Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Đồn điền ở Nam kỳ dưới triều Nguyễn từ 1802 đến 1858

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (518.71 KB, 86 trang )

Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Lư

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Dưới triều Nguyễn, vào nửa đầu thế kỷ XIX, nông nghiệp vẫn là
hoạt động kinh tế chủ yếu. Để đảm bảo cho kinh tế nông nghiệp tồn tại và
phát triển thì vấn đề ruộng đất là một trong những yếu tố quyết định.
Được thiết lập vào năm 1802, trong bối cảnh đất nước vừa trải qua
chiến tranh, kinh tế nông nghiệp bị đình trệ, ruộng đất bỏ hoang, nhân dân
xiờu tỏn khắp nơi, xã hội rối loạn, an ninh quốc phòng chưa được củng cố
vững chắc, đặc biệt ở các vùng biên viễn. Trước thực tế đó, triều Nguyễn
đã thực thi những chính sách lớn, nhằm khôi phục ản xuất nông nghiệp, ổn
định đời sống nông dân, ổn định xã hội, củng cố an ninh quốc phòng. Một
trong những chính sách quan trọng đó là khai hoang, lập đồn điền.
Nam kỳ, là một trong những khu vực được chính quyền nhà Nguyễn
đặc biệt quan tâm trong việc khai hoang, lập đồn điền. Bởi vì, cho tới đầu
thế kỷ XIX, Nam kỳ là khu vực có đất đai trù phú, màu mỡ, nhưng lại chưa
khai thác được nhiều. Bên cạnh đó, dân cư ở đây lại còn thưa thớt. Nam kỳ
còn là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng, có đường biên giới giáp với
Campuchia và vịnh Thái Lan.
Nghiên cứu đồn điền ở Nam kỳ nửa đầu thế kỷ XIX, giúp chúng ta
có cái nhìn toàn diện hon về tình hình kinh tế Việt Nam nửa đầu thế kỷ
XIX, qua đó đánh giá một cách khách quan về vai trò của triều Nguyễn đối
với lịch sử dân tộc thông qua đánh giá vai trò của việc khai hoang, lập đồn
điền ở Nam kỳ.
Qua việc nghiên cứu đồn điền ở Nam kỳ, giúp chúng ta tìm ra những
điểm tương đồng và khác biệt giữa đồn điền ở Nam kỳ với đồn điền ở Bắc
và Trung kỳ.
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
1


Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Lư

Xuất phát từ những mục đích trờn, tụi đó lựa chọn đề tài “ Đồn điền ở
Nam kỳ dưới triều Nguyễn từ 1802 đến 1858” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Vấn đề khai hoang dưới triều Nguyễn cũng như việc lập đồn điền nói
chung trong lịch sử dân tộc đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của
nhiều học giả trong và ngoài nước. Trong đó, các nguồn sử liệu về công
cuộc khẩn hoang nói chung và khẩn hoang theo hình thức lập đồn điền nói
riêng khá đa dạng. Qua quá trình thống kê và sưu tầm tư liệu tôi thấy có một
số tác phẩm đề cập đến vấn đề lập đồn điền ở Nam kỳ dưới triều Nguyễn.
Bộ Đại Nam thực lục, do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn,
NXB Giáo dục, năm 2007. Đây là bộ biên niên sử Việt Nam viết về triều
đại cỏc chỳa Nguyễn và các vua Nguyễn, gồm phần tiền biên và chớnh
biờn. Tác phẩm cung cấp những tư liệu lịch sử dưới triều Nguyễn trên tất
cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Nội dung của công cuộc
khai hoang lập đồn điền cũng được nhắc đến cụ thể, đặc biệt ở vùng đất
Nam kỳ. Tuy nhiên do viết theo lối biên niên nên những vấn đề nghiên cứu
nằm rải rác không theo hệ thống.
Bộ Quốc triều chớnh biờn toỏt yếu, NXB thuận Hóa, Huế, năm
1998. Nội dung của bộ sách này ghi lại những sự kiện lớn dưới các triều
triều vua Nguyễn ở mức độ khái quát. Trong đó có đề cập đến những chính
sách khai hoang lập đồn điền ở vùng đất Nam kỳ mà chủ yếu là dưới triều
vua Minh Mạng và Tự Đức.
Bộ Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ do Nội các triều Nguyễn biên
soạn, NXB Thuận Hóa, năm 2004. Đây là bộ sách ghi chép khá đầy đủ các
sự kiện chính từ đời vua Gia Long đến vua Duy Tân. Trong đó có đề cập
tới chính sách lập đồn điền ở Nam kỳ.
Từ những năm 50 của thế kỷ XX trở đi, các nhà sử học quan tâm nhiều
hơn đến vấn đề ruộng đất và công cuộc khẩn hoang của triều Nguyễn.

Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
2
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Lư

Năm 1960, tác giả Phan Huy Lê đã cho xuất bản cuốn sách “Lịch sử
chế độ phong kiến Việt Nam” tập 3 của NXB Giáo dục. Tác phẩm đã khái
quát lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XIX. Trong đó có giới
thiệu về quá trình khai phá vùng đất phía Nam của nước ta từ thời nhà
Trần, Hồ, Lê sơ, Lê – Trịnh đến nhà Nguyễn. Tuy Nhiên việc lập đồn điền
chỉ được tìm hiểu kỹ ở thời kỳ Lê – Trịnh và chúa Nguyễn.
Trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 53/1963, tác giả Chu Thiên cũng
giới thiệu bài viết “Chính sách khai hoang dưới triều Nguyễn”. Tác giả đề
cập đến chính sách khẩn hoang từ thời kỳ Nguyễn Ánh chiếm giữ Gia Định
đến thời kỳ trị vì của vua Tự Đức. Trong các hình thức khai hoang có hình
thức đồn điền và kết quả của nó ở mức độ khái quát nhất.
Tác giả Nguyễn Thế Anh, năm 1971 cho công bố tác phẩm “Kinh tế
và xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn” của NXB Sài Gòn. Nội
dung cuốn sách giới thiệu về đời sống kinh tế và xã hội của triều Nguyễn,
cũng như những tác động của nó đến tình hình chính trị đương thời. Trong
đó, vấn đề lập đồn điền và ý nghĩa của nó được tác giả nhấn mạnh trong hai
triều vua Gia Long và Minh Mạng.
Sau năm 1975, khi đất nước hoàn toàn độc lập thỡ cỏc nhà nghiên
cứu cũng có điều kiện để tìm hiểu về nhà Nguyễn cũng như các vấn đề liên
quan tới vương triều này. Vì vậy mà các công trình nghiên cứu rất da dạng.
Năm 1979, tác giả Vũ Huy Phúc giới thiệu tác phẩm “Tìm hiểu chế
độ ruộng đất Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ XIX “của NXB Khoa học xã hội,
Hà Nội. Trong đó việc thành lập đồn điền ở nửa đầu thế kỷ XIX được trình
bày theo các giai đoạn cùng với quá trình trị vì của bốn vị vua đầu triều
Nguyễn. Trong mỗi giai đoạn, tác giả đề cập cụ thể cả địa điểm lập đồn

điền, lực lượng lao động và kết quả sản xuất trong các đồn điền. Tuy nhiên
tác phẩm trình bày rải rác việc lập đồn điền trên toàn quốc còn ở Nam kỳ
thì mới chỉ dừng lại ở mức độ giới thiệu chưa đi vào chi tiết.
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
3
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Lư

Tới năm 1984, tác giả Sơn Nam đã cho xuất bản cuốn sách “Đất
Gia Định xưa” của NXB Thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung của cuốn sách
giới thiệu về vùng đất Gia Định xưa trong thời kỳ từ thế kỷ XVII đến hết
thế kỷ XIX. Trong đó tác phẩm dành một phần trình bày về vị trí và ý
nghĩa của việc lập đồn điền ở vùng đất Nam kỳ dưới triều Nguyễn.
Trong tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 2/1984, tác giả Huỳnh Lứa đã
cho trình bày bài viết “Mấy nhận xét về cơ cấu sử dụng ruộng đất ở vùng
Đồng Nai – Gia Định nửa đầu thế kỷ XIX”. Bài viết giới thiệu về lịch sử
khai phá vùng đất Đồng Nai – Gia Định qua các thời kỳ lịch sử từ trước khi
chúa Nguyễn tới cho đến thế kỷ XIX. Trong đó có trình bày khái quát về
chính sách lập đồn điền của vua Gia Long, Minh Mạng, Tự Đức ở Nam kỳ.
Cũng trong tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 3/1984, tác giả Vũ Huy
Phúc với bài viết “Đồn điền một loại hình tổ chức sản xuất nông nghiệp
quan trọng nửa đầu thế kỷ XIX”. Bài viết đã đề cập đến việc lập đồn điền
trong giai đoạn trước thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XIX từ 1802 – 1858.
Dưới triều Nguyễn hình thức đồn điền được chia theo thời kỳ trị vì của các
vị vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Tuy nhiên, tác giả mới
chỉ tập trung nhấn mạnh về chính sách lập đồn điền của cả nước trên toàn
quốc chưa đi sâu tìm hiểu ở Nam bộ.
Cũng trong năm 1984, tác giả Trần Thị Thanh Thanh công bố tác
phẩm “Quá trình khai phá vùng đất Nam bộ trong thế kỷ XVII, XVIII” của
NXB Đại học sự phạm Hà Nội. Tác phẩm đã trình bày khái quát lịch sử

khai phá vùng đất Nam bộ qua các giai đoạn khác nhau của chúa Nguyễn.
Trong đó chương 1 có đề cập đến những tiềm năng để thành lập các đồn
điền ở Nam bộ.
Năm 1994, tác giả Trần Thị Thu Lương cho ra mắt tác phẩm “Chế
độ sở hữu và canh tác ruộng đất ở Nam bộ nửa đầu thế kỷ XIX” của NXB
Thành phố Hồ Chí Minh. Tác phẩm nghiên cứu việc sử dụng và canh tác
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
4
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Lư

ruộng đất ở Nam bộ dựa vào nguồn tư liệu địa bạ của triều Nguyễn. Do đó
đề cập rất toàn diện về các loại ruộng đất ở khu vực Nam bộ nửa đầu thế kỷ
XIX. Trong đó, tác giả có nhắc đến hình thức khẩn hoang lập đồn điền của
triều Nguyễn và kết quả của nó thuộc sở hữu trực tiếp của nhà nước.
Năm 1997, tập thể tác giả: Trương Hữu Quýnh, Đỗ Bang, Vũ Minh
Giang, Vũ Văn Quân, Nguyễn Quang Trung Tuyến đã cho xuất bản tác
phẩm “Tình hình nông nghiệp và đời sống nhân dân dưới triều Nguyễn”
của NXB Thuận Hóa. Tác phẩm giới thiệu toàn bộ nền kinh tế nông nghiệp
dưới triều Nguyễn từ công tác trị thủy, chính sách ruộng đất của nhà nước
đến thực trạng nông thôn Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ XIX. Trong phần 2,
tác giả đề cập đến chính sách khai hoang phục hóa của nhà Nguyễn, quá
trình thực hiện và kết quả. Trong đó, đồn điền được coi là một biện pháp
khai hoang tích cực. Mặc dù vậy thông tin về đồn điền chỉ được trình bày
một cách khái quát nhất là ở Nam kỳ.
Năm 1999, tác giả Nguyễn Đình Đầu cho ra đời tác phẩm “Chế độ
công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang lập ấp ở Nam kỳ lục tỉnh” của
NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. Tác phẩm thống kê các dạng ruộng đất
công điền công thổ ở Nam kỳ trong đó có đồn điền. Tác giả tập trung nhấn
mạnh mức thuế trong các đồn điền ở Nam kỳ mà người sản xuất phải đóng

góp, cũn cỏc nội dung khác về đồn điền thì chỉ dừng lại ở mức độ giới thiệu.
Năm 2000, tác giả Huỳnh Lứa đã công bố công trình “Góp phần tìm
hiểu vùng đất Nam bộ qua các thế kỷ XVII, XVIII, XIX” của NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội. Tác phẩm trình bày các chính sách khai hoang của
chính quyền nhà nước trong suốt 3 thế kỷ ở Nam kỳ. Trong đó tác giả trình
bày những chính sách lập đồn điền của Nguyễn Ánh mà sau này là vua Gia
Long. Đồng thời thống kê kết quả của việc lập đồn điền ở Nam kỳ trong
từng giai đoạn. Tuy nhiên đồn điền chỉ là một phần nhỏ trong công trình
nghiên cứu của giả Huỳnh Lứa nên vấn đề chưa được khai thác nhiều.
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
5
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Lư

Năm 2002, tập thể tác giả Trần Bạch Đằng, Huỳnh Lứa, Lê Xuõn
Diệm cho xuất bản cuốn sách “Nam bộ đất và người” của NXB Trẻ, Thành
phố Hồ Chí Minh. Tác phẩm giới thiệu lịch sử hình thành và đời sống dân
cư Nam bộ trong giai đoạn đầu khai phá lập làng cho đến thời kỳ đổi mới
của đất nước. Trong tình hình nông nghiệp tác phẩm đề cập đến việc lập
đồn điền của các vị vua Nguyễn ở thế kỷ XIX và những đóng góp của nó
đối với sự phát triển kinh tế của cả vùng.
Năm 2007, tập thể các tác giả: Trần Thị Mai, Cao Tự Thanh, Hồng
Duệ, Hoàng Mai cũng cho ra mắt tác phẩm “Lịch sử Gia Định – Sài Gòn từ
1802 – 1875” của NXB Văn hóa Sài Gòn. Tác phẩm giới thiệu tình hình
kinh tế, chính trị, xã hội của vùng đất Gia Định – Sài Gòn trong khoảng thời
gian 73 năm dưới sự trị vì của các vị vua triều Nguyễn. Trong đó vấn đề lập
đồn điền ở Gia Định – Sài Gòn được coi là một trong những biện pháp có ý
nghĩa kinh tế - xã hội lớn lao. Tuy nhiên tác phẩm chỉ dừng lại ở mức độ
giới thiệu vị trí và vai trò của việc lập đồn điền chứ chưa tìm hiểu sâu.
Ngày mùng 4/5/2006, tại thành phố Hồ Chí Minh, đã diễn ra hội thảo

khoa học lịch sử Việt Nam về Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam bộ đến
cuối thế kỷ XIX. Năm 2009, các báo cáo của Hội thảo được in thành tập
“Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam bộ đến cuối thế kỷ XIX” của NXB
Thế giới. Trong đó có rất nhiều bài viết về chính sách ruộng đất của nhà
nước đối với vùng đất Nam kỳ từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX, nhưng
không có bài viết nào nghiên cứu sâu về việc lập đồn điền ở Nam kỳ dưới
triều Nguyễn.
Năm 2009, tác giả Mai Tấn Phỳc đó công bố công trình “Chính sách
đồn điền dưới triều Nguyễn (1802 – 1883)”. Tác phẩm khái quát chính
sách đồn điền trong lịch sử phong kiến và tập trung nghiên cứu những
quyết định thành lập đồn điền trong cả nước của các vị vua từ Gia Long
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
6
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Lư

đến Tự Đức. Do đó, chưa đi sâu nghiên cứu toàn bộ về việc lập đồn điền ở
Nam kỳ trong nửa đầu thế kỷ XIX.
Ngoài các tác phẩm kể trên thì vấn đề khai hoang lập đồn điền ở
Nam kỳ dưới triều Nguyễn còn được đề cập rải rác trong các giáo trình đã
được xuất bản như: Đại cương lịch sử Việt Nam tập1, do tác giả Trương
Hữu Quýnh chủ biên và Đại cương lịch sử Việt Nam tập 2 của tác giả Đinh
Xuõn Lõm chủ biên của NXB Giáo dục, năm 2006. Tiến trình lịch sử Việt
Nam của Nguyễn Quang Ngọc chủ biên, Lịch sử Việt Nam quyển 2, tập 2
của Nguyễn Phan Quang chủ biờn…
Như vậy, trong các công trình nghiên cứu kể trên vấn đề lập đồn điền
ở Nam kỳ dưới triều Nguyễn giai đoạn từ 1802 – 1858 mới chỉ được đề cập
ở mức độ khái quát, đơn giản mà chưa có một công trình nào nghiên cứu
chuyờn sõu. Do đó tôi mong muốn nghiên cứu vấn đề “Đồn điền nhà
Nguyễn ở Nam kỳ từ 1802 đến 1858” một cách hệ thống và toàn diện dựa

trên sự kế thừa thành quả của những người đi trước.
3. Đối tượng, phạm vi, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
3.1 Đối tượng.
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là đồn điền ở Nam kỳ dưới triều
Nguyễn từ 1802 đến 1858.
3.2 Phạm vi nghiên cứu.
Về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu đồn điền ở Nam kỳ . Tức
là địa bàn từ Bình Thuận tới mũi Cà Mau.
Về thời gian: Khóa luận chỉ nghiên cứu sâu đồn điền ở Nam kỳ dưới
triều Nguyễn trong giai đoạn từ 1802 đến 1858. Từ khi triều Nguyễn được
thiết lập tới khi thực dân Pháp chính thức nổ súng xâm lược nước ta.
3.3 Nhiệm vụ nghiên cứu:
Đề tài tập trung làm rõ những vấn đề sau:
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
7
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Lư

Khỏi quát về vùng đất Nam kỳ từ vị trí địa lý, đất đai, khí hậu, sông
ngòi để thấy được tiềm năng khai phá đất đai của khu vực này. Đây là nền
tảng để nhà Nguyễn thi hành rộng rãi việc lập đồn điền ở Nam kỳ.
Chính sách khai hoang, quy mô, hình thức, phương thức canh tác và
kết quả trong các đồn điền ở Nam kỳ dưới triều Nguyễn từ 1802 – 1858.
Từ đó làm nổi bật lên nét đặc trưng của hình thức khai hoang lập đồn điền
so với các hình thức khai hoang khác.
Thông qua việc nghiên cứu đồn điền ở Nam kỳ dưới triều Nguyễn
rút ra các đặc điểm, đánh giá vai trò của đồn điền đối với tình hình kinh tế,
xã hội và an ninh quốc phòng triều Nguyễn.
4. Nguồn tư liệu và Phương pháp nghiên cứu.
4.1. nguồn tư liệu.

Trong quá trình nghiên cứu, tôi sử dụng các nguồn tư liệu chính sau:
Tư liệu gốc : Bao gồm các bộ sử do Quúc sử quán triều Nguyễn biên
soạn như : Đại Nam thực lục, Quốc triều chớnh biờn toỏt yếu,…
Nguồn tài liệu tham khảo : Đó là sách chuyên khảo về kinh tế triều
Nguyễn, tạp chí Nghiên cứu lịch sử.
Xuất phát từ đối tượng và nhiệm vụ của đề tài, trong quá trình
nghiên cứu, Tôi sử dụng kết hợp phương pháp lịch sử và phương pháp
lụgic.
Bên cạnh đó, Tôi còn sử dụng các phương pháp thống kê, phương
pháp so sánh, phân tích, đánh giá sự kiện…để làm rừ tớnh khách quan khoa
học của các sự kiện, hiện tượng lịch sử.
5. Đóng góp của đề tài.
Nghiên cứu đề tài “Đồn điền ở Nam kỳ dưới triều Nguyễn từ 1802
đến 1858” góp phần khôi phục lại hoạt động sản xuất trong các đồn điền ở
Nam kỳ dưới triều Nguyễn qua đó đánh giá được nét tích cực và hạn chế
trong chính sách khai hoang lập đồn điền của nhà Nguyễn.
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
8
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Lư

Đồng thời, những kết quả mà khóa luận nghiên cứu được sẽ là luận
cứ cho những nhận định, đánh giá khách quan nhất về những đóng góp của
nhà Nguyễn với lịch sử dân tộc mà đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp.
Đề tài còn là nguồn tư liệu phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu,
giảng dạy về lịch sử triều Nguyễn.
6. Bố cục của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung
của khóa luận chia làm ba chương với bố cục như sau:
Chương 1: Khái quát về Nam kỳ

Chương 2: Đồn điền ở Nam kỳ dưới triều Nguyễn từ 1802 đến 1858.
Chương 3: Đặc điểm, vai trò của đồn điền đối với kinh tế, xã hội,
quốc phòng an ninh triều Nguyễn từ năm 1802 đến 1858.
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
9
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Lư

NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ Nam KỲ
1.1. Vị trí địa lý, địa hình, đất đai.
Nam kỳ là một trong những bộ phận cấu thành lãnh thổ nước ta.
Phía Tây giáp với vịnh Thái Lan. Đây là một trong những vũng vịnh kín
gió nhất của khu vực Đông Nam Á. Vào thế kỷ thứ VI, phía Tõy Nam kỳ
thuộc lãnh thổ của nước Phù Nam nhờ có vị trí giáp vịnh Thái Lan mà Phù
Nam đã trở thành một đế quốc hùng mạnh thời cổ đại. Dưới thời nhà
Nguyễn, khu vực giáp vịnh Thái Lan này là cảng biển đồng thời là nơi neo
đậu tàu thuyền buôn bán của nước ta với bên ngoài.
Phía Đông của Nam kỳ giáp biển Đông là điều kiện thuận lợi cho
giao thông đường thủy và kỹ thuật hàng hải phát triển. Phía Bắc và Tây
Bắc giáp Campuchia, đất nước có lịch sử truyền thống văn hóa lâu đời. Đây
là cửa ngõ liên hệ với Campuchia và Thái Lan, Malaysia thông qua mạng
đường bộ xuyên Á. Đồng thời có thể kết hợp với cửa ngõ phía Đông liên hệ
với các nước trên thế giới thông qua hệ thống cảng biển Sài Gòn, Bà Rịa –
Vũng Tàu, Thị Vải. Việc hình thành cửa ngõ phía Đông và phía Tây đã tạo
lập thành hành lang kinh tế Đông – Tây, nơi diễn ra nhiều hoạt động kinh
tế sôi động trong vùng, đồng thời tạo lên sức hút mạnh mẽ đối với các nhà
đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư vào. Nam kỳ cũn cú một mặt tiếp giáp
với Tõy nguyên và Nam trung bộ nơi có nguồn đất đai màu mỡ.

Với vị trí địa lý thuận lợi, nơi đây từ rất sớm đã thu hút sự quan tâm
đầu tư phát triển của chính quyền nhà nước ngay từ thời kỳ cổ đại. Trải qua
nhiều thế kỷ, vùng đất Nam kỳ là tài sản quý giá của đất nước đem lại rất
nhiều nguồn lợi. Giống như các nước phong kiến khác, nhà Nguyễn cũng
muốn mở mang bờ cõi xuống phía Nam. Lúc này, Nam kỳ giữ vai trò là
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
10
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Lư

vựa lúa, là tiền đồn của nước Việt. Địa thế vựng Chõu Đốc, Hà Tiên của
khu vực Nam kỳ không kém Bắc thành về an ninh quốc gia. Nếu Bắc thành
để ngăn nạn xâm lăng của Trung Hoa thì Hà Tiờn, Châu Đốc để ngăn ngừa
giặc Xiêm và giặc Cao Miên. Vua Cao Miên và vua Xiờm luụn cú âm mưu
chiếm cứ vùng đất Nam kỳ phì nhiêu của nước ta. Hơn nữa, vào đầu thế kỷ
XIX, Xiêm là mối nguy hiểm lớn đối với nền độc lập của Đại Việt. Vua
Xiờm tỡm mọi cách mở rộng biên giới “Từ năm 1795, Xiêm chiếm cứ vùng
Bantambang và Siemrap của Cao Miên. Năm 1814, lấn luụn vựng
Melauprey và Stungtreng thuộc tả ngạn sông Cửu Long, thọc sâu giữa
lãnh thổ Lào và Cao Miên. Vua Xiờm cũn có tham vọng tiến xuống bán
đảo Mã Lai” [24; tr19]. Vì thế các tỉnh thuộc khu vực Nam kỳ từ Phú Yên
tới Biên Hòa đều được bố trí phòng thủ cẩn thận.
Giữa nước ta và Cao Miên, biên giới giáp nhau ở trấn Phiên An và
Đồng Tháp Mười thuộc khu vực Nam kỳ. Giặc Cao Miên có thể tiến vào
nước ta theo hai hướng đi qua sông Cửu Long tiến sâu vào Định Tường
hoặc qua vịnh Thái Lan vào vùng Rạch Giá và Hà Tiên ở sỏt mộ biển. Đây
là địa điểm nhạy cảm vô cùng quan trọng đối với tình hình an ninh quốc
gia. Không những vậy, tất cả cỏc vựng đất có người Miên sinh sống đông
đúc thường hay nổi loạn. Vì thế, nhà nước cho thiết lập các đồn điền chiến
lược xen kẽ vào vùng có người Miên ngụ cư tập trung nhất là ở Trà Vinh,

Thất Sơn và Sóc Trăng. Chớnh vì vai trò quan trọng về kinh tế và an ninh
quốc phòng của vùng đất Nam kỳ đã khiến nơi đây trở thành khu vực nhận
được sự chú ý nhiều nhất của nhà Nguyễn.
Địa hình Nam kỳ tương đối bằng phẳng, ớt nỳi và độ dốc không lớn,
chỉ bao gồm một số núi thấp ở khu vực tiếp giáp với vựng Tõy Nguyờn,
miền Tây tỉnh Kiên Giang và Campuchia. Nơi đõy cú cấu tạo địa chất chủ
yếu là đất đỏ bazan và đất phù sa cổ.
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
11
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Lư

Đồng bằng ở Nam kỳ do phù sa của hệ thống sông Mê Công và sông
Đồng Nai bồi đắp nên. Đây là đồng bằng lớn nhất cả nước, có diện tích lớn
gấp 3 lần đồng bằng Bắc bộ. Vùng đồng bằng này được cấu tạo từ 3 nhóm
đất chính là: đất phù sa ngọt chiếm 30 % diện tích đất đồng bằng, đây là
loại đất quan trọng nhất đối với sản xuất nông nghiệp phân bố chủ yếu ở
ven khu vực sông Tiền và sông Hậu. Đất phèn, chiếm 41,0 % phân bố ở
Đồng Tháp Mười, Hà Tiên và vùng trung tâm bán đảo Cà Mau. Đất mặn
chiếm 19% diện tích đất tự nhiên của vùng, phân bố dọc duyên hải ven biển
Đông và vịnh Thái Lan (Bến Tre, Trà Vinh, Cà Mau, Kiên Giang). Vì thế
từ rất sớm đất Nam kỳ đã được coi là một vựa lúa, đặc biệt là các tỉnh trung
tâm Nam kỳ làGia Định, Gũ Công thuộc trấn Định Tường. Nam kỳ cũn cú
cỏc loại cây ăn quả như chôm chôm, vú sữa, măng cụt, sầu riêng cho đến
mít, chuối, xoài, ổi, nhãn, cam, quít Mỗi địa phương đều có những loại
sản vật riêng, đa dạng và phong phú. Với ưu thế sông ngòi, kênh rạch
chằng chịt, ngập nước mênh mông là nơi sinh sống lý tưởng của rắn rết, cá
sấu, rùa, ba ba, tôm, cá, cua, còng và cả các loại chim chóc nữa. Đất đai ở
đây tốt lại ven biển, lưu dân có thể đi thuyền từ miền Trung vào lập nghiệp
ngoài lợi ích về ruộng nương còn có lợi ích từ nguồn cỏ tôm.

Chớnh vì những yếu tố thuận lợi về vị trí địa lý, địa hình, đất đai mà
Nam kỳ đã thu hút rất nhiều lực lượng cư dân khác nhau tới khai phá. Tiềm
năng phát triển kinh tế nông nghiệp của khu vực là vô cùng lớn. Chính vì
thế, nhà Nguyễn trong buổi đầu thiết lập vương triều đã tiến hành khai
hoang lập ấp, lập đồn điền.
Vùng đất Nam kỳ qua các giai đoạn lịch sử có sự thay đổi về tên
gọi và địa giới hành chính. Năm 1698, khi Nguyễn Hữu Cảnh bắt đầu
thiết lập bộ máy hành chính thỡ vựng này gọi là Phủ Gia Định. Hơn một
thế kỷ sau khi đất đai được mở rộng hơn, năm 1802 phủ Gia Định được
đổi thành trấn Gia Định và năm 1808 đổi thành Gia Định Thành. Gia Định
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
12
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Lư

thành lúc đó bao gồm 5 trấn: Biên Hòa, Phiờn An, Định Tường, Vĩnh
Long và Hà Tiên. Năm Minh Mạng thứ 15 (1834) thành Gia Định được
đổi thành Nam kỳ. Nam kỳ lúc đó gồm 6 tỉnh Gia Định, Định Tường,
Biờn Hòa, An Giang, Vĩnh Long, Hà Tiờn. Tên Nam kỳ này được dùng
cho tới khi Pháp xâm chiếm.
1.2. Sông ngòi, khí hậu
Nam kỳ có hệ thống ụng ngũi, kờnh rạch chằng chịt.
Hai hệ thống sông lớn nhất trong vùng là sông Đồng Nai và sông
Cửu Long. Sông Mê Công là một trong những sông lớn trên thế giới bắt
nguồn từ Trung Quốc, chảy qua nhiều nước và đổ ra biển Đông. Đoạn hạ
lưu của sông chảy trên đất phía Nam nước ta chỉ dài trên 200km và chia
thành 2 nhánh sông Tiền và sông Hậu. Do hai nhánh sông đổ ra biển bằng 9
cửa nên có tên là Cửu Long. Tiền giang là sông có nhiều nhánh nhỏ, gần
vùng biển mỗi nhánh khá rộng với bờ đất phù sa cao ráo và thuận lợi để
trồng dâu, trồng khoai, đặc biệt là trồng cau, trầu, dừa và các loại cây ăn

quả. Giữa Tiền giang và Hậu giang có sẵn những kênh rạch lớn nhỏ nối
liền với nhau, lại có những giồng đất tốt, quanh năm có nước ngọt, đất đai
xung quanh màu mỡ thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Người dân nơi
đõy khụng đắp đê ven sông ngăn lũ như đồng bằng Bắc bộ. Qua mùa lũ,
đồng bằng được bồi thêm một lớp đất phù sa màu mỡ. Thêm vào đó mạng
lưới kênh rạch chằng chịt cắt xé đồng bằng thành những ô vuông thuận lợi
về giao thông, sản xuất và sinh hoạt của người dân.
Trong quá trình khai phá vùng đất Nam kỳ nhà Nguyễn đã cho làm
những con kênh đào, nối thông nhau để cung cấp đủ nguồn nước ngọt cũng
như góp phần vào việc thau chua rửa phèn. Năm 1817, Gia Long cho đào
sông An Thông, sông Bảo Định, tức kinh Vũng Cú (sông Vàm Cỏ), sụng
kênh mở đến đâu, làng ấp mới cũng dần dần được thiết lập tới đó. Kênh
Vĩnh Tế ở khu vực Nam kỳ là kênh lớn nhất được xây dựng từ năm 1819
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
13
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Lư

đến năm 1824 kéo dài 90km từ Châu Đốc đến Hà Tiên do Thoại Ngọc Hầu
Nguyễn Văn Thoại tổ chức. Mục đích đào kênh là để đưa thủy quân của ta
từ Hậu giang ra vịnh Xiêm La thật nhanh để giữ Kiên Giang và Hà Tiên
phòng ngừa quõn Xiờm đem binh đánh bất ngờ. “Năm Thiệu Trị thứ 3
(1843) cho đào thêm con kênh nối liền Tiền giang (Tõn Châu) đến Thủ
Châu giang ở phía Nam Hậu giang. Kênh này nhằm mục đích quân sự để
chiến thuyền đi nhanh từ Tõn Chõu đến vịnh Xiêm La khi hữu sự qua kênh
Vĩnh Tế. Kênh làm xong vào năm 1844, đặt tên là Long An hà” [24; tr31]
Ở buổi đầu định cư, kênh không chỉ có lợi ích về mặt giao thông, về
quân sự mà còn góp phần quan trọng vào sự phát triển của kinh tế đặc biệt
là sản xuất nông nghiệp. kênh chảy qua nhiều địa phương có địa hình phức
tạp đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai hoang hàng chục vạn diện tích

đất đai ở Tây Nam đồng bằng châu thổ Nam bộ. Từ sau năm 1817, vùng
Châu Đốc càng trở nên trù phú không chỉ nhờ vào kênh Vĩnh Tế mà cũn
thờm cả kênh Thoại Hà càng làm cho vùng Hậu Giang thêm sung túc. Sau
một thời gian, 20 làng ấp mới được lập lên dọc bờ kênh Vĩnh Tế. Thoại
Ngọc Hầu chiờu dõn buụn và người nghèo đến khai khẩn ngay khi đang
đào kênh đã mở đầu cho quá trình phát triển của khu dân cư sầm uất, trù
phú phía Tây hữu ngạn sông Hậu.
Chính điều kiện tự nhiên đã quy định phương tiện giao thông ở Nam
kỳ thế kỷ XIX như sau: “Ở Gia Định, chỗ nào cũng có ghe thuyền, hoặc
dùng thuyền làm nhà ở, hoặc để đi chợ, hoặc để đi thăm người thân thích,
hoặc chở gạo củi đi buôn bán rất tiện lợi. Ghe thuyền chất đầy sông, ngày
đêm đi lại không ngớt” [9; tr26]. Chợ nổi là một trong những nét độc đáo
của cư dân Nam kỳ, hiện nay vẫn còn những chợ nổi tiếng như Cái Răng,
Phong Điền (Cần Thơ), Phụng Hiệp (Hậu Giang). Ngay từ thế kỷ XVIII,
hàng năm sau các vụ lúa nhiều thuyền buôn kể cả trong nước và ngoài
nước đều thu mua thóc gạo ở các cảng rất tấp nập. Người ta chở gạo bán ra
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
14
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Lư

tận Quảng Nam, Thuận Hóa và bán ra cả nước ngài. Chợ nổi thường họp ở
những đoạn sông thuận tiện cho việc gặp gỡ xuồng, ghe từ những nơi đổ
về. Ở những chợ nổi tiếng, ngay từ sáng sớm việc mua bán đã diễn ra tấp
nập, mọi thứ hàng hóa có thể mua bán trên xuồng, ghe.
Nam Bộ nằm trong vùng đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa và
cận xích đạo. Nền nhiệt ẩm phong phú, ánh nắng dồi dào, thời gian bức xạ
dài, biên độ nhiệt ngày đêm giữa cỏc thỏng trong năm thấp và ôn hòa. Độ
ẩm trung bình hàng năm khoảng từ 80 - 82%. Khí hậu hình thành trên hai
mùa chủ yếu quanh năm là mùa khô và mùa mưa. Mùa mưa từ tháng 5 đến

tháng 11, mùa khô từ tháng 12 tới tháng 4. Lượng mưa hàng năm dao động
từ 966 - 1325mm, mưa phân bổ không đều, giảm dần từ khu vực giáp ranh
từ Thành phố Hồ Chí Minh xuống khu vực phía Tây và Tây Nam. Ở khu
vực Đông Nam có lượng mưa thấp nhất. Khi xuất hiện cường độ mưa lớn
xảy ra trên một số khu vực trong vùng, thường gây hiện tượng xói mòn ở
những gò cao.
Điều kiện tự nhiên về khí hậu và sông ngòi thuận lợi là một trong
những yếu tố đảm bảo cho sự sinh tồn của cư dân nơi đây. So với các khu
vực khác trong cả nước thì Nam kỳ có hệ thống giao thông đường thủy
phát triển. Sau mùa mưa, hàng ngàn diện tích đất nông nghiệp được cải tạo
nhờ được bồi đắp thêm lượng phù sa lớn. Hệ thống kênh đào là công sức
mà người dân Nam bộ tạo ra, nó khụng đơn thuần chỉ là một tuyến đường
giao thông mà còn là hệ thống thủy lợi trong sản xuất nông nghiệp đem lại
nguồn sống sung túc cho người dân nơi đõy. Nó vừa đảm bảo lợi ích kinh
tế, vừa phục vụ nhu cầu an ninh quốc phòng.
1.3. Dân Cư – Xã hội.
Vùng đất Nam Bộ đã từng thu hút nhiều lớp cư dân đến khai phá.
Vào khoảng đầu công nguyên, cư dân vùng đất này đã xây dựng nên nhà
nước Phù Nam. Trong thời kỳ phát triển nhất vào khoảng thế kỷ V-VI, Phù
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
15
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Lư

Nam đã mở rộng ảnh hưởng và trở thành một đế chế rộng lớn với nhiều
thuộc quốc phân bố ở phía nam bán đảo Đông Dương và bán đảo Malaca.
Vào đầu thế kỷ VII, đế chế Phù Nam tan rã, nước Chân Lạp của người
Khơmer, vốn là một trong những thuộc quốc của Phù Nam ở vùng Tongle
Sap đã tấn công đánh chiếm và làm chủ vùng hạ lưu sụng Mờkụng (tương
đương với vùng đất Nam Bộ ngày nay).

Tuy nhiên, trong suốt thời gian gần 10 thế kỷ vùng đất Nam Bộ
không được cai quản chặt chẽ và gần như bị bỏ hoang. Từ cuối thế kỷ XVI
và đặc biệt là từ đầu thế kỷ XVII, dưới sự bảo hộ của cỏc chỳa Nguyễn
người Việt đã từng bước khai phá vùng đất này. Quá trình di dân tự nhiên
cùng quá trình di dân lớn và quá trình chuyển cư tại chỗ trong cỏc vựng đất
ở Nam kỳ làm số lượng dân cư ngày càng đông. Ở Nam kỳ với điều kiện
địa hình, sông ngũi, kờnh rạch chằng chịt, dễ bề sinh sống đảm bảo cho nhu
cầu sinh hoạt và trồng trọt của cư dân. Trong điều kiện giao thông đường
thủy là chủ yếu thì lưu dân thường dựng xúm thụn dọc theo sông rạch.
Người dân thường làm nhà dọc theo các sông ngòi, kênh rạch, nhà cửa đơn
sơ. Xuồng, ghe là phương tiện đi lại phổ biến nơi đõy. Đú cũng chính là
dạng cư trú thích ứng với sự thừa thãi không gian và đang trong quá trình
khẩn hoang cần nhập sâu vào các vùng đất khác nhau. Thêm vào đó điều
kiện tự nhiên thuận lợi ở Nam kỳ như mưa thuận gió hòa, ớt mưa bão, đất
đai màu mỡ đó giỳp cho các đơn vị khai khẩn gia đình có thể khai phá sinh
sống đơn lẻ không nhất thiết phải hợp tác, rằng buộc với một cộng đồng ở
một nơi cố định.
Người Việt vào Nam bộ sinh sống từ thế kỷ XVII, lúc này ở đó
người gốc Khơmer cổ là đông nhất. Dân Nghèo miền Trung đầu tiên tới
Nam kỳ tụ cư ở Mô Xoài (Bà Rịa và Đồng Nai) sau tiến dần xuống Sài
Gòn, Mỹ Tho, Hà Tiên. Trong nửa đầu thế kỷ XVIII, người Việt tiếp tục di
chuyển xuống vùng Long Hồ (Gũ Cụng, Tõn An, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
16
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Lư

Vinh, Ba Sắc, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Sa Đéc và Châu Đốc). Từ sau năm
1698, việc di dân vào vùng đất Nam kỳ trở thành một chủ trương lớn của
chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng trong.

Lịch sử khẩn hoang ở Nam bộ trước tiên được viết bởi những lưu
dân liều mình vượt biển tìm đất sống từ thế kỷ XVI. Trong bước đầu khai
phá, để có nguồn nhân lực khai hoang, trồng trọt cỏc chỳa Nguyễn đã cho
mộ dân nghèo, dân lưu tán ở Trung bộ, đưa người vào Nam bộ. Cùng với
họ, chúa Nguyễn cũng đưa những người dân vốn là địa chủ mới phát triển
vào Nam kỳ để làm chỗ dựa cho chính quyền phong kiến Nguyễn. “Năm
1618 Chaychettha lên ngôi vua Chân Lạp liền xây dựng một cung điện ở
Uđụng, lấy hoàng hậu là người Việt và bà hoàng hậu người Việt của
vương triều Chân Lạp đã tạo điều kiện thuận lợi cho những đồng hương
kéo vào khai phá làm ăn ở vùng Đồng Nai – Gia Định” [13; tr154]. Sự
rằng buộc về hôn nhân giữa hai nước là điều kiện thuận lợi cho lưu dân
người Việt mở rộng khai phá vùng đất phía Đông và Đông Nam Chân Lạp.
“Năm 1698, chúa Nguyễn cử thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào lập chính
quyền chia đặt phủ huyện thì ở Gia Định đất đai mở rộng ngàn rặm, dân
cư trên 4 vạn hộ” [9; tr12]. Lực lượng cư dân ít ỏi này lọt thỏm giữa vùng
đất hoang vu rộng lớn với trình độ sản xuất còn thấp kém những mảnh đất
khai khẩn ban đầu của họ chắc chắn chỉ đủ để tạo ra sản vật nuôi sống họ
và gia đình. Có thể nói cho đến năm 1698 trước khi có tổ chức chính quyền
của chúa Nguyễn thì đất đai khai phá được ở Nam kỳ thuộc quyền ở hữu
nhỏ của tư nhân. Đất đai bỏ hoang quá nhiều vì thế chính quyền chúa
Nguyễn đã khuyến khích khai hoang để tăng thêm nguồn thu tô thuế.
Nếu đồng bằng Bắc bộ sau quá trình khai hoang hàng ngàn năm đã
tạo ra những làng xóm định cư quần tụ trong những lũy tre xanh với những
quy chế chặt chẽ của lệ làng, hương ước. Còn ở Nam kỳ chỉ tồn tại những
làng xã thôn quần cư theo tuyến dọc. Trong làng xã Nam kỳ, tư tưởng cố
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
17
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Lư


kết làng xã lỏng lẻo quan hệ với nhau trên cơ sở tự nguyện, nương tựa là
chủ yếu. Các dân tộc sống ở đồng bằng Nam kỳ chủ yếu là: người Kinh,
Khơmer, Chăm, Hoa… Họ cùng nhau lập ấp khai khẩn đất đai. “Năm
1679, có bọn quan nhà Minh, Tổng binh thành Long Môn (tỉnh Quảng Tây)
là Dương Ngạn Địch cùng phó tướng là Hoàng Tiến và tổng binh cỏc chõu
là Cao Lụi Liờm là Trần Thượng Xuyên, không chịu làm tôi nhà Thanh đã
đem 3000 quân chạy sang nước ta đến vùng Thuận Hóa xin với chúa
Nguyễn cho dung thõn. Nguyễn Phúc Tần cho họ vào đất Đông Phố, bắt
phó tướng Chân Lạp chia đất cho họ. Bọn Trần Thượng Xuyên ở Đồng
Nai, bọn Dương Ngạn Địch được ở Mỹ Tho. Họ vỡ ruộng làm nhà, lập ra
phố phường. Nhờ sự kinh dinh của nhiều kiều dân Trung Hoa ấy mà đất
Đông Phố trở nên thịnh vượng” [1; tr183]. Một thời gian sau “Năm 1708,
ở phía Tây về đất Sài Mạt thỡ cú một người Trung Hoa quê ở Lơi Châu
(tỉnh Quảng Đông) tên là Mạc Cửu cũng là vong thần của nhà Minh,…Mạc
Cửu mộ dân nghốo cho khẩn đất các xứ Phú Quốc, Cần Bọt, Rạch Giá, Lũy
Cày, Vũng Thơm, Cà Mau thành lập 7 xã thôn và gọi miền ấy là đất Hà
Tiờn” [1; tr184]. Những người dân này đã liên kết với người Việt khai phá
đất đai lập thành thôn xóm biến nơi đây thành trung tâm dân cư đông đúc
dưới quyền cai trị của chúa Nguyễn. Nền kinh tế chính của cư dân nơi đây
là trồng lúa, đánh bắt hải sản, và làm kinh tế vườn.
Làng Việt ở Nam kỳ được hình thành muộn hơn rất nhiều so với các
làng Việt Bắc Bộ và Trung Bộ, cơ chế quản lý, điều kiện tự nhiên, dân cư
cũng rất khác. Cư dân Nam Bộ là người tứ xứ di cư vào đây theo từng gia
đình, cá nhân và cư trú theo xóm ấp, làng xã nhưng sống rải rác theo đất
canh tác của mỗi gia đình. Do đó, người Nam Bộ sống thoải mái, cởi mở,
chan hòa, giao lưu với cỏc vựng khỏc cũn người Bắc Bộ sống khép kín
hơn. Những sắc thái về nếp sống, nếp nghĩ, tâm lý này như là những đặc
trưng văn hóa của cư dân đồng bằng Nam kỳ. Nó đã thể hiện khỏ rừ qua
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội

18
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Lư

khả năng sáng tạo của họ trong quá trình khai hoang lập làng. Nhờ tính
cách độc đáo đó, cư dân Nam bộ đã tùy ý lựa chọn phương thức hoạt động
kinh tế phù hợp với khả năng của mình, tạo nên một vùng văn hóa riêng
biệt và đặc sắc của Việt Nam.
Trải qua nhiều thế kỷ những lưu dân người Hoa, người Khơmer,
người Chăm…ở Nam kỳ ngày nay đã là công dân Việt Nam. Đây là một
trong những thành phần cư dân có mặt khá sớm và góp phần tích cực vào
công cuộc khai phá và bảo vệ vùng đất phía Nam của tổ quốc Việt Nam.
1.4 Quá trình khai phá vùng đất Nam kỳ đến 1802.
Kể từ khi nền độc lập của dân tộc được khôi phục sau hơn 1000 năm
Bắc thuộc các triều đại Lý, Trần, Lờ đó mở mang bờ cõi nước ta vào Nam
và dần lấn phần đất từ Hoành Sơn đến Hải Vân. Đến thời Lờ Thỏnh Tụng
lãnh thổ nước ta đã vươn đến đốo Cự Mông ở phía Nam phủ Hoài Nhơn và
bản đồ thống nhất của Đại Việt gồm 13 đạo với một tổ chức hành chính
như nhau. Đến thế kỷ XVI, nhà Mạc thay thế nhà Lờ lờn cầm quyền. Để
khôi phục lại quyền thống trị quốc gia, nhà Lê nhờ họ Nguyễn rồi họ Trịnh
phò tá. Trong khoảng nửa sau thế kỷ XVII, trong cuộc chiến tranh Trịnh –
Nguyễn có hiện tượng di cư của nông dân nghèo ngoài Bắc vào Nam. Nhà
nước Lê – Trịnh cử Nguyễn Hoàng vào trấn thủ vùng đất Thuận Hóa và
Quảng Nam. Họ Nguyễn đó nhân cơ hội đó mà cát cứ và đã ra sức mở
mang bờ cõi vào phía Nam để mở rộng địa bàn hoạt động và mong muốn
xây dựng một nhà nước tự chủ để chống lại họ Trịnh ở ngoài Bắc.
Từ đầu thế kỷ XVII, chính quyền họ Nguyễn tăng cường các hoạt
động quân sự với Chân Lạp, gắn liền với các hoạt động quõn sự và ngoại
giao là việc chiếm cứ đất đai. “Năm 1611 lấy cớ người chiêm Thành hay
đánh phá miền Bình Định, Nguyễn Hoàng phát binh đỏnh Chiờm Thành,
chiếm được miền đất từ đốo Cự Mụng đến Đại Lónh tương đương với nước

Hoa Anh ở đời Lờ Thỏnh Tụng. Đất mới ấy được đặt làm hai huyện Đồng
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
19
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Lư

Xuân và Tuy Hòa, hợp thành phủ Phỳ Yờn. Nguyễn Hoàng đặt dinh Trấn
Biên để trấn thủ miền đất mới mở thờm” [1; tr181]. Trong khi nhà nước
khai phá những vùng đất đã chiếm được của cư dân Chiêm Thành thì một
số dân nghèo cũng dần tiến vào khẩn hoang nơi đây. “Năm 1693, Nguyễn
Phúc Chu lấy cớ vua Chiêm Thành bỏ triều cống lại đánh và bắt được vua
Chiờm cựng những thõn thuộc và đại thần đem cả về Phỳ Xuõn. Chúa
Nguyễn đổi đất Chiêm Thành làm Thuận phủ. Năm 1697, đặt lại là phủ
Bình Thuận, lấy đất Phan Rang và Phan Rí đổi làm hai huyện An Phước và
Hòa Đa rồi đặt dinh Biên Thuận để trấn thủ. Thế là vùng đất cực Nam của
Chiêm Thành mất nốt” [1; tr182]. Sau khi chúa Nguyễn chiếm gần hết đất
Chiêm Thành thì người Việt dần lui tới đất Chân Lạp và một số người dân
đã sinh cơ lập nghiệp ở đó, đặc biệt là miền Mô Xoài và miền Đồng Nai
(thuộc Biờn Hòa ngày nay). Hiện tượng di dân tự phát đó là do tình trạng
hỗn chiến phong kiến ở Đàng ngoài làm cho nhân dân đói khổ, lưu vong
mà trong lúc đó đất Chân Lạp còn tương đối yên ổn và có nhiều khả năng
khai phá được. Những người nông dân bần cùng phải di cư là lực lượng
khai hoang, lập làng quan trọng của họ Nguyễn.
Lãnh thổ Đàng trong lúc này của chúa Nguyễn bắt đầu tiếp giáp với
vùng đồng bằng phì nhiêu của Chân Lạp, nơi đã cú những người Việt lưu
vong tự tìm đến làm ăn từ trước. Ngay từ khi chưa chiếm hết đất Chiêm
Thành và chưa tiến hành xâm lấn Chân Lạp, họ Nguyễn đã lợi dụng sự suy
yếu và những mâu thuẫn trong nội bộ tầng lớp thống trị Chân Lạp để can
thiệp gây ảnh hưởng và áp lực nhằm lập nên những vương triều Chân Lạp
phụ thuộc. Những cuộc chiến tranh xâm lực này gắn liền với việc xác nhập

từng phần đất Chân Lạp vào lãnh thổ của cỏc chỳa Nguyễn. “Năm 1689, sau
khi đã lấy hết đất của Chiêm Thành, Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn Hữu
Kính (Nguyễn Hữu Cảnh) làm thống soái đem quân đi kinh lược đất Đông
Phố đã có nhiều kiều dân Việt ở. Hữu Kính lấy đất của phó vương bị phế
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
20
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Lư

mà đặt làm phủ Gia Định gồm các huyện Phúc Long (nay là tỉnh Biờn Hòa)
và Tõn Bình (nay là tỉnh Gia Định) lại lập 2 dinh Trấn Biên (Biờn Hòa) và
Phiên Trấn (Gia Định) để đóng binh trấn thủ. Việc kinh lý ấy mở cho bờ cõi
rộng ra hơn nghìn dặm và thêm được 4 vạn nóc nhà. Phúc Chu lại sai mộ
dân từ Quảng Bình trở vào cho phá đất khẩn ruộng, lập thành xã thôn. Lại
cho tất cả những người Trung Hoa ngụ ở Trấn Biên họp thành xã Thanh Hà
và những người ngụ tại Phiên Trấn họp thành xã Minh Hương mà theo dân
tịch như người Việt. Thế là Chúa Nguyễn đã chiếm được của nước Chân
Lạp một khu vực rộng lớn ở phía Đông Nam” [1; tr184]. Với việc khai
hoang, hoạch định vùng đất Sài Gòn – Gia Định thành các đơn vị hành
chính, chính quyền chúa Nguyễn đã xác lập vai trò quản lý ruộng đất, hộ
khẩu, thu thuế. Sự kiện này khẳng định chủ quyền lãnh thổ của nhà nước
trờn vựng đất mới, mở đầu cho lịch sử hình thành và phát triển của xứ Nam
kỳ.
“Năm 1700, chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh sau cuộc hành quân từ
Chân Lạp trở về trên đường rút quân đã dừng lại một thời gian tại cù lao
Vòm Nao, binh lính của ụng đó khai hoang vùng đất này” [3; tr18]. Vùng đất
phía Nam này còn thu hút khá nhiều các lực lượng khác khai phỏ cựng chỳa
Nguyễn. Tiêu biểu, năm 1714 Mạc Cửu thấy thế lực của chúa Nguyễn mạnh
hơn vua Cao Miờn nờn đem dâng cả vùng đất Hà Tiên mà ụng đó khai phá
được cho chúa Nguyễn. “Nguyễn Phúc Chu phong cho Mạc Cửu làm tổng

trấn Hà Tiên. Mạc Cửu xây dựng thành lũy, dinh thự, mở mang phố xá, dân
cư các nơi kéo đến đó mỗi ngày một đông. Không bao lâu Phương thành
(trấn thành Hà Tiên) trở nên thịnh vượng” [1;tr184]. “Năm 1756, vua Chân
Lạp là Nặc Nguyên xin hiến đất hai phủ Tầm Bồn – Lôi Lạp và nộp bù lễ
cống còn thiếu 3 về trước để chuộc tội. Năm 1757, vua Chân Lạp là Nặc
Tụn dõng đất Tầm Phong Long để trả ơn cưu mang và giúp đỡ của Mạc
Thiên Tứ và chúa Nguyễn” [13; tr154]. “Bấy giờ Nặc Tôn cắt 5 phủ Hương
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
21
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Lư

Nơ, Cần Bột, Chân Sum, Sài Mạt, Linh Quỳ để tạ ơn Mạc Thiên Tứ, Thiên
Tứ hiến cho triều đình. Chúa cho 5 phủ ấy vào hạt Hà Tiờn, Thiờn Tứ xin
đặt Giá Kên làm đạo Kiên Giang, Cà Mau làm đạo Long Xuyên, đều đặt
quan lại, chiêu dân cư, lập thôn ấp làm cho địa giới Hà Tiên càng thêm
rộng” [39; tr165]. Từ năm 1757, vùng đất Nam kỳ đã được chính quyền
Đàng trong của chúa Nguyễn quản lý khá chặt chẽ vì thế tạo điều kiện cho
dân cư khai phá. Nhằm khuyến khích, động viên người khai hoang chính
quyền họ Nguyễn đã tỏ ra rất dễ dãi trong việcquả lý, người dân tự do ai
muốn đến đâu ở, khai khẩn ruộng gò, ruộng thấp ở nơi nào lập làng lập ấp ở
đâu tùy ý. Chỉ cần khai báo với nhà cầm quyền là mỡnh đó trở thành sản
nghiệp chủ đất ấy. Chính quyền cũng không biết đất ấy tốt xấu thế nào, tùy
theo ruộng rộng hay hẹp mà nộp thuế bằng thóc. Từ đó, đất Đồng Nai – Gia
Định nhanh chóng thu hút được đông đảo dân khai hoang đến lập nghiệp.
Vùng khẩn hoang ngày càng được mở rộng hơn từ nửa sau của thế kỷ XVIII,
lưu dân Việt có mặt đông đảo ở cỏc vựng Bà Rịa, Đồng Nai, Bến Nghé, Mỹ
Tho, Bến Tre và nhất là những vùng gần sông Vàm Cỏ (Gũ Công) và gần
sông Tiền là những điều kiện thuận lợi để làm lúa nước. Vùng hữu ngạn
sông Tiền, qua hai bờ sông Hậu người Việt sống rải rác trong một số nơi

Châu Đốc, Tõn Chõu, Sa Đéc hoặc ven biển. Một số định cư lẻ tẻ ở Cà Mau,
Rạch Giá, Hà Tiên và một số đảo lớn như Phú Quốc, Thổ Chõu…
Lực lượng khai hoang ban đầu là những nông dân lưu vong mới di
cư vào với đức tính cần cù, nhẫn nại, mạo hiểm là lực lượng quyết định
trong quá trình khai phá đất đai. Trong cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn
kéo dài gần nửa thế kỷ, quân Nguyễn cũng bắt được những tù binh quân
Trịnh và nhân dân Đàng ngoài đem về khai phá vùng đất Quảng Nam, Phú
Yên. Họ Nguyễn cũng sử dụng một phần lực lượng quân đội đồn trú trong
việc khẩn ruộng đất ở Trung kỳ và Nam kỳ mới chiếm được của Chân Lạp
và Chiêm Thành để giải quyết một phần vấn đề quân lương. Những ruộng
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
22
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Lư

đất do binh lính khai khẩn đều trở thành quan đồn điền, quan điền trang của
nhà nước. Trong đó họ Nguyễn thường lấy một phần cấp cho những viên
tướng có công tổ chức việc khai hoang. “Năm 1705, sau khi đỏnh Chõn
Lạp, tướng Nguyễn Cửu Vân đóng quân phòng giữ Phiên Trấn đã tiến
hành khai khẩn xứ Vũng Cú và xây đắp một lũy đất dài để bảo vệ những
ruộng đất khai khẩn ấy trở thành quan điền của nhà nước” [13; tr156].
Phong trào Tây Sơn bùng nổ năm 1771 đã nhanh chóng chiếm ưu thế
ở Đàng Trong. Năm 1775, dưới áp lực của quõn chỳa Trịnh chúa Nguyễn
Phúc Thuần phải rời Phỳ Xuõn trốn vào Gia Định. Sau khi điều đình với
quân Trịnh ở phía Bắc, quân Tây Sơn tiếp tục tiến vào tiêu diệt chúa Nguyễn
ở phía Nam. Từ năm 1776 đến 1783, quõn Tõy Sơn 5 lần tiến đánh Gia
Định. Vào thời kỳ này nhóm người Hoa ở cù lao Phố (Biờn Hòa) để tránh sự
giao tranh đã vượt sông Tõn Bình (sông Sài Gòn) kéo về tụ tập ở Sài Gòn
lập ra khu Đề Ngạn (chợ Lớn). Trước khi bị chúa Nguyễn tái chiếm, đất Sài
Gòn là phố thị nổi tiếng, dân chúng ở các nơi xã và các thương thuyền ngoại

quốc thường tới trao đổi hàng hóa, bán cho triều đình khí giới, thuốc súng và
mua vào các thổ sản như lúa gạo, đường, tiờu, bụng, tơ lụa, trỏi cõy… Năm
1788, nhân cơ hội anh em Tây Sơn bất hòa, Nguyễn Ánh dựa vào bọn địa
chủ, đem quõn đánh chiếm lại đất vùng đất Gia Định. Năm 1790 ra lệnh lập
đồn điền để giải quyết nhu cầu lương thực cho binh lính và chuẩn bị hậu cần
để phản công lại Tây Sơn. Năm 1802 Nguyễn Ánh lên ngôi vua lại cho tiếp
tục đẩy mạnh việc khai phá vùng đất phía Nam Đại Việt.
Công cuộc mở cõi về phía Nam là một xu thế của nước Đại Việt trước
sức ép của các đế quốc phương Bắc và yêu cầu mở rộng đất canh tác, thành
lập làng xã giải phóng sức sản xuất cho nhân dân cỏc vựng nông thôn. Do
đó, nhà Lý đó đó phải mở đất từ Quảng Bình đến Quảng Trị năm 1169. Nhà
Trần mở đất từ Quảng Trị tới Quảng Nam vào năm 1306. Nhà Hồ từ Quảng
Nam tới Quảng Ngãi vào năm 1402, nhà Lê lập phủ Hoài Nhơn (Bình Định)
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
23
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Lư

vào năm 1471. Chúa Nguyễn Hoàng lập phủ Phỳ Yờn năm 1611, đến năm
1757 dưới thời chúa Nguyễn Phỳc Khoỏt thỡ toàn bộ đất Nam kỳ trở thành
lãnh thổ xứ Đàng Trong. Công cuộc mở đất Nam kỳ thực hiện nhanh chóng
vì sức ép thường xuyên cùng cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn khốc liệt và
kéo dài nên chủ trương của chính quyền Đàng trong phù hợp với quyền lợi
và mong muốn của nhân dân muốn đi vào vùng đất phía Nam trù phú và
nơi này nhanh chóng trở thành vùng trọng điểm kinh tế của cả nước.
* Tiểu kết chương 1:
Mỗi một vùng đất trên lãnh thổ nước ta lại mang những đặc điểm
riêng đóng góp vào sự phát triển đa dạng của đất nước. Nam kỳ là nơi có vị
trí đặc biệt cả về kinh tế lẫn an ninh quốc phòng. Nơi đây, đất đai màu mỡ
lại có đường biên giới giáp với Xiêm La, Cao Miên và Lào do dó nhà

Nguyễn luôn chú trọng quan tâm phát triển vùng đất này. Nam kỳ còn thu
hút nhiều thành phần cư dân tới khai phá trong đó có người Việt, người
Chăm, Khơmer, người Hoa. Người Việt đã nhanh chóng hoà đồng với các
cộng đồng cư dân tại chỗ và những cư dân mới đến cùng nhau mở mang,
phát triển Nam Bộ thành một vùng đất trù phú. Những yếu tố thuận lợi này
là cơ sở để nhà Nguyễn cho thi hành việc lập đồn điền trên quy mô lớn ở
Nam kỳ vào nửa đầu thế kỷ XIX.
Lịch sử khẩn hoang vùng đất Nam kỳ được đẩy mạnh từ thế kỷ XVI.
Chúa Nguyễn là người bảo hộ cho quá trình khai phá và thiết lập chủ quyền
ở Nam Bộ một cách hoà bình, hữu nghị không phải do chiến tranh. Sang
thế kỷ XVII cỏc chỳa Nguyễn đã tổ chức các đơn vị hành chính, sắp đặt
quan cai trị, lập sổ sách quản lí dân đinh, ruộng đất và định ra các loại thuế.
Nguyễn Hữu Cảnh (1650 - 1700) là một tướng lĩnh tài ba, một nhà quản lý
hành chính xuất sắc. Ông là người có công lớn trong việc hoạch định cương
giới xóm làng, thiết lập hệ thống chính quyền cho vùng đất Nam kỳ nước
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
24
Khóa luận tốt nghiệp Lê Thị Lư

ta. Các vua triều Nguyễn tiếp tục khai phá đất đai, một trong những hình
thức khai hoang đó là lập đồn điền.
Chương 2
ĐỒN ĐIỀN Ở Nam KỲ DƯỚI TRIỀU NGUYỄN TỪ 1802 ĐẾN 1858
2.1. Khái quát về triều Nguyễn từ 1802 – 1858.
2.1.1. Chính trị.
Bước sang thế kỷ XIX lịch sử chế độ phong kiến nước ta tiếp tục
được duy trì và củng cố dưới vương triều Nguyễn. Nhà Nguyễn ra đời và
tồn tại không những trong bối cảnh đặc biệt của đất nước mà còn trong tình
hình thế giới có nhiều chuyển biến lớn. Thắng lợi của chủ nghĩa tư bản ở

Tây Âu đã kéo theo sự phát triển của chủ nghĩa thực dân. Hàng loạt các
nước châu Á rơi vào ách đô hộ của thực dân và Việt Nam cũng không tránh
khỏi mối đe dọa đú. Cỏc vua Nguyễn từ Gia Long (1802- 1819), Minh
Mạng (1820 – 1840), đến Thiệu Trị (1841 -1847) và Tự Đức (1848 – 1883)
kế tiếp nhau xây dựng và củng cố nền thống trị phong kiến trong bối cảnh
khủng hoảng và suy vong đó.
Thành lập và trị vì trong thế kỷ XIX, nhà Nguyễn được thừa hưởng
thành quả to lớn của phong trào nông dân Tây Sơn trong sự nghiệp thống
nhất đất nước, làm chủ một lãnh thổ trải dài từ Ải Nam Quan đến mũi Càu
Mau, bao gồm cả Đàng Trong và Đàng Ngoài cũ. Đây vừa là điểm thuận
lợi để tận dụng củng cố xây dựng đất nước song đó cũng là khó khăn thách
thức đặt ra đối với nhà Nguyễn trong quá trình quản lý thống nhất hành
chính các cấp. Bên cạnh đó nhiệm vụ lớn mà nhà Nguyễn phải giải quyết là
thống nhất sự chia cắt lãnh thổ đất nước sau hơn 200 năm với biết bao sự
khác biệt giữa Đàng trong và Đàng ngoài về hệ thống chính trị, tình hình
kinh tế và phong tục tập quán. Trách nhiệm của triều Nguyễn lúc này là
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
25

×