BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN THỊ MINH HUỆ
DÊu Ên hËu hiÖn ®¹i trong th¬
Hoµng H-ng vµ Inrasara
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
THEO ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU
HUẾ, NĂM 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN THỊ MINH HUỆ
DÊu Ên hËu hiÖn ®¹i trong th¬
Hoµng H-ng vµ Inrasara
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60220121
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
THEO ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS-TS. HOÀNG THỊ HUẾ
HUẾ, NĂM 2017
2
LỜI CAM ĐOAN
Tên tôi là Nguyễn Thị Minh Huệ, học viên cao học K24 Văn học,
chuyên ngành văn học Việt Nam, khoá 20105- 2017. Tôi xin cam đoan luận
văn thạc sĩ “Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara” là công
trình nghiên cứu của riêng tôi, không sao chép dưới bất kỳ hình thức nào. Tôi
xin chịu hoàn toàn trách nhiệm với luận văn cao học của mình.
Học viên
Nguyễn Thị Minh Huệ
3
Được sự phân công của khoa ngữ văn trường Đại học sư phạm Huế và
giáo viên hướng dẫn PGS.TS Hoàng Thị Huế. Tôi đã thực hiện và hoàn thành
đề tài “ Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara”.
Qua đây, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Hoàng Thị
Huế, người đã hướng dẫn tôi thực hiện luận văn này. Đồng thời, xin bày tỏ
lòng biết ơn chân thành tới các thầy cô giáo, những người đã đem lại cho tôi
những kiến thức bổ trợ vô cùng hữu ích trong những năm học vừa qua. Tôi
cũng xin gửi lời cám ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo sau đại
học, Đại học sư phạm Huế – Đại học Huế đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi
trong quá trình học tập.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cám ơn đến gia đình, bạn bè, những người đã
luôn giúp đỡ, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện đề tài
nghiên cứu của mình.
Huế, ngày 25 tháng 9 năm 2017
Học viên
Nguyễn Thị Minh Huệ
4
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 3
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 10
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 10
5. Đóng góp đề tài ........................................................................................... 11
6. Cấu trúc luận văn ........................................................................................ 11
NỘI DUNG..................................................................................................... 12
CHƯƠNG 1HOÀNG HƯNG, INRASARA VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA CHỦ
NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI ĐẾN THƠ VIỆT NAM SAU 1986 ................... 12
1.1. Ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại đến thơ Việt Nam sau năm 1986 ......12
1.1.1. Chủ nghĩa hậu hiện đại .......................................................................... 12
1.1.2. Văn học hậu hiện đại ............................................................................. 14
1.2. Những thành tựu và sự tiếp nhận chủ nghĩa hậu hiện đại trong Thơ Việt
Nam sau năm 1986 .......................................................................................... 16
1.2.1. Hoàng Hưng - hành trình sáng tác và cách tân thơ ............................... 21
1.2.2. Inrasara nhìn trong tiến trình đổi mới thơ ca hiện đại .......................... 24
Tiểu kết ........................................................................................................... 29
CHƯƠNG 2. DẤU ẤN HẬU HIỆN ĐẠI TRONG THƠ HOÀNG HƯNG
VÀ INRASARA NHÌN TỪ BÌNH DIỆN CẢM QUAN VỀ THẾ GIỚI VÀ
CÁI TÔI TRỮ TÌNH .................................................................................... 30
2.1. Cảm quan về thế giới ............................................................................... 30
2.1.1. Hiện thực cuộc sống đa chiều ............................................................... 30
2.1.2. Hiện thực bất an phi lí ........................................................................... 36
2.2. Cái tôi trữ tình .......................................................................................... 39
2.2.1. Cái tôi hoài nghi thực tại ....................................................................... 43
2.2.2. Cái tôi truy tìm bản thể.......................................................................... 46
2.2.3. Cái tôi “phi tôi” ..................................................................................... 50
Tiểu kết ........................................................................................................... 53
1
CHƯƠNG 3. DẤU ẤN HẬU HIỆN ĐẠI TRONG THƠ HOÀNG HƯNG
VÀ INRASARA NHÌN TỪ PHƯƠNG THỨC NGHỆ THUẬT .............. 54
3.1. Sự mở rộng biên độ thể loại ..................................................................... 54
3.1.1. Thơ tân hình thức .................................................................................. 54
3.1.2.Thơ văn xuôi .......................................................................................... 62
3.2.1. Kết cấu mảnh vỡ ................................................................................... 66
3.2.2. Kết cấu liên văn bản .............................................................................. 70
3.3. Ngôn ngữ và giọng điệu ........................................................................... 74
3.3.1. Ngôn ngữ lạ hóa .................................................................................... 75
3.3.2. Ngôn ngữ trò chơi - Phi lôgic .............................................................. 78
3.3.3. Giọng điệu hoài nghi ............................................................................. 82
3.3.4. Giọng điệu giễu nhại ............................................................................. 84
Tiểu kết ........................................................................................................... 89
KẾT LUẬN .................................................................................................... 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 93
2
A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Chủ nghĩa hậu hiện đại (postmodernism) là trào lưu tư tưởng - văn hoá - triết
học và nghệ thuật nổi lên ở phương Tây từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, phát
triển rộng khắp và có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của nhân loại từ hai
thập niên cuối của thế kỉ XX. Hậu hiện đại là một hệ hình tư duy mới thay thế cho
hệ hình tư duy hiện đại cũ của chủ nghĩa hiện đại. Là một sự vận động mang tính tất
yếu của lịch sử xã hội loài người.Văn học hậu hiện đại đã trở thành một trào lưu có
mặt hầu khắp các nền văn học thế giới, không riêng gì ở châu Âu, châu Úc cho đến
châu Mĩ Latin và cả châu Á: Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc…Tuy nhiên, ở Việt Nam,
chủ nghĩa hậu hiện đại nói chung và văn học hậu hiện đại nói riêng vẫn còn là một
điều khá mới mẻ và có phần xa lạ.
Lí thuyết về “Hậu hiện đại” đi vào Việt Nam khá muộn nhưng việc tiếp
nhận ban đầu lại khá thụ động. Tinh thần hậu hiện đại được các nhà văn chuyển chở
vào tác phẩm khá tích cực song vì những lí do chủ quan lẫn khách quan khiến việc
tiếp nhận của đọc giả có phần khó khăn. Vấn đề đặt ra cho các nhà phê bình, dịch
thuật là những người tiên phong nhằm trang bị cho người đọc những kiến thức cơ
bản về chủ nghĩa hậu hiện đại, giúp họ khám phá tác phẩm được thuận tiện hơn.
Năm 1997, một bài dịch thuật có tên gọi “chủ nghĩa hậu hiên đại” của tác giả Lộc
Phương Thủy được đăng trên tạp chí Văn học, số 5, đánh dấu sự khởi đầu quan
trọng trong việc truyền bá lí thuyết này vào nước ta. Năm 2003, cuốn sách “Các
khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa
Kỳ thế kỷ XX”, do Đào Tuấn Ảnh, Trần Hồng Vân, Lại Nguyên Ân dịch; Nxb Đại
học quốc gia Hà Nội. Trong đó các khái niệm cơ bản của chủ nghĩa hậu hiện đại
cũng được giới thiệu rõ ràng, cụ thể góp phần tích cực trong việc nghiên cứu và phổ
biến lí thuyết này cho đời sống văn học nước nhà. Những năm gần đây, thuật ngữ “
chủ nghĩa hậu hiện đại” hay “Hậu hiện đại” được xuất hiện nhiều hơn trong nhiều
công trình nghiên cứu văn học nghệ thuật. Trong các cuộc hội thảo lớn đã và đang
trở thành cầu nối cho bạn đọc làm quen với bức tranh văn học Hậu hiên đại thế giới,
ở nhiều lĩnh vực khác nhau như phê bình, lí luận và trong thực tiễn sáng tác. Nhờ
3
vậy, đội ngũ sáng tác cũng đã chuyển tải tinh thần hậu hiện đại vào tác phẩm theo
những phong cách riêng. Tạo nên diện mạo đa màu sắc cho nền văn học nước nhà
trên đà hội nhập. Với những gương mặt tiêu biểu như: Nguyễn Huy Thiệp, Phạm
Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Thúy Hằng, Vi Thùy Linh,
Hoàng Hưng, Phan Huyền Thư, Nguyễn Hoàng Thế Linh, Jalau Anik, Inrasara,
Hoàng Long Trường, Lam Hạnh…
Trong đội ngũ sáng tác mang tinh thần hậu hiện đại ấy, Hoàng Hưng và
Inrasara là hai gương mặt nhà thơ đã để lại những ấn tượng với những đóng góp
đáng kể. Mỗi người có một thế giới thơ riêng, phong cách sáng tác đặc trưng riêng
nhưng ở họ ta thấy một điểm chung rất lớn. Đó là sự nỗ lực không ngừng và khát
khao bứt phá vươn lên cái mới, tự làm mới chính bản thân mình trong tư duy sáng
tác. Chính vì lẽ đó khiến chúng tôi muốn chọn đề tài “ Dấu ấn hậu hiện đại trong
thơ Hoàng Hưng và Inrasara”. Với mong muốn đem lí thuyết hậu hiện đại soi chiếu
vào những sáng tác của họ. Qua đó, so sánh những điểm chung và riêng trong
phong cách sáng tác của hai nhà thơ này. Từ đó, đọc giả có thể hiểu sâu hơn về thơ
Hoàng Hưng và Inrasara dưới góc nhìn tiếp nhận thơ ca hậu hiện đại. Góp phần làm
phong phú bức tranh văn học Việt Nam đương đại.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Cách tân luôn là vấn đề trăn trở đối với những người làm nghệ thuật.
Chúng ta có thể thấy thơ Việt Nam từ sau 1986 đến nay, là một bức tranh đa màu
sắc. Ở đó các thi sĩ không ngần ngại thử sức với cái mới mong muốn tạo nên những
luồng gió lạ cho nền thơ ca dân tộc trong thời kì toàn cầu. Hậu hiện đại khi vào Việt
Nam đã được các thi sĩ vận dụng khéo léo với thực tế xã hội để tạo nên những dấu
ấn mang đậm phong cách cá nhân. Khi thơ Lê Đạt, Trần Dần, Hoàng Hưng ra mắt
công chúng, người ta thấy đúng là đã có một thời đại văn học mới xuất hiện.
2.2. Hoàng Hưng được biết đến như một điển hình của ý thức cách tân sâu
sắc. Vượt lên những sóng gió của cuộc đời, ông vẫn mãi miết đi tìm cho mình một
lối đi mới trong thơ. Tập “Ngựa biển” in năm 1988 đánh dấu một bước ngoặt trong
hướng cách tân thơ ông. Hoàng Hưng là một người có tài và có tâm thật sự với nghề
nghiệp. Nhưng số mệnh đã khiến ông gặp những bất trắc khó lường trong cuộc sống
4
để rồi tạo cho hành trình thơ ông là những ngả rẽ. Song sau tất cả con đường thơ ấy
vẫn là những tam giác đồng quy. Dù có đi đâu, vấp ngã đến tận cùng của sự thất bại
thì với ông chiến thắng cuối cùng là vượt qua chính mình. Đỉnh của vinh quang lớn
nhất vẫn là vinh quang của người nghệ sĩ dám sống hết mình cho thơ ca. Sự nghiệp
sáng tác của Hoàng Hưng tính đến nay có hơn năm tập thơ. Hành trình ấy là quá
trình gian nan thử lửa nhưng qua mỗi tập thơ, ông đều để lại những dấu ấn đẹp
trong lòng bạn đọc. Thơ ông không chỉ nhận được sự quan tâm của giới văn nghệ sĩ,
phê bình trong nước. Hoàng Hưng còn là hiện tượng thu hút sự chú ý của giới
nghiên cứu ở nước ngoài. Do những điều khách quan lẫn chủ quan mà đến nay,
những công trình nghiên cứu chuyên sâu về thơ ông chưa nhiều. Đa phần là những
bài báo bình luận, nhận xét của giới chuyên môn trên các tạp chí văn hóa, văn nghệ,
và các trang mạng xã hội khác. Ví như bài : “Hoàng Hưng đi tìm mặt” của Hoàng
Cầm in trên báo Văn Nghệ 1994. Tác giả chủ yếu nhìn nhận nội dung thơ trong mối
quan hệ với cuộc đời của Hoàng Hưng. Qua đó, lí giải những khía cạnh và biểu hiện
của nó làm nên nét riêng của nhà thơ. Tác giả đã nhận xét ở phần cuối bài: “Hoàng
Hưng đã đi đến một tính cách rõ rệt trong thơ. Nỗi quằn quại của đời anh, ngòi bút
anh đang nói với chúng ta đôi điều mới lại về số phận con người”.[13] Năm 1994,
tác giả Phong Lê cũng có bài: “Văn học trong hành trình và con người” in trên
Nxb Lao Động, người viết đã đưa ra những ý kiến và bình luận về sự đổi mới trong
tư duy sáng tạo nghệ thuật của Hoàng Hưng ở tập thơ “Người đi tìm mặt”. Tác giả
Phong Lê cho rằng nhà thơ đã từng chịu “Sự ám ảnh về một cái gì đó còn trong
phía tối của cả một nội tâm và ngoại giới”.[31] Vấn đề đó được phản ánh rõ trong
thơ của ông. Trong tác phẩm: “Đối thoại với văn chương”, Nxb Hội nhà văn, năm
1996. Tác giả Nguyễn Thị Minh Thái lấy yếu tố hình ảnh, âm điệu từ góc nhìn siêu
thực ở tập thơ “Người đi tìm mặt” để minh chứng cho sự tìm tòi, thể nghiệm cái
mới trong thơ Hoàng Hưng và đã đưa ra nhận định rằng: “Sự tìm tòi thể nghiệm ấy
tất yếu sẽ đẩy Hoàng Hưng tới những nấc thang cao hơn”[38]. Nguyễn Hữu Hồng
Minh với bài “Vùng Hoàng Hưng” đăng trên trang Talawas, năm 2003. Tác giả đã
có những lí giải khá sâu về thơ ông trên nhiều phương diện. Đặc biệt dưới góc nhìn
phân tâm học người viết tỏ ra sắc sảo khi nói về vấn đề tính dục trong thơ Hoàng
5
Hưng. Từ đó, tác giả đưa ra nhận xét: “Cách tân thơ không phải là học trở lại những
phong cách đã chết. Là một tay sừng sỏ, Hoàng Hưng hoàn toàn nắm được các qui
tắc của luật chơi đó. Trong tiến trình thơ hiện đại hôm nay vẫn thấy ông là một
trong số ít ỏi những gương mặt nội lực thơ đi tiền phong”.[55] Năm 2006, nhiều
bài phê bình đánh giá toàn diện chuyên sâu về thơ ông cũng được ra mắt bạn đọc.
Góp phần đưa đọc giả đến gần với thơ ông nhiều hơn. Năm 2008, bài: “Hành trình
tinh thần của một nhà thơ” Tham luận tại hội thảo “Thơ Việt Nam đương đại”,
Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, TP Hồ Chí Minh. Đây là một bài viết có giá
trị trong việc đánh giá hành trình sáng tạo nghệ thuật của nhà thơ Hoàng Hưng. Bài
viết kết thúc bằng những lời đánh giá rất hay về ông:“Tận tụy và liều lĩnh, ông đã
phó thác mình cho những chuyến đi vô tận của thơ ca và cuộc đời – những chuyến
đi quá nhiều sóng gió rủi may, nhưng cũng không ít vàng ròng sáng tạo!”[66]
Thời gian sau này có bài viết của Lê Hồ Quang với tựa đề “Thơ Hoàng
Hưng – Một vuông tường một thế giới” in trên tạp chí thơ năm 2012. Khái quát
lại chặng đường sáng tạo thơ của Hoàng Hưng, lí giải những hệ thống biểu tượng
phong phú và đặc sắc mang hơi thở của thơ ca hậu hiện đại. Tác giả cho rằng đó là
một trong những nét nổi bật hấp dẫn người đọc đến với thơ ông, đồng thời đưa ra
kết luận: “Có thể nói, với Hoàng Hưng, sáng tạo chính là hành trình đi tìm mặt
mình. Đấy là hành trình tìm kiếm cái diện mạo đích thực của con người cá nhân.
Nhìn rộng ra, đó cũng là hành trình tìm kiếm Thơ, tìm kiếm những giá trị Lý
tưởng... Hiện diện trong thơ ông là một hệ thống biểu tượng phong phú. Đó là sự
kết hợp nhuận nhị giữa tư duy lí tính và trực giác nhạy bén....”[36]Năm 2013,
Inrasara và Thiếu Sơn cũng có những bài viết, phỏng vấn nhà thơ Hoàng Hưng trên
các tạp chí và website như Tạp Chí Sông Hương, Talawas…giúp đọc giả đến gần
hơn với thơ ông. Năm 2014, tác giả Đỗ Ngọc Quyên với bài: “Nhà thơ Hoàng
Hưng và những vần thơ cháy lòng” đăng trên trang Văn học quê nhà, người viết
đã giúp chúng ta hiểu hơn về cuộc đời lắm thăng trầm của Hoàng Hưng. Đồng thời
có những phân tích về thơ ông chịu ảnh hưởng và trưởng thành từ hoàn cảnh sống
ấy như thế nào : “Cuộc đời hoạt động nghệ thuật của nhà thơ Hoàng Hưng không
chỉ đem lại cho đời những tác phẩm thơ độc đáo, có giá trị và đầy thi hứng sáng tạo,
6
mà còn mang đến cho bạn thơ và những người hâm mộ những bài học quí về một
bản lĩnh nghệ sĩ kiên gan trong lao khổ vẫn không ngừng thắp sáng ngọn lửa của
lòng đam mê sáng tạo thi ca”.[56] Tác giả Paul. Hoover- chủ biên tạp chí New
Amer writing cũng có nhiều bài viết bàn về thơ Hoàng Hưng như “ Người về và
mùa mưa” hay bài M. Ngoài ra còn có một số bài khóa luận tốt nghiệp khác nghiên
cứu về thế giới nghệ thuật thơ hay ngôn ngữ thơ Hoàng Hưng. Vì nhiều nguyên
nhân nên đến nay chưa có thật nhiều công trình nghiên về thơ ông, đặc biệt là
nghiên cứu sự cách tân theo hướng hậu hiện đại. Hy vọng, thời gian tới thơ Hoàng
Hưng sẽ được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn.
2.3. So với nhà thơ Hoàng Hưng, Inrasara là thế hệ đi sau. Ông nhập cuộc vào
làng thơ Việt khá muộn song sự nhập cuộc này rất dứt khoát và mạnh mẽ. Là người
con của nền văn hóa Chăm, thơ Inrasara trước hết mang hơi thở ngọn nguồn của
dân tộc mình. Nhưng với tâm hồn nhạy bén, cá tính mạnh, ông nhanh chóng hòa
mình vào dòng chảy thơ Việt đương đại. Một lối thơ phóng khoáng và không ngừng
cách tân tìm tòi đổi mới. Thuở nhỏ, Irasara đã tỏ ra là người say mê với con chữ.
Ông không ngừng đọc và khám phá thế giới nghệ thuật văn chương. Vì lẽ đó, khi
lớn lên con người ấy có trong mình khối kiến thức rất sâu và rộng. Ông trở thành
nhà nghiên cứu về ngôn ngữ và văn hóa Chăm. Hiện nay ông không chỉ làm thơ mà
còn là nhà nghiên cứu phê bình hậu hiện đại sắc sảo được giới văn nghệ vô cùng
kính nể. Ông đã nhanh chóng có được một vị trí xứng đáng trong lòng bạn đọc và
giới phê bình nghiên cứu. Chính vì thế, các công trình nghiên cứu và nhiều bài báo
viết về thơ ông khá nhiều. Đầu tiên có thể kể đến đề tài “Thế giới nghệ thuật Thơ
Inrasara” của Võ Thị Hạnh Thủy; luận văn thạc sĩ ngữ văn; ngành văn học Việt
Nam hiện đại ;Viện văn học; 2008. Trong phần kết luận đã đưa ra nhận xét về nhà
thơ này: “Inrasara đã và đang góp phần hoàn thiện con đường hiện đại hóa của văn
học dân tộc, tiên phong cho văn học dân tộc bước sang một giai đoạn mới: Hậu hiện
đại”.[43] đề tài nghiên cứu cấp trường “Tìm hiểu thế giới nghệ thuật thơ
Inrasara” của Lê Thị Tuyết Lan và Nguyễn Thị Thu Hương; trường đại học
KHXH & NV TPHCM; 2008. Hai tác giả đã giới thiệu một cách tổng quan về thơ
ông trên bình diện nội dung và nghệ thuật. Từ đó giúp người đọc nhận thấy những
7
thay đổi trong phong cách của ông qua những tập thơ: “Tháp nắng” (1996); “Sinh
nhật cây xương rồng”( 1997); “Hành hương em”(1999); “Lễ tẩy trần tháng tư”(
2002); Chuyện 40 năm mới kể và 18 bài thơ tân hình thức(2006). Bước đầu giúp
người đọc có một cách tiếp cận gần hơn về thơ Inrasara. Đồng thời đưa đến một cái
nhìn khái quát về văn học nước nhà trên tiến trình phát triển và đổi mới. Tiếp theo
đó, công trình nghiên cứu của Lê Thị Việt Hà; luận văn thạc sĩ, ngành lí luận văn
học; Đại học Vinh; 2009 với đề tài “Hành Trình cách tân thơ của Inrasara”.
Luận văn trình bày hành trình cách tân thơ của Inrasara từ hậu lãng mạn sang hậu
hiện đại. khẳng định hành trình ấy là nỗ lực vượt lên chính mình của nhà thơ trong
sáng tạo nghệ thuật. Tác giả luận văn đã đánh giá về hành trình thơ ông: “Hành
trình thơ Inrasara là hành trình đến cái mới. Những ngày đầu trong Tháp nắng người
đọc tinh ý còn dễ nhận mặt những nắng quái, sầu miên viễn, tàn tạ, buồn hải hồ qua
Chuyện 40 năm mới kể & 18 bài thơ tân hình thức đến Ở nơi ấy [thơ thời cuộc] đã
là những bước đi dài và có thể nói Inrasara đã thanh toán sòng phẳng với lãng mạn,
nhảy sang bên kia bờ của hậu hiện đại.”Qua đó, luận văn khẳng định cách tân trong
thơ Inrasara luôn gắn liền với truyền thống, phục vụ truyền thống và làm phong phú
truyền thống thơ ca Việt Nam.[16] Năm 2010, bài viết “Đặc điểm ngôn ngữ thơ
Inrasara” của tác giả Hoàng Thị Huế và Nguyễn Thị Thủy, đăng trên tập san của
Sở giáo dục và đào tạo Thừa Thiên Huế. Bài viết đã có những kiến giải hay về ngôn
ngữ thơ Inrasara, vừa thể hiện được những giá trị của ngôn ngữ Chăm đồng thời nhà
thơ cũng có những cách tân hết sức táo bạo: “Thành công của Inrasara trong nghệ
thuật biểu hiện, đặc biệt là ngôn ngữ thơ đã đưa nền văn hoá Chăm đến gần và hoà
nhập với văn hoá Việt, đồng thời cũng góp phần đưa thơ ca Việt Nam nói chung
hoà nhập với thơ ca thế giới”[20].“Inrasara từ quan niệm đến phong cách”, luận
văn thạc sĩ khoa học của Trần Hoài Nam; Trường Đại học Sư phạm Hà Nội; năm
2010. Xem xét góc nhìn từ quan niệm của tác giả để từ đó định hình phong cách
trong sáng tác thơ và cả sáng tác phê bình nghiên cứu của Inrasara. Phần kết luận,
người thực hiện đề tài đã viết về ông như sau:“Hiện nay, Inrasara đã trở thành một
đề tài nóng không chỉ thu hút giới nghiên cứu, giới truyền thông mà còn là mối
quan tâm của những người sáng tác. Ở Inrasara, có sự đồng bộ giữa sáng tác và phê
8
bình. Nghĩa là có rất nhiều điều để nói về ông nhưng trong khuôn khổ một luận văn
thạc sĩ, chúng tôi đã chỉ tập trung khảo sát từ quan niệm văn chương đến phong
cách trong sáng tác và phê bình của Inrasara”.[67] Năm 2013, đề tài nghiên cứu
theo chiều hướng mới của tác giả Nguyễn Thị Thùy Dung với đề tài “Tinh thần
hậu hiện đại trog thơ Inrasara”; ngành lí luận văn học; Đại học KHXHNV- Đại
học QGHN. Công trình đánh giá tiến trình sáng tác của Inrasara qua các tập thơ,
khảo sát trên phương diện nội dung và nghệ thuật ở hai tập thơ “Chuyện 40 năm
mới kể và 18 bài thơ tân hình thức”. Nhìn chung đề tài này mới chỉ làm nổi bật tinh
thần đóng góp lí thuyết hậu hiện đại vào sáng tác của Inrasara, chưa khai thác sâu
các yếu tố một cách toàn diện để giúp người đọc hiểu rõ dấu ấn hậu hiện đại trong
thơ ông được thể hiện độc đáo và riêng biệt như thế nào. Qua đó, người nghiên cứu
đã có đánh giá về nhà thơ này: “Inrasara là gương mặt nổi bật trong nền thơ ca
đương đại Việt Nam. Ông là nhà thơ tài hoa, cá tính, luôn thể hiện nỗ lực đem cái
mới vào nền văn học nước nhà”[15].Ngoài ra còn có một số đề tài khóa luận tốt
nghiệp khác viết về nhà thơ Inrasara nhưng chủ yếu là khai thác ở các khía cạnh
ngôn ngữ và văn hóa Chăm. Những bài báo và công trình nghiên cứu trên là minh
chứng cho tinh thần lao động nghiêm túc vì nghệ thuật của nhà thơ này.
Có thể nói, sự nỗ lực cách tân của nhà thơ Hoàng Hưng và Inrasara đã ghi
dấu những thành quả đáng kể trong nền thơ ca Việt đương đại. Một trong những
yếu tố quan trọng để tạo nên thành công đó chính là tư duy sáng tạo của cá nhân họ.
Tác giả Hoàng Thị Huế trong bài viết: “Ánh xạ từ biểu tượng cái tôi trong thơ
Việt đương đại”,Tạp chí khoa học Huế, số 5/ 2016 cũng đã đề cập đến vấn đề này:
“Sau đổi mới, thơ ca đương đại đã có bước ngoặt lớn trong tư duy sáng tác, trong
cái nhìn thế giới, con người, không gian, thời gian, chi phối sự lựa chọn phương
thức trữ tình mới mẻ với một giọng điệu riêng và khác lạ, đặc biệt là sự góp mặt của
các gương mặt thơ Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Phan Huyền Thư, Vi
Thùy Linh... Trong xu hướng đổi mới chung, các nhà thơ đã tìm tòi cho mình một
hướng đi riêng, mang đậm dấu ấn cá nhân của một cái tôi đa chiều kích, đầy kiêu
hãnh và độc lập”.[22] Từ cái nhìn khách quan trên, khi soi chiếu vào thơ hậu hiện
9
đại của Hoàng Hưng và Inrasara sẽ cho chúng tai thấy được nhiều sự thay đổi trong
quá trình sáng tác của hai nhà thơ này.
Như vậy, nhìn chung các bài phê bình báo chí hay các công trình nghiên cứu về
nhà thơ Hoàng Hưng và Inrasara, cho thấy rằng giới đọc giả cũng như giới phê bình
nghiên cứu đã ghi nhận những cống hiến không hề nhỏ của hai ông cho nền thơ ca Việt
Nam đương đại. Khẳng định những thành quả mà hai nhà thơ đạt được chính là những
nỗ lực không mệt mỏi trong hành trình sáng tác của họ với mong muốn đem đến cho
diên mạo thơ dân tộc những hương vị mới. Mặc dù đã có sự quan tâm nhiều như vậy
nhưng để khám phá hết những giá trị tiềm ẩn trong thế giới thơ của hai thi sĩ này không
hề đơn giản. Đặc biệt là vấn đề yếu tố hậu hiện đại trong thơ họ chưa được khai thác
nhiều, một cách sâu sắc và toàn diện. Do vậy, với đề tài “Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ
Hoàng Hưng và Inrasara”, chúng tôi mong muốn đem đến cái nhìn mới có tính chuyên
sâu. Qua đó, giúp người đọc có sự tiếp cận rõ ràng hơn, sâu sắc hơn về vai trò của hai
nhà thơ đối với nền thơ ca Việt Nam đương đại.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và
Inrasara. Chính vì vậy, luận văn tập trung khảo sát các tập thơ mang dấu ấn hậu
hiện đại của hai tác giả này. Cụ thể, đối với Hoàng Hưng có các tập Ngựa biển in
năm 1988; Người đi tìm mặt in năm 1994; Hành trình in năm 2005;. Thơ Inrasara,
khảo sát chủ yếu ở tập Chuyện bốn mươi năm mới kể & 18 bài thơ tân hình thức in
năm 2006 và Ở nơi ấy [thơ thời cuộc])(2013)
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Với đề tài “Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara” Luận
văn tập trung khảo sát làm rõ những yếu tố hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và
Inrasara ở mặt nội dung và phương thức biểu hiện của nghệ thuật.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, người viết tập trung vào những phương
pháp chủ yếu sau:
- Phương pháp cấu trúc - hệ hống
10
Đặt tác phẩm trong hệ thống của khuynh hướng hậu hiện đại để nhận xét,
đánh giá và khái quát hiện tượng.
- Phương pháp vận dụng lí thuyết hậu hiện đại, lí thuyết thi pháp học
Với đề tài này, chúng tôi vận dụng lí thuyết hậu hiện đại, lí thuyết thi pháp
học soi chiếu vào tác phẩm để làm nổi bật yếu tố hậu hiện đại được thể hiện trong
thơ Hoàng Hưng và Inrasara.
- Phương pháp thống kê - phân loại
Dùng thống kê những bài thơ của Hoàng Hưng và Irasara đồng thời, phân loại
chúng làm cơ sở cho sự so sánh đối chiếu những đặc điểm giống và khác nhau trong
thơ hậu hiện đại của hai ông trong quá trình thực hiện đề tài.
- Phương pháp so sánh - đối chiếu
So sánh đồng đại để làm bật lên nét tương đồng cũng như khác biệt được
biểu hiện trong nội dung và nghệ thuật trong thơ của Hoàng Hưng và Inrasara.
Ngoài ra, người viết còn sử dụng một số thao tác khác để khám phá triệt để các yếu
tố hậu hiện đại trong tác phẩm của hai nhà thơ này.
5. Đóng góp đề tài
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu chung về hai nhà thơ Hoàng
Hưng và Inrasara, khai thác ở góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đại. Qua đó, khẳng
định tài năng, phong cách nghệ thuật cùng với lối viết tinh tế, độc đáo và mới mẽ
của hai nhà thơ này. Luận văn sẽ là một tài liệu hữu ích cho việc tìm hiểu, học tập,
nghiên cứu văn học ở phương diện hậu hiện đại trong thơ Việt Nam đương đại.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần MỞ ĐẦU, KẾT LUẬN và PHỤ LỤC, phần NỘI DUNG được
chia thành ba chương:
Chương 1: Hoàng Hưng, Inrasara và ảnh hưởng của Chủ nghĩa hậu hiện đại
đến thơ Việt Nam sau 1986
Chương 2: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara nhìn từ
bình diện cảm quan về thế giới và cái tôi trữ tình
Chương 3: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara nhìn từ
phương thức nghệ thuật
11
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
HOÀNG HƯNG, INRASARA VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA CHỦ NGHĨA
HẬU HIỆN ĐẠI ĐẾN THƠ VIỆT NAM SAU 1986
1.1. Ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại đến thơ Việt Nam sau năm 1986
1.1.1. Chủ nghĩa hậu hiện đại
Danh từ “postmoderne”(hậu hiện đại) hay “postmodernism” (chủ nghĩa hậu
hiện đại) theo Ihab Hassan nó được Federico de Onis đưa vào văn bản lần đầu vào
thập niên 1930 để chỉ sự ảnh hưởng đối kháng với chủ nghĩa hiện đại. Danh từ này
được sử dụng một cách phổ biến vào thập niên 1960 tại New York. Sau này đã được
xuất hiện trong cuộc tranh luận triết học năm 1979 ở phương Tây cùng với sự ra đời
cuốn La condition postmoderne (Hoàn cảnh hậu hiện đại) của Jean-François
Lyotard một triết gia Pháp. Nó đã thực sự trở thành một làn sóng có sức cộng hưởng
và lan tỏa mạnh mẽ trên toàn thế giới. Lý thuyết này không giới hạn trong phạm vi
triết học hay văn hóa, văn học nghệ thuật mà được áp dụng rộng rãi trong đời sống
xã hội. Theo Lyotard, ông cho rằng: “chúng ta đang sống trong thời hậu hiện đại,
thời mà tất cả những lý thuyết có từ thời Ánh sáng đều đã bị đổ vỡ”.[25]Bản chất hệ
hình hậu hiện đại đó là khởi nguồn từ sự đổ vỡ của những thể chế quan liêu giáo
điều, sự nổi giận của thiên nhiên chống lại sự cải tạo của con người, những cuộc
chiến tranh giữa các nước trên thế giới, tệ phân biệt chủng tộc, sự mất bình đẳng
giới, chênh lệch giàu nghèo … cùng với sự phát minh ra lý thuyết hỗn độn, hình học
fractal, những hệ phi tuyến… là những cơ sở sâu xa để tinh thần hậu hiện đại xuất
hiện. Do đó, tinh thần hậu hiện đại sinh ra là để chống lại sự độc tài của các chủ
thuyết mà ông gọi là các siêu văn bản (métarécit); nghĩa là không có một thứ
nguyên lý phổ quát nào cho tất cả; chống lại quan niệm rằng “trật tự và ổn định là
luôn luôn tốt và coi sự hỗn loạn, bất ổn là luôn luôn xấu”. Nhưng bản chất của xã
hội là mọi sự thật vĩnh hằng sẽ biến mất, thay vào đó là những biểu hiện của những
hiện tượng không bản chất. Thời hậu hiện đại, con người đã nhận thấy được điều
đó. Thế nên, đây là thời của sự lựa chọn không ngừng và gắn với hệ quả của sự bùng
12
nổ thông tin. Thời đại nổi dậy chống sự bất bình đẳng giữa con người. Để chống lại
siêu văn bản (chủ thuyết lớn), hậu hiện đại phát huy tính chất đa dạng, coi trọng vai
trò cá nhân, các nhóm, coi trọng các lý thuyết nhỏ, những tiểu văn bản (petits
récits). Những tiểu văn bản của hậu hiện đại thường có cách nhìn tạm thời, ngẫu
nhiên, không khái quát tính thống nhất, tính ổn định, tính hợp lý hay sự thật khách
quan. Trong đó tất cả mọi ý kiến đều có quyền hiện diện, cho phép sự bất đồng và
nói sai (paralogie). Vấn đề này đã được các nhà khoa học hậu hiện đại nghiên cứu
ứng dụng với đời sống hiện tại. Qua đó, có thể nhận định rằng chủ nghĩa hậu hiện
đại đang minh chứng nhiều điều trái ngược so với những gì mà thời chủ nghĩa hiện
đại đã đặt ra. Không dừng lại ở đó, chủ nghĩa hậu hiện đại sẽ còn mở ra nhiều biến
số mới trong đời sống xã hội loài người. Vì vậy, hậu hiện đại là một cách gọi để chỉ
về một sự vận động, mà sự vận động đó đang tạo nên một hệ hình tư duy mới, có
nhiệm vụ thay thế cho hệ hình tư duy hiện đại đã không còn phù hợp. Từ đó, khái
niệm chủ nghĩa hậu hiện đại được xem là một hệ thống lý thuyết mở của thời kỳ
hậu hiện đại. Những lí thuyết cơ bản về chủ nghĩa hậu hiện đại chủ yếu được hình
thành ở Phương Tây nhưng sự phát triển thì khá phức tạp, xu hướng lan truyền của
nó nhanh và rộng ở nhiều lục địa trên thế giới. Không chỉ ở các nước Tây Âu, Mỹ la
tinh mà ở các trung tâm kinh tế lớn của châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Ân Độ,
Hàn Quốc...điều đó cho thấy rằng chủ nghĩa hậu hiện đại đã không còn xa lạ với bất
kì quốc gia nào có nền kinh tế và nền khoa học kĩ thuật phát triển.
Trong thực tế, các triết gia đã có rất nhiều lí thuyết thể hiện những quan niệm
khác nhau về chủ nghĩa hậu hiện đại như Roland Barthes, Irving Howe, Ihab
Hassan, Jane Jacobs, Michel Foucault,… J. Lyotard xem hậu hiện đại là sự đánh
mất niềm tin vào các “đại tự sự”, là sự nỗ lực chống lại các “đại tự sự” (tức các lý
thuyết phổ biến), (1979). Ihab Hassan coi chủ nghĩa hậu hiện đại là một thứ chủ
nghĩa hiện đại muộn, mang tính phi lý tính, phi xác định, hỗn loạn, nhưng cũng
mang tính nhập cuộc (1971). Fredric Jameson cho rằng “sự tha hoá của chủ thể”
trong chủ nghĩa hiện đại đã được thay thế bằng “sự phân mảnh của chủ thể” trong
chủ nghĩa hậu hiện đại ở giai đoạn chủ nghĩa tư bản muộn.
13
U. Eco xem hậu hiện đại “là một phạm trù tinh thần, hoặc tốt hơn, một
Kunstwollen - một phương thức thao tác” (1996). Baudrillard xem văn hoá hậu hiện
đại là thế giới của những “vật ngụy tạo” (1995). Derrida - “ Giải trung tâm”. W.
Fokkema “Kết thúc đại tự sự”. L. P.Evstigneva và R. Evstigneev quan niệm đặc trưng
của xã hội hậu hiện đại là tính đối thoại, còn đặc trưng của xã hội công nghiệp hiện
đại là độc thoại (2000). Lipovetsky cho rằng hậu hiện đại là “sự quay trở về với
nguồn gốc của con người”. Michel Foucault xem hậu hiện đại là “Khảo cổ tri thức”...
Tuy vậy, nhìn một cách tổng thể các triết gia hậu hiện đại chủ trương làm mới những
tư tưởng đã cũ của Friedrich Nietzsche, Carl Marx, Martin Heidegger, Sigmund
Freud...đồng thời hòa tan chúng trong cái nhìn về văn hóa xã hội của mình.
1.1.2. Văn học hậu hiện đại
Nghệ thuật hậu hiện đại thể hiện quan điểm mỹ học hậu hiện đại với những
đặc điểm như vứt bỏ tính hàn lâm của các nhà hiện đại, xóa nhòa ranh giới giữa
nghệ thuật và đời sống hằng ngày, bởi sự phát triển mạnh của tính công khai và dân
chủ. Phủ nhận tính nguyên bản của một tác phẩm nghệ thuật và muốn hướng tới
tính phổ quát, đại chúng. Phá bỏ cấu trúc, sự tiếp nhận hay mô tả hiện tượng không
cần suy diễn, không chú ý đến chiều sâu, không diễn dịch bản chất sự vật theo chủ
quan tác giả, giá trị nghệ thuật tùy thuộc vào kinh nghiệm cá nhân của người tiếp
nhận, tùy thuộc vào nền văn hóa mà họ sở thuộc,… Trái ngược với chủ nghĩa hiện
đại muốn tạo lập một thế giới hoàn thiện, bất biến, thì chủ nghĩa hậu hiện đại lại
xem thực tại hỗn loạn, phi lý, giễu cợt những điều mang tính toàn trị. Họ muốn
nghệ thuật gắn liền với hoàn cảnh xã hội đặc trưng cụ thể, mang tính thời sự. Đối
thoại với hỗn loạn chính là chiến lược nghệ thuật của hậu hiện đại. Trong lĩnh vực
nghệ thuật, đi tiên phong là các nhà kiến trúc sư. Họ phê bình lối kiến trúc đơn điệu
thô cạch của các tòa nhà mang nặng tính thực dụng mà lại bỏ quên tính đa dạng. Do
đó họ sẵn sàng cắt đứt với nghệ thuật tiền phong chấp nhận thử bất cứ điều gì như
sự phi lý, sự hỗn loạn, sự ngớ ngẩn. Cái phản chất lượng được lên ngôi bởi sự khác
thường, sự tự do và sự phá vỡ khuôn khổ.
Trong văn học, thuật ngữ “văn học hậu hiện đại” được xem là một trào lưu
xuất phát từ phương Tây từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai và đạt đến đỉnh cao vào
14
những năm 70, 80 của thế kỉ XX. Khi nhắc đến văn học hậu hiện đại, ngoài ý nghĩa
chỉ thời gian còn thể hiện những quy định của các thuộc tính nghệ thuật đối với nó.
Phần lớn các ý kiến đều nhấn mạnh đến các đặc tính của văn học hậu hiện đại như
tính phi lý tính (hoặc phản lý tính), tính phi xác định, phi chủ thể, tính phân mảnh và
tính đại chúng. Văn học hậu hiện đại cũng đã sử dụng hàng loạt khái niệm, thuật ngữ
mới trong cách viết, tạo nên những văn bản nghệ thuật chưa từng có trước đó cả về
hình thức lẫn nội dung như: cảm quan hậu hiện đại, giễu nhại, mã kép, phi lựa chọn,
giải nhân cách hoá, bất tín nhận thức, mặt nạ tác giả, ngoại biên, liên văn bản, siêu
truyện,…và trong số đó nhiều cái được xem như thủ pháp nghệ thuật hậu hiện đại.
Một vấn đề nữa của văn học hậu hiện đại, đó là phải kể đến những gương
mặt nổi tiếng trên thế giới đã thành công với lối viết này. Barry Lewis, trong Chủ
nghĩa hậu hiện đại và văn chương đã thống kê khá đầy đủ các tác giả nổi bật của
văn học hậu hiện đại: “Văn chương hư cấu hậu hiện đại là một hiện tượng mang
tính quốc tế, với những đại diện quan trọng từ khắp nơi trên thế giới: Gunter Grass
và Peter Handke (Đức); Geogrges Perec và Monique Wittig (Pháp); Umberto Eco
và Italo Canvino (Italy); Algela Cater và Salman Rushdie (Anh); Stanislaw Lem
(Ba Lan); Milan Kundera (trước kia ở Tiệp); Mario Vargas Llosa (Peru); Gabriel
Garcia Marquez (Colombia); J.M.Coetzee (Nam Phi); Peter Carey (Úc) . Trong đó,
tổng số những nhà văn Mỹ có thể được liệt vào đề mục hậu hiện đại là một con số
lớn”. [2, tr.237] Những tên tuổi được nêu ở trên là một minh chứng thuyết phục về
sự ảnh hưởng mạnh mẽ của trào lưu văn học hậu hiện đại trên toàn thế giới. Một
trào lưu văn học mới đã thu được những thành tựu lớn, do vậy sự ảnh hưởng của nó
đến nền văn học Việt Nam là điều không tránh khỏi. Chưa thể nói rằng trong văn
học Việt Nam đã xuất hiện các trường phái, khuynh hướng hay trào lưu hậu hiện đại
như các nền văn học lớn trên thế giới. Tuy vậy, chúng ta vẫn tìm thấy những dấu
hiệu và yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác của một số cây bút tiêu biểu. Khi nhận xét
về chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học nước ta, tác giả Nguyễn Quốc Hưng (nguồn
talawas.com) khẳng định: “Chúng ta có thể xem chủ nghĩa hậu hiện đại tại Việt
Nam là một thứ chủ nghĩa hậu hiện đại nguyên hợp” tức là các nhà văn Việt Nam
chịu ảnh hưởng từ nhiều nguồn khác nhau để tạo nên màu sắc hậu hiện đại.
15
Như vậy, ở nước ta, khi bàn về chủ nghĩa hậu hiện đại và văn học hậu hiện
đại, mặc dù còn có nhiều ý kiến tranh luận, song chúng ta có thể nhận định, văn học
hậu hiện đại là một bước phát triển mới của văn học nhân loại. Với những phương
thức thể hiện có nhiều sự biến đổi phù hợp với sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật và
thị hiếu thưởng thức nghệ thuật giàu tính trí tuệ của bạn đọc đương đại. Văn học
Việt Nam không nằm ngoài vòng quỹ đạo ấy, mang ít nhiều màu sắc hậu hiện đại là
một sự thú vị. Đây cũng là một mảnh đất đang tạo ra nguồn cảm hứng lớn để nhiều
người yêu thích khám phá nó.
1.2. Những thành tựu và sự tiếp nhận chủ nghĩa hậu hiện đại trong Thơ
Việt Nam sau năm 1986
Ở Việt Nam, chủ nghĩa hậu hiện đại đã có tác động nhiều đến sáng tác của
các nhà văn. Sau đổi mới 1986, với tinh thần hội nhập và cởi mở, văn học nước ta
đã có nhiều bước phát triển mới. Thuật ngữ “chủ nghĩa hậu hiện đại” hay “Hậu hiện
đại” xuất hiện nhiều hơn trong nhiều công trình nghiên cứu văn học nghệ thuật.
Trong các cuộc hội thảo lớn văn học Hậu hiên đại đã và đang trở thành mối quan
tâm của bạn đọc, trên nhiều lĩnh vực, phê bình, lí luận và trong thực tiễn sáng tác.
Đội ngũ sáng tác cũng đã chuyển tải tinh thần hậu hiện đại vào tác phẩm theo những
phong cách riêng, tạo nên diện mạo đa màu sắc cho nền văn học nước nhà trên đà
hội nhập. Với những gương mặt tiêu biểu như: Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài,
Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Thúy Hằng, Vi Thùy Linh, Hoàng
Hưng, Nguyễn Thế Hoàng Linh, Jalau Anik, Inrasara, Hoàng Long Trường, Lam
Hạnh… Hậu hiện đại trong những sáng tác hiện nay phần lớn biểu hiện ở cảm thức
hậu hiện đại, ghi lại những dấu ấn vừa thể hiện tư duy cá nhân vừa mang tinh thần
hội nhập quốc tế.
Văn học hậu hiện đại ở Việt Nam được phát triển trong hoàn cảnh chung với
nền nghệ thuật hiện đại. Những điều kiện về “kiến trúc thượng tầng” cho văn học
hậu hiện đại ra đời và vận động phát triển chưa thể đáp ứng tốt. Song sự tích cực
của đội ngũ nghiên cứu lí luận, phê bình đã và đang mở đường cho quá trình tiếp
nhận, ứng dụng lý thuyết văn học hậu hiện đại trong thực tiễn sáng tác, phê bình trở
nên sôi động hơn, góp phần thúc đẩy sự phát triển nền văn học nước nhà.
16
Như vậy có thể nói rằng, để có được những thành tựu đó là nhờ sự vận động
và biến đổi không ngừng của đời sống xã hội trong thời kì mới. Trong đó vấn đề
quan trọng hàng đầu là sự đổi mới chính sách, đường lối của Đảng và nhà nước ta.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) là sự mở đường quan trọng cho cả dân
tộc. Trên mặt trận văn hóa nghệ thuật, người nghệ sĩ được tự do thể hiện cái tôi cá
nhân của mình, tự do bày tỏ những trăn trở, suy tư về thế sự. Văn học thời kì đổi
mới với những thành tựu trong nghiên cứu lí luận, phê bình, dịch thuật đã góp phần
đáng kể trong việc đổi mới văn học nước nhà. Các nghệ sĩ, bằng cảm quan nhạy bén
của mình đã vận động và bắt mạch được với những cách tân của thời đại, đưa văn
học nước nhà có bản đồng ca đa điệu đi vào guồng chung của văn chương thế giới.
Kể từ cuối thập niên 1980, đội ngũ những cây bút sáng tác mới mang tinh
thần hậu hiện đại trở nên đa dạng hơn có thể kể đến như: Lê Đạt, Trần Dần, Thanh
Thảo, Hoàng Hưng, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Ngọc Tư, Phan Việt, Phạm Thị
Hoài, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Việt Hà,...Lối viết của các nhà văn, nhà thơ
này, đã cho thấy sự khác lạ với chính họ trước đó và cả với những nhà văn khác
cùng thời, những người không bắt kịp với sự đổi mới văn chương của nhân loại.
Những sáng tác theo khuynh hướng hậu hiện đại đã tạo nên một bước ngoặt trong
sự phát triển của văn học dân tộc. Nhưng có lẽ yếu tố hậu hiện đại trong văn học
Việt Nam đã được manh nha từ những năm 70 của thế kỉ XX. Ở thể loại văn xuôi,
Lê Huy Bắc trong bài: “Đôi điều về văn chương hậu hiện đại Việt Nam”, cho rằng
Nguyễn Khải là người đi tiên phong đổi mới văn học nước ta theo khuynh hướng
hậu hiện đại. Vấn đề đó được thể hiện trong việc chuyển đổi từ cảm hứng sử thi
sang cảm hứng đời thường. Phản ánh hiện thực đời sống với những thân phận con
người bé nhỏ trong Xung Đột (1959- 1962), Mùa Lạc (1960). Quá trình chuyển đổi
này cũng được Nguyễn Khải thể hiện rõ ngay trong nhan đề truyện qua Thượng đế
thì cười (2003). Sau này, khi những tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị
Hoài, Hồ Anh Thái, Phan Thị Vàng Anh... ra đời, màu sắc hậu hiện đại được thể
hiện đậm nét hơn trong nền văn học nước ta.
Từ thực tiễn của đời sống văn học ấy, đã có những tác động tích cực đến thơ
sau 1986. Dấu ấn hậu hiện đại đã đi vào trong các sáng tác thơ của nhiều tác giả
17
mới như Nguyễn Đăng Thường, Hoàng Hưng, Lê Thị Thấm Vân, Nguyễn Tôn Hiệt,
Vũ Thành Sơn, Nguyễn Hoàng Nam, Nguyễn Hoàng Tranh, Như Huy, Đặng Thân,
Đinh Linh, Trần Wũ Khang, Inrasara, Lê Vĩnh Tài, Nguyễn Thế Hoàng Linh,...
Những cây bút này đã thể hiện sự nỗ lực không ngừng, khát khao bứt phá, mong
muốn được làm mới mình. Có nhiều nhà thơ trong số đó đã chịu ảnh hưởng kỹ thuật
viết hậu hiện đại. Cùng với sự phát triển kinh tế- xã hội và tiếp nhận có chọn lọc các
luồng tư tưởng từ nước ngoài, đời sống văn hóa xã hội nước ta theo đó thay đổi
mạnh mẽ. Thực tế, nền thơ ca Việt Nam luôn vận động không ngừng. Thơ hậu hiện
đại vì thế không thể thiếu trong tiến trình vận động ấy. Nó góp phần làm phong phú
cho nền thơ ca nước nhà trong thời kì hội nhập toàn cầu. Theo Inrasara trong bài:
“Hậu hiện đại và thơ hậu hiện đại: Một phác họa”, ông cho rằng: “Bùi Giáng là
nhà thơ đầu tiên sáng tác theo cảm thức hậu hiện đại, hoặc gần như thế.” Irasara
diễn giải cho ý kiến này và chứng minh thơ Bùi Giáng độc và lạ ở lối sử dụng ngôn
từ “Có khi bài thơ chỉ là một chuỗi liên hệ âm, thanh, vần, phép nói lái trong ngôn
ngữ nối tiếp hoặc chồng chéo lên nhau, lồng vào nhau như thể một ma trận chữ vô
nghĩa; rồi cả chuỗi hình ảnh, ý nghĩ dẫm đạp lên nhau, xô đẩy, nhảy cóc rối tù mù.
Bùi Thy Sỹ điên chữ là vậy. Tất cả nói lên điều gì? Ngôn ngữ không thể khám phá
ra cái gì cả! Và làm thơ như thể là một nhập cuộc vào trò đùa bất tận, trò đùa
qua/trong/với sự bất lực đến tận cùng của ngôn ngữ. Ở đó, thi sĩ phó thác mình cho
ngôn ngữ thao túng, dồi tung”[53].Cho nên thơ Bùi Giáng, là sự vượt mặt về ngôn
ngữ và ý nghĩa của chúng. Điều đó đồng nghĩa với việc người tiếp nhận cũng có
những cơ sở để đề xuất cách hiểu của mình. Từ Bùi Giáng, thơ hậu hiện đại Việt
Nam bắt đầu có những bước đi đầu tiên. Đến giai đoạn sau này, xu hướng sáng tác
theo tinh thần hậu hiện đại được ghi dấu trong nhiều sáng tác của các cây bút như
Lê Đạt, Trần Dần, Thanh Thảo, Hoàng Hưng, Mai Văn Phấn ... Công cuộc đổi mới
năm 1986, tư duy cuộc sống thay đổi đã mở ra chân trời mới cho thơ ca. Tư tưởng
tự do dân chủ giúp nhiều nhà thơ thể hiện cá tính của mình. Họ sống thật với cảm
xúc và không ngần ngại nhìn thẳng vào đời sống trần trụi. Thơ hậu hiện đại Việt
Nam là “thơ phản tỉnh mang tính phê phán hiện thực, thực tế đất nước và thực trạng
văn chương”[51]. Theo ý kiến của Inrasara nhà thơ hậu hiện đại chối bỏ mọi dạng
18
đại tự sự bằng cách hiệu quả nhất là giải thiêng sự thể. Giải thiêng để có cơ hội nhìn
nhận thực tại bằng một cảm thức khác. Mang tư tưởng tự do, nhà thơ hậu hiện đại
luôn có tiếng nói phản biện xã hội đương thời, bóc trần sự mê hoặc mà thông tin đại
chúng muốn tác động vào xã hội. Đồng thời, thơ hậu hiện đại tự thân mang ý hướng
phi tâm hóa, xóa bỏ mọi sự phân biệt trong đội ngũ sáng tác. Do vậy, đội ngũ sáng
tác thơ hậu hiện đại lúc này xuất hiện những gương mặt nữ có cá tính riêng mạnh
mẽ như Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh, Lê Thị Thấm Vân. Với những hình thức
và phương tiện khác nhau, họ sáng tạo nên các phong cách, các bộ mặt, các giọng
điệu khác nhau. Xu hướng đổi mới thơ triệt để, từ hình thức cho đến nội dung theo
hướng hậu hiện đại, đây là xu hướng hậu hiện đại toàn diện và “có ý thức”. Có thể
kể đến một số cây bút trong xu hướng này như Khế Iêm, Trần Tuấn, Inrasara, Bùi
Chát, Lý Đợi, Phan Bá Thọ, Đặng Thân… đặc biệt là thơ Tân hình thức, thơ văn
xuôi, kịch đường phố, thơ trình diễn…Tuy nhiên, những sáng tác của họ đa phần
mới chỉ dừng lại ở mức những thể nghiệm ban đầu và chưa thực sự dấn thân vì nó.
Hàng loạt những cách tân khiến cho bộ mặt thơ hậu hiện đại nói riêng và nền thơ ca
đương đại Việt Nam nói chung càng thêm phong phú. Nhìn nhận một cách khách
quan tinh thần hậu hiện đại trong thơ Việt Nam đã thể hiện được cảm quan của thời
đại với những phương thức biểu hiện đầy mới mẻ. Tuy nhiên, trong quá trình mãi
mê đi tìm cái mới, một số cây bút sa đà, nhầm tưởng hậu hiện đại là phá cách là
khác người nên họ sử dụng từ ngữ tục tĩu, nỗi loạn...mà không chú ý đến truyền
thống văn hóa của dân tộc. Việc thúc đẩy tính hiện đại mới mẻ trong thơ không đơn
thuần là chạy theo mốt thời thượng mà người nghệ sĩ phải biết chọn lọc, thể hiện
đúng tinh thần của thời đại. Đảm bảo tính cá nhân nhưng đồng thời vẫn giữ được
bản chất thuần khiết, chức năng thẩm mỹ của thơ ca.
Trong một thế giới toàn cầu hóa như hiện nay, người nghệ sĩ sẽ có cơ hội
lựa chọn nhiều cách để trình bày tư tưởng của mình. Từ đội ngũ sáng tác mới, nền
văn học nước nhà có cơ hội quảng bá văn chương Việt ra nước ngoài. Vấn đề này
có ý nghĩa hết sức quan trọng bởi nó không chỉ tác động đến cách thế giới nhìn
nhận bản sắc văn hoá Việt ra sao mà còn khơi dậy niềm tự hào về thành tựu văn học
của dân tộc và nó gián tiếp thúc đẩy kinh tế mạnh mẽ trong lĩnh vực du lịch - ngành
19
được mệnh danh là “công nghiệp không khói”. Hiện nay nhiều quốc gia trên thế
giới đã khai thác hiệu quả những thành tựu văn chương trong quảng bá đất nước
con người để thu hút khách du lịch, thậm chí là thu hút cả những nhà đầu tư nước
ngoài. Điều đáng mừng là, trong công cuộc đổi mới này, tuy chúng ta đang đi sau
thời đại nhưng không phải là một khoảng cách quá xa. Một phần lớn lợi thế đó là
nhờ công lao tiếp nhận lý thuyết hậu hiện đại vào Việt Nam khá hiệu quả. Thách
thức vẫn còn ở phía trước, bởi công cuộc hiện đại hóa lần thứ nhất đã để lại quá
nhiều thành tựu (Thơ Mới, văn xuôi lãng mạn, văn xuôi hiện thực…). Đòi hỏi công
cuộc đổi mới thời nay cần cố gắng rất nhiều để hoàn thiện nền văn chương dân tộc.
Đúng như nhận định của Inrasara: “Nếu không tiếp nhận ngay từ hôm nay, tôi e
rằng chúng ta tiếp tục chương trình làm kẻ trễ tàu thời đại” [51]. Mặc dù mang lại
nhiều thành tựu, nhưng các tác phẩm thuộc xu hướng này mới chỉ dừng lại ở dạng
mang “yếu tố”, “dấu ấn” hậu hiện đại, chứ chưa thể hoàn toàn xem đó là các sáng
tác mang đầy đủ diện mạo và bản chất của chủ nghĩa hậu hiện đại. Cũng chính bởi
lý do này, nên mới có sự tranh luận, nghi ngờ diễn ra thường xuyên ở những năm
qua trong giới phê bình, nghiên cứu văn học Việt Nam về việc phân định và xác
định các tác phẩm, tác giả hậu hiện đại. Trong chỉ hơn hai mươi năm, vừa tiến hành
tiếp thu lý thuyết, vừa triển khai ứng dụng vào sáng tác, lại phải vừa tiến hành việc
tiếp thu và ứng dụng nhiều hệ hình lý thuyết văn học khác, có thể nói văn học theo
xu hướng hậu hiện đại Việt Nam đã có những thành tựu nổi bật, không thể không
tính đến trong phê bình nghiên cứu văn học. Mặc dù vẫn còn nhiều tiếng nói e ngại,
nhiều cái nhìn phiến diện, những sự rụt rè và hoài nghi về hệ hình lý thuyết văn học
này, nhưng không thể phủ nhận rằng, những năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ
XXI, hậu hiện đại là một trong những tiêu ngữ mang lại nhiều nguồn cảm hứng và
sự quan tâm nhất của cả giới sáng tác và nghiên cứu - phê bình văn học ở Việt Nam.
Dù muốn hay không, nền văn học Việt Nam vẫn không thể chối từ cái khí quyển
chung của thời đại, chính vì vậy, tuy còn nhiều bất cập, nhưng hậu hiện đại vẫn là
giai đoạn phát triển mang tính tất yếu trong văn học nước nhà. Từ sự nhận thức đó,
thơ Việt Nam trên hành trình dấn bước theo con đường hậu hiện đại, còn vấp phải
nhiều chông gai. Đó là ý thức giữa việc bảo tồn bản sắc hay lai căng mất gốc, đổi
20
mới triệt để hay kế thừa cơ bản. Vấn đề này phụ thuộc rất lớn vào người sáng tác,
sự tương tác của đọc giả và cả giới phê bình nghiên cứu.
1.2.1. Hoàng Hưng - hành trình sáng tác và cách tân thơ
Nhà thơ Hoàng Hưng tên thật là Hoàng Thụy Hưng, sinh ngày 24/11/1942
tại thị xã Hưng Yên. Ông tốt nghiệp khoa Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội
năm 1965. Ông từng làm nhà giáo, phóng viên, biên tập viên Báo Người Giáo viên
Nhân dân thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo; nguyên Trưởng ban Văn hoá-Văn nghệ
Báo Lao động; làm thơ, dịch sách.
Về sáng tác, ông đã xuất bản các tập thơ Đất nắng (in chung với Trang Nghị,
1970), Ngựa biển (1988), Người đi tìm mặt (1994), Hành trình (2005) và nhiều bài
viết, bài nói chuyện, tiểu luận, nghiên cứu, trên báo, tạp chí, đài phát thanh trong và
ngoài nước. Một số bài thơ đã được dịch và in tại Pháp, Mỹ, Canada, Đức,
Hungary, Hà Lan...
Ông đã tham gia dịch và làm chủ biên 100 bài thơ tình thế giới (1988), Thơ
Federico Garcia Lorca (1988), Thơ Pasternak (cùng dịch với Nguyễn Đức Dương,
1988), Thơ Apollinaire (1997), Các nhà thơ Pháp cuối thế kỷ XX (2002), 15 nhà
thơ Mỹ thế kỷ XX (cùng dịch, tổ chức bản thảo, 2004), Mowgli- Người sói (1988,
1989, 1999), Người đàn bà lạ lùng (1990), Từ điển Bách khoa Oxford cho thiếu
niên (chủ biên, sắp ra mắt)...
Hoàng Hưng là một người có tấm lòng yêu nước và muốn cống hiến hết
mình cho đất nước. Ông đã từng tình nguyện lên Tây Bắc tham gia phục vụ quân
đội khi tuổi đời còn rất trẻ. Sau khi tốt nghiệp đại học, ông trở thành nhà giáo.
Trong vòng 08 năm (1965- 1973) ông được biết đến vừa với tư cách là một nhà giáo
vừa là nhà thơ có tiếng nhất nhì ở cảng Hải Phòng. Sau này ông tình nguyện vào
miền Nam phục vụ trong mặt trận văn hóa nghệ thuật. Là một người giàu lòng nhân
ái, rất tâm huyết với công việc nên ông được bạn bè, đồng nghiệp đánh giá rất cao.
Mặc dù cuộc sống không mấy dư giả với đồng lương công chức nhưng với tinh thần
đầy nhiệt huyết Hoàng Hưng đã cho ra đời tập thơ đầu tay “Đất nắng” in năm
1970. Tập thơ thể hiện những tình cảm trong sáng, nhẹ nhàng của một trí thức đầy
đam mê nhiệt huyết.
21