Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Phân tích đối thủ cạnh tranh ngân hàng ACB

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.25 KB, 9 trang )

PHÂN TICH ĐÔỈ THÙ CẠNH TRANH
1.1. VỊ THẾ CỦA ACB TRONG NGÀNH NGÂN HÀNG.
ACB là ngân hàng có quy mô tổng tài sản, vốn huy động, dư nợ cho vay và lợi
nhuận lớn nhất trong các NHTMCP Việt Nam (xin xem bảng dưới đây).
BẢNG SO SÁNH MỘT SỐ CHỈ TIÊU CÁC NHTMCP
ĐVT: triệu đồng
Chỉ tiêu ACB Sacombank Eximbank NH Đông Á
Tổng tài sản 24.272.864 14.456.182 11.369.233 8.515.912
Vốn huy động 22.341.236 12.271.905 10.309.077 7.320.507
Dư nợ cho vay 9.563.198 8.379.335 6.427.689 5.947.768
Lợi nhuận trước thuế TNDN 391.550 306.054 28.557 138.446
Nguồn: Công khai báo cáo tài chính của các ngân hàng trên báo Tài chính ngân hàng
Tại Việt Nam, đến tháng 8/2006 có năm NHTMNN, hai ngân hàng chính sách
(Ngân hàng Chính sách Xã hội và Ngân hàng Phát triển Việt Nam), 37 NHTMCP,
năm ngân hàng liên doanh, 29 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 45 văn phòng đại
diện của các định chế tín dụng nước ngoài và hệ thống hơn 900 quỹ tín dụng nhân
dân, bảy công ty tài chính. Số lượng như vậy có thể xem là khá nhiều so với qui mô
nền kinh tế Việt Nam. Do vậy sự cạnh tranh của các ngân hàng sẽ rất mạnh, nhất là
trong giai đoạn Việt Nam đang hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Đến cuối năm 2005, bốn NHTM lớn của Nhà nước ước tính chiếm khoảng 80% vốn
huy động và 70% dư nợ cho vay toàn thị trường. Các NHTM còn lại và các ngân
hàng nước ngoài chia sẻ 20% thị phần huy động vốn và 30% thị phần cho vay còn
lại. Điều này thể hiện thị trường ngân hàng có độ tập trung cao vào các NHTMNN.
Tuy nhiên so trong nội bộ hệ thống NHTMCP, ACB là ngân hàng dẫn đầu về tổng
tài sản, vốn huy động và cho vay. Huy động vốn của ACB đến cuối năm 2005
chiếm khoảng 3,5% thị phần toàn ngành ngân hàng, cho vay chiếm thị phần 1,72%.
Trong hệ thống NHTMCP, ACB chiếm thị phần huy động vốn là 19,28% và thị
phần cho vay là 12,11% đến cuối năm 2005. Với tốc độ tăng trưởng cao về huy
động vốn và dư nợ cho vay liên tục trong hai năm 2004, 2005 và 9 tháng đầu năm
2006, ACB đang tạo khoảng cách xa dần với các đối thủ cạnh tranh chính trong hệ
thống NHTMCP về qui mô tổng tài sản, vốn huy động, dư nợ cho vay và lợi nhuận.


II.Sử dụng mô hình Porter để đánh giá năng lực cạnh tranh của
NHTM Á Châu (ACB)
Ngân hàng là một lĩnh vực kinh doanh đặc biệt. Sản phẩm của ngân
hàng có đặc điểm riêng và hoàn toàn khác biệt so với những lĩnh vực kinh
doanh khác, đó là: sản phẩm của ngân hàng là sản phẩm vô hình, phi vật
chất, không có sự tách biệt giữa bốn quá trình sản xuất – phân phối – trao
đổi – tiêu thụ và không ổn định, khó xác định về chất lượng. Các nhân tố
ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của ngân hàng cũng mang đặc tính riêng
nhưng đều tuân theo mô hình năm nhân tố của Porter.
2.1. Khách hàng:
Năm 2009, Ngân hàng Á Châu vừa chính thức được Asiamoney – một
tạp chí danh tiếng hàng đầu về các giải thưởng uy tín trong các lĩnh vực
ngân hàng đầu tư và ngân hàng thương mai – trao tặng giải thưởng “Ngân
hàng tốt nhất Việt Nam năm 2009” dựa trên các tiêu chí: sức mạnh tài chính,
năng lực quản trị điều hành của ban lãnh đạo và uy tín của thương hiệu trên
thị trường.
Qua 16 năm xây dựng và phát triển, ACB đã khẳng định được vị thế
là ngân hàng thương mại bán lẻ lớn nhất Việt Nam với lượng khách hàng
lớn thứ 5 trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, với thị phần huy động tiết
kiệm chiếm 10% trong hệ thống và 57% thị phần chủ thẻ tín dụng quốc tế,
chiếm phần lớn thị phần chuyển tiền nhanh Western Union tại Việt Nam.
Khách hàng của ACB bao gồm cả khách hàng cá nhân và khách hàng
doanh nghiệp với trên 200 sản phẩm dịch vụ cung cấp. Tuy nhiên, khách
hàng cá nhân đang là đối tượng, mục tiêu mà ACB đang hướng đến phục vụ
với chất lượng dịch tốt nhất trong hoạt động. Cạnh tranh trên thị trường tài
chính trở nên gay gắt trong những năm gần đây vì thế để thực hiện mục tiêu
trở thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu Việt Nam, ACB đã xây dựng chiến
lược phát triển theo mô hình bán lẻ, tập trung phục vụ, cung cấp các giải
pháp tài chính toàn diện cho đối tượng khách hàng cá nhân. Đây cũng là lý
do để ACB hình thành đội ngũ tư vấn tài chính cá nhân nhằm thực hiện

chiến lược trở thành ngân hàng của mọi nhà.
Người dân Việt Nam đang dần tạo lập thói quen mở tài khoản và chi
tiêu cho mua sắm nên cơ hội của thị trường ngân hàng bán lẻ ở Việt Nam rất
tiềm năng, vì vậy, việc triển khai đội ngũ tư vấn tài chính cá nhân là hết sức
cần thiết, rút ngắn khoảng cách giữa ngân hàng và khách hàng. Đó là lý do
mà trong 5 năm liên tiếp Ngân hàng ACB được khách hàng bình chọn là
ngân hàng tốt nhất.
Lượng khách hàng đông đảo sẽ tạo nên uy tín thương hiệu cho ngân
hàng nhưng cũng là một áp lực lớn cho ngân hàng khi mà rủi ro “thụt két” sẽ
xảy ra bất kỳ lúc nào. Tình huống này đã xảy ra với Ngân hàng ACB vào hồi
tháng 10/2003 khi một số tin đồn cho biết tổng giám đốc của ACB đã lạm
dụng công quỹ, “thụt két” hết số tiền trong ngân hàng rồi bỏ chạy. Tâm lý lo
ngại dấy lên trong một số khách hàng. Thông tin được truyền tai nhau nhanh
chóng và nhân viên ngân hàng phải làm việc tới quá nửa đêm để phục vụ
nhu cầu rút tiền của lượng người đổ xô đến rút tiền. Tình trạng này chỉ được
giải quyết khi có sự can thiệp của ngân hàng nhà nước và sự ra mặt của tổng
giám đốc Ngân hàng ACB.
Như vậy, mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng sẽ tạo ra uy tín
thương hiệu nhưng cũng tạo nên áp lực cho ngân hàng.
2.2. Nhà cung cấp:
- Cũng như các ngân hàng khác NCC cho ACB chính là mọi người
dân, doanh nghiệp, các TCTC và chính phủ trong đó chủ yếu là dân cư và
doanh nghiệp. Như vậy số lượng nhà cung cấp là rất lớn.
- Tuy nhiên, với số lượng NH lớn như hiện nay cộng với việc cập nhật
thông tin về các sản phẩm dịch vụ của NH là rất nhanh chóng, dễ dàng và độ
co giãn so với giá của NCC là tương đối lớn nên các NCC sẽ có xu hướng
tìm đến NH trả giá (lãi suất huy động) cao nhất.
- Thêm vào đó, cơn sốt chứng kh oán đang tạo ra sự luân chuyển vốn
rất lớn trên thị trường tài chính, trong đó một phần vốn gửi tiết kiệm ngân
hàng (NH) của dân cư đang được rút ra để đầu tư vào chứng khoán khiến

việc huy động vốn của các NH gặp nhiều khó khăn, nhất là ở các TP lớn.
Công tác huy động vốn của không ít NH thâm chí chỉ trông chờ vào mạng
lưới chi nhánh ở các tỉnh.
- Các NCC ngày càng khó tính và đang mất dần đi sự “trung thành”
với các NH như trước đây khi các cơ hội đầu tư sinh lời cao hơn đang ngày
một nhiều trong khi tốc độ cải thiện chất lượng, giá cả và mức độ đa dạng
các loại hình dịch vụ chưa đáp ứng được phần lớn yêu cầu của dân cư,
doanh nghiệp.
2.3. Sản phẩm thay thế:
Ngân hàng ACB là tổ chức tín dụng cung cấp hầu hết các dịch vụ
ngân hàng truyền thống như: tiết kiệm, dịch vụ thanh toán, dịch vụ chuyển
khoản, đầu tư, tín dụng…. và một số các dịch vụ hiện đại như: Phone
banking, Western Union, Banking Online, Séc… Tuy nhiên khách hàng vẫn
có nhiều sự lựa chọn với các sản phẩm khác thay thế như:
- Về lĩnh vực cho vay : các tổ chức phi tài chính như các công ty tài
chính, cho thuê tài chính, bảo hiểm…hiện nay cũng đang chú trọng đến
nghiệp vụ cho vay với chất lượng và độ chuyên sâu ngày càng cao đang tạo
ra nguy cơ thay thế lớn cho các sản phẩm của NH.
Vào cuối năm 2009 khi các NH thương mại "đóng cửa" với nhu cầu
vay dịch vụ tiêu dùng thì một số công ty tài chính lại đang mời gọi khách
hàng. Công ty tài chính Prudential có những sản phẩm như vay mua nhà,
vay tiêu dùng cá nhân, vay hỗ trợ mua sắm, thậm chí cho vay vốn khởi
nghiệp, dù rủi ro về thu hồi nợ cao. Một công ty tài chính nước ngoài khác
cũng đang thu hút khách hàng vay với mức vay gấp chín lần mức lương
hàng tháng. Vấn đề nằm ở lãi suất, trung bình khoảng 24%- 26%/năm nếu
tính theo dư nợ giảm dần; nếu tính theo số dư nợ ban đầu thì lãi suất cũng từ
14%-15%/năm. Chưa kể, để nhận tiền vay, công ty còn trừ một khoản phí
gọi là phí bảo hiểm rủi ro cho hợp đồng vay,có thể lên đến vài triệu đồng
cho một hợp đồng vay.
Theo giám đốc của một NH thương mại, các công ty tài chính cho vay

theo quyết định của ban điều hành công ty, không bị khống chế mức trần lãi
suất, nên có quyền cho vay lãi suất cao - một hình thức cho vay nặng lãi, đẩy
NH vào tình thế bất lợi trước sự cạnh tranh từ các tổ chức tài chính này
- Về lĩnh vực huy động vốn và các dịch vụ khác:
+ Tiết kiệm thông qua dịch vụ bảo hiểm: đây là một hình thức tiết
kiệm khá an toàn và đầu tư hiệu quả. Khách hàng có thể sinh lời từ khoản
tiền bảo hiểm nếu rủi ro không xảy ra nhưng cũng có thể tiết kiệm, giảm
thiểu tối đa rủi ro do số tiền bồi thường được chi trả. Hơn thế nữa, chi phí để
sử dụng sản phẩm thay thế này khá rẻ và tính năng cũng thuận tiện.
+ Đầu tư vào thị trường chứng khoán và các hình thức đầu tư khác:
đây là hình thức đầu tư có rủi ro cao hơn so với việc gửi tiền để hưởng lãi

×