xã của
tỉnh Quảng Trị như sau: Thị xã Đông Hà tách ra thành lập thị xã Đông Hà và huyện
Cam Lộ; huyện Bến Hải tách ra thành lập 2 huyện là: Vĩnh Linh và Gio Linh;
Huyện Triệu Hải tách ra thành lập 3 huyện, thị xã là: Triệu Phong, Hải Lăng và thị
xã Quảng Trị. Đến đầu năm 1997 huyện Hướng Hoá được tách ra thành lập 2 huyện
là: Hướng Hoá và Đakrông. Năm 2004, huyện đảo Cồn Cỏ được thành lập.

17


Tính đến nay, toàn tỉnh Quảng Trị có 10 đơn vị hành chính gồm thành phố
Đông Hà trực thuộc tỉnh Quảng Trị, thị xã Quảng Trị và 8 huyện (Vĩnh Linh, Gio
Linh, Triệu Phong, Hải Lăng, Cam Lộ, Hướng Hóa, Đakrông, huyện đảo Cồn Cỏ).
Với một diễn trình lịch sử hình thành và phát triển, nội chiến và chia cắt; một vị trị
địa lý khá đặc thù, Quảng Trị trở thành nơi gặp gỡ, tiếp nhận và giao hoà nhiều hệ
văn hoá khác nhau. Trên nền của văn hoá tiền và sơ sử, hội tụ ở đó không ít dấu tích
của văn hoá Sơn Vi, Hoà Bình, Đông Sơn, Sa Huỳnh là quá trình tiếp biến khi tiếp
cận với văn hoá Hán, Chămpa, Đại Việt, kể cả văn hoá phương Tây... Tất cả đã đan
vào nhau trong khả năng dung hoà, dung hợp của người Quảng Trị để trở thành tài
sản của chính mình trên hành trình tiến về phía trước.
1.2. Truyền thống giáo dục và khoa cử Nho học ở Quảng Trị trƣớc năm 1802
Quảng Trị trong khoảng từ thế kỷ XI – XIV là vùng đất địa đầu của quốc gia
phong kiến Đại Việt. Cũng trong giai đoạn này, Chămpa thường xuyên tổ chức
những cuộc xâm chiếm, quấy phá ở vùng Thuận Hóa, vậy nên công tác giáo dục và
khoa cử ở Quảng Trị thời kỳ này chưa có điều kiện để hình thành và phát triển.
Đến thế kỷ XV, dưới thời Lê Sơ, nhà nước phong kiến trung ương tập quyền
được xác lập và cũng cố vững mạnh. Nhà nước đề cao Nho giáo, ưu tiên tuyển chọn
quan lại bằng con đường khoa cử, từ đây nền giáo dục khoa cử Nho học đi vào nề

nếp. Tuy nhiên, không như các sĩ tử từ Hà Tĩnh trở ra bắc đã có bề dày truyền thống
giáo dục và khoa cử hàng trăm năm, Quảng Trị trong bối cảnh xứ Thuận Hóa là
vùng đất mới, con đường cử nghiệp, học hành, đèn sách tất nhiên còn mỏng manh,
sơ sài, vô cùng khó khăn, tốn kém và lâu dài.
Quảng Trị là vùng đất ít được sự ưu đãi của tự nhiên, nghèo về tiềm năng,
cuộc sống người dân luôn khốn khó và thường xuyên bị đe dọa bởi thiên tai. Là
vùng đất “gió Lào cát trắng”, một vùng quê nghèo xơ xác, nhưng điều đó đã hun
đúc cho người Quảng Trị một lối sống quen chịu đựng gian khổ, biết vượt lên hoàn
cảnh, luôn tìm cách vượt qua nghèo khó để vươn lên. Điều vô cùng quý báu và đáng
trân trọng chính là con đường vượt qua nhọc nhằn, khó khăn với lòng khát vọng
khổ học để thành tài của con người Quảng Trị. Trong số đó, Bùi Dục Tài là tấm
gương sáng để mọi thế hệ sau cùng noi theo. “Vào thời điểm đó cái chữ quý hơn

18


vàng, làng không có thầy dạy học. Việc học hành rất khó khăn nhưng cụ Bùi Dục
Tài đã cố gắng tìm sách để đọc, tìm thầy để học. Quá trình đi thi cũng rất khó khăn,
cụ phải lều chõng ra đến Thăng Long để dự thi” [116]. Trong kỳ thi Hương năm
Tân Dậu đời vua Lê Hiến Tông niên hiệu Cảnh Thống năm thứ 4 (1501), Bùi Dục Tài
đỗ Hương cống. Tại kỳ thi Hội năm 1502 lấy đỗ 61 người, trong đó có Bùi Dục Tài.
Để xếp hạng những người đã được chọn lọc qua kỳ thi Hội, tại kỳ thi Đình vua Lê Hiến
Tông đích thân ra đề văn sách hỏi về công việc đế vương trị nước. Bùi Dục Tài đỗ Đệ
nhị giáp tiến sĩ, được ban yến, ban mũ áo, cờ biển mang chữ “Đệ nhị giáp tiến
sĩ” và “Sắc tứ vinh quy”, được khắc tên vào bia đá ở Văn Miếu. Ông xứng đáng là
người “sớm nêu sĩ vọng, đột phá khai khoa” [2, tr.138].
Năm 1558, lấy cớ vào trấn thủ vùng Thuận Hóa, Nguyễn Hoàng đã tổ chức
khai phá, mở rộng đất đai, củng cố thế lực, chăm lo phát triển kinh tế, ổn định xã
hội. Trường học chủ yếu được mở trong dân gian, việc học hành và thi cử đã được
các làng xã quan tâm. Trong bối cảnh đó, ở triều đình việc tổ chức giáo dục khoa cử

chưa được chặt chẻ, chính quyền các chúa Nguyễn cũng đã quan tâm việc tổ chức
học hành và thi cử, nhưng do còn có nhiều việc cấp bách cụ thể như việc phát triển
thế lực để đối trọng với Đàng Ngoài, chính quyền chúa Nguyễn sử dụng nhân tài
qua con đường tiến cử là chủ yếu. Chính vì vậy, số người Quảng Trị đỗ đạt dưới
thời chúa Nguyễn, thời quân Trịnh chiếm đóng và Tây Sơn còn hạn chế.
Sang thời nhà Nguyễn, ngay từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi (1802) lấy hiệu là
Gia Long, đã quan tâm phát triển giáo dục và khoa cử làm phương tiện chủ yếu để
đào tạo, rèn luyện nhân tài. Giáo dục và khoa cử dưới thời Nguyễn được tổ chức
chặt chẻ, có hệ thống từ trung ương đến địa phương. Quảng Trị là vùng đất giáp
ranh Phủ Thừa Thiên nên cũng đã có những bước phát triển mới về công tác giáo
dục và đạt được nhiều kết quả.
Quảng Trị có vị trí giáp với Kinh đô Huế ở phía Nam, đây là yếu tố tác động
mạnh đến lịch sử phát triển của tỉnh Quảng Trị nói chung và tình hình giáo dục khoa cử nói riêng. Có vị trí ở gần kinh đô, được triều đình quan tâm, Quảng Trị có
điều kiện để phát triển kinh tế, xã hội, nhất là ổn định về chính trị, không thường
xuyên diễn ra khởi nghĩa nông dân như ở các tỉnh Bắc Kỳ. Với việc triều Nguyễn

19


xây dựng nhà nước theo thể chế quân chủ trung ương tập quyền, lấy Nho giáo làm
hệ tư tưởng chính thống, Quảng Trị là tỉnh giáp ranh về phía Bắc của Kinh đô đã
chịu nhiều tác động của hệ tư tưởng Nho giáo, trường học dạy chữ Nho được mở ra,
triều đình quan tâm phát triển Nho học ở các tỉnh ở gần kinh đô. Mặt khác, là vị trí
kinh đô, triều đình ưu tiên lấy đỗ nhiều người trong các kỳ thi Hương, Nho sĩ
Quảng Trị tham gia dự thi tại trường thi Thừa Thiên có nhiều thuận lợi, “Kinh sư là
đất đứng đầu tất cả, gần đây văn phong ngày một chấn khởi, sĩ số thêm nhiều lên,
đã chuẩn cho giải ngạch lấy 38 tên, nay thêm 12 tên, cho đủ số 50” [84, tr.1044].
Bên cạnh đó, trước đây sĩ tử phải lều chõng ra đến Thăng Long dự thi, Nho sĩ phải
có hoàn cảnh khá giả hay được giúp sức của cả làng xã, dòng họ mới có điều kiện
lên kinh dự thi, tuy nhiên, dưới triều Nguyễn việc sĩ tử đi lại dự thi thuận lợi hơn

trước đây và các tỉnh khác.
Ngoại trừ danh nhân Bùi Dục Tài, còn lại người Quảng Trị hầu hết đỗ đạt vào
thời triều Nguyễn. Theo thống kê từ các kỳ thi dưới triều Nguyễn, Quảng Trị có 14
Tiến sĩ, 10 Phó bảng và 187 Cử nhân. Trong hoàn cảnh khó khăn, Quảng Trị không có
điều kiện phát triển giáo dục so với các tỉnh, nhất là các tỉnh ngoài Bắc nhưng với nghị
lực phi thường, người Quảng Trị đã nỗ lực vượt lên mọi khó khăn, trong đó với những
tên tuổi như: Nguyễn Đức Hoạt, Nguyễn Tăng Doãn, Hoàng Hữu Xứng, Lâm Hoành,
Nguyễn Văn Tường, Lê Đăng Trinh, Nguyễn Tự Như, Lê Đức, Lê Nguyên Lượng…
1.3. Khái quát giáo dục - khoa cử Nho học dƣới triều Nguyễn
1.3.1. Chính sách về giáo dục và khoa cử
Thứ nhất, nhằm tuyển dụng, đào tạo và phát triển đội ngũ quan lại, nhà
Nguyễn rất coi trọng việc học hành thi cử. Ngay sau khi lên ngôi Hoàng đế, trong
chuyến ra thăm Thăng Long lần đầu tiên (1802), vua Gia Long đã cùng tùy tùng lo
tính khôi phục giáo dục, bàn về phép khoa cử để khi thích hợp sẽ tổ chức thi
Hương, thi Hội, đào tạo nhân tài giúp nước. Khi mới lên ngôi, vua Gia Long rất trân
trọng và tin dùng giới sĩ phu Bắc Hà, “ông đã mời được các Nho sĩ Phan Huy Ích,
Bùi Dương Lịch, Phạm Đình Hổ, Phạm Quý Thích, Nguyễn Du… ra làm quan hoặc
phụ trách giáo dục” [31, tr.17], Nguyễn Đình Tứ làm Đốc học phủ Phụng Thiên; Lê
Huy ở Sâm Kinh Bắc; Vũ Đình Tử ở Sơn Nam thượng; Nguyễn Huy Thảng ở Sơn

20


Nam hạ… Trong vòng 3 năm (1803 - 1805), vua Gia Long đã ba lần ban chiếu mời
những người đã qua các kỳ thi dưới thời Lê, hoặc những người thông thạo kinh sử, có
năng lực ra cộng tác với triều Nguyễn để sớm ổn định bộ máy quản lý nhà nước.
Kế vị vua Gia Long, các vua Nguyễn về sau cũng rất coi trọng hiền tài, ban
hành nhiều chính sách để chiêu tập, đào tạo nhân tài phục vụ đất nước “Bên cạnh
việc tiếp tục sử dụng đội ngũ võ quan vừa qua chinh chiến thông qua hai hình thức
tiến cử (hay bảo cử) và nhiệm tử, triều Nguyễn đã luôn coi trọng và sử dụng chế độ

khoa cử làm công cụ chính trong việc tuyển chọn nhân tài” [31, tr.17]. Năm 1820,
vua Minh Mạng xuống chiếu rằng: “Thánh nhân lưu ơn lại không gì bằng gây dựng
cho người, mà kẻ vương giả ra ơn không gì bằng mở khóa thi chọn lấy kẻ sĩ” [89,
tr.1506]. Vua Thiệu Trị cũng đã từng nói “Việc dạy học là chính sự trọng đại của
triều đình cho nên các tỉnh đều đặt chức Đốc học, khiến cho dạy dỗ học trò để làm
cái kế hay về việc tác thành nhân tài” [31, tr.17].
Tiếp nối truyền thống giáo dục của các triều đại trước, các vua đầu triều
Nguyễn đã nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của công cuộc giáo dục đào tạo để tạo
nên nguồn nhân lực về con người phục vụ cho đất nước.
Thứ hai, xây dựng đội ngũ quan lại chăm lo về giáo dục. Đối với trường học
ở kinh đô. Năm 1803, Gia Long cho đặt các chức chánh phó Đốc học ở Quốc Tử
giám. Đến năm 1821, Minh Mạng bỏ các chức danh trên và khôi phục lại Tế tửu,
Tư nghiệp, đặt chức Học chính phụ trách việc học tập của các Tôn sinh. Năm 1838,
triều đình lại cử 2 viên đại thần kiêm lĩnh công việc của Quốc Tử giám với các chức
Tri sự, Đề điệu. Ở các đường (Tập Thiện Đường, Dục Đức Đường…), triều đình đặt
các chức Phụ đạo, Sư bảo, Tán thiện, Bạn độc, Trưởng sử để dạy bảo các hoàng tử,
hoàng đệ. Ở nhà tôn học của con cháu hoàng thân, hoàng đệ do Tổng quản, Giáo
tập, Thừa biện phụ trách.
Ở địa phương, ngay sau khi lên ngôi, Gia Long cho đặt các chức Đốc học,
Trợ giáo. Ở mỗi tỉnh, nhà vua cho đặt các chức Đốc học để quản lý việc giáo dục thi
cử. Năm Gia Long thư 11 (1812) “chuẩn định các dinh trấn trong ngoài, các tổng
bảo cử những người văn học uẩn súc, đáng làm khuôn phép cho học trò, ai 50 tuổi

21


trở lên, mỗi tổng 2 người hoặc 3 người, do trấn cấp giấy ủy nhiệm cho miễn việc
binh, việc sưu để dạy những học trò mới học” [64, tr.93].
Cùng với việc mở rộng trường học, nhà vua cho đặt thêm các chức Giáo thụ,
Huấn đạo ở các phủ, huyện. Năm 1812, Gia Long lệnh cho các dinh trấn chọn

những người có văn học từ 50 tuổi trở lên đặt làm Tổng giáo để dạy các lớp sơ học.
Năm 1821, Minh Mạng quy định: Giáo quan ở các phủ, huyện nếu là Sinh đồ,
Hương cống thì phải đủ 40 tuổi trở lên, người khác (không có học hàm) phải đủ 50
tuổi trở lên. Năm 1824, nhà vua cho xét tuyển Giám sinh Quốc Tử giám để chia bổ
Huấn đạo các huyện. Năm 1825, Minh Mạng cho đặt mỗi huyện 1 Huấn đạo, Năm
1830, lại cho bổ 142 Tú tài từ 40 tuổi trở lên làm Huấn đạo. Đến năm 1856, dưới
thời Tự Đức, triều đình định lệ: Cử nhân đã từng thi Hội từ 40 tuổi trở lên mới được
bổ làm giáo chức. Vào cuối đời Tự Đức chức học quan phải đạt yêu cầu là Tiến sĩ,
Phó bảng hoặc Cử nhân lão thành.
Minh Mạng cũng chăm lo việc học ở địa phương. Đối với việc học ở tỉnh,
năm 1823, Minh Mạng xuống chỉ các doanh, trấn, đạo đặt thêm Đốc học, bớt viên
Trợ giáo. Ở cấp phủ, huyện, cũng trong năm này, Minh Mạng xuống chỉ: “chuẩn
cho mỗi phủ đặt một viên giáo thụ, mỗi huyện đặt 1 viên huấn đạo để dẫn dắt học
sinh, cho văn học được mở rộng” [66, tr.477]
Ngay cả những miền biên ải, những vùng dân tộc thiểu số, nhà Nguyễn cũng
chú trọng việc xây dựng đội ngũ học quan. Dưới thời Thiệu Trị, chức Đốc học,
Giáo thụ, Huấn đạo lần đầu tiên được bổ tới các tỉnh, phủ, huyện vùng biên giới xa xôi
như Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên. Chính sách này cũng được thực hiện trong
thời Tự Đức. Năm Tự Đức thứ 27 (1874), triều đình chuẩn định cho đặt chức dạy học ở
những tỉnh đạo, thổ dân, “các tỉnh đạo, thổ dân thuộc hạt có người muốn đi học thì liệu
đặt chức dạy học… Việc học đều phải đặt chức dạy, để cho đổi cả, bộ phải tuân lệnh tư
cho các tỉnh, đạo gián hoặc có dân Thổ muốn đi học, xét tâu trả lời” [86, tr.28], và
chọn người thông hiểu văn chương để đặt chức Tổng giáo để phục vụ cho việc dạy học
“chọn người đỗ Tú tài hoặc là học trò ở trong hạt, người nào hơi thông văn học, hiểu
biết tiếng Kinh, tiếng Thổ… Tùy theo học trò ít nhiều, địa thế xa gần, 1 tổng hoặc 2

22



×