Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Chien thuat chua chay may bay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (900.36 KB, 13 trang )

CHIẾN THUẬT CHỮA CHÁY MÁY BAY Ở SÂN BAY

I. ĐẶC ĐIỂM LIÊN QUAN ĐẾN CHỮA CHÁY

1. Nhận thức chung về máy bay
Máy bay là phương tiện vận tải hàng không, nó được ra đời cách đây khoảng 100
năm. Kể từ khi động cơ xăng xuất hiện cũng phải sau 5 năm nghiên cứu, chế tạo vào
ngày 17/12/1903, tại Kitty HaWk bang Bắc Carolina (Mỹ), chiếc máy bay Flyer dài 37 m
làm bằng phương pháp thủ công với vật liệu chủ yếu gỗ và vải, được lắp động cơ xăng
12 mã lực của hai anh em nhà Wright đã bay được quãng đường dài 259 m trong khoảng
thời gian 59 giây. Sự kiện đó được coi như là dấu mốc mở đầu cho lịch sử hàng không
hiện đại. Con người bắt đầu bay lên không trung bằng “vật nặng hơn không khí có lắp
động cơ”. Ngày nay, máy bay đã trở thành loại phương tiện giao thông hàng không thuận
tiện trong công tác ngoại giao, thương mại, du lịch an ninh quốc phòng… và ngày càng
phát triển trên mọi phương diện.

Mô hình một máy bay chở khách

Ở Việt Nam 64 năm qua đã chứng kiến sự lớn mạnh không ngừng của ngành
hàng không dân dụng kể từ khi tiếp quản sân bay Gia Lâm từ tay người Pháp. Hơn
40 năm xây dựng, đổi mới và phát triển, Hàng không dân dụng Việt Nam ngày nay
là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước và Hãng hàng không
Quốc gia Việt Nam đang trở thành một trong những hãng hàng không có tầm cỡ
trong khu vực. Trong những năm gần đây đã đạt mức tăng trưởng bình quân là 30
%/năm, nhiều chuyến bay quốc tế quan trọng được bổ sung, mạng đường bay trong
nước cũng ngày càng mở rộng với nhiều điểm đến mới.
Theo địa hình của nước ta mạng cảng hàng không - sân bay được tạo thành
ba trục, lấy các cảng hàng không - sân bay quốc tế làm trung tâm.
Ở miền Bắc có Cụm cảng hàng không - sân bay miền Bắc lấy sân bay Quốc
tế Nội Bài làm trung tâm và các sân bay địa phương như Cát Bi, Điện Biên, Nà
Sản, Vinh, Đồng Hới.




Ở miền Trung có cụm cảng hàng không - sân bay miền Trung lấy sân bay
Quốc tế Đà Nẵng làm trung tâm và các sân bay địa phương như: Phú Bài, Phù Cát,
Nha Trang, Plêicu.
Ở miền Nam có cụm cảng hàng không - sân bay miền Nam lấy sân bay
Quốc tế Tân Sơn Nhất làm trung tâm và các sân bay địa phương như: Vũng Tàu,
Liên Khương, Cam Ly, Cần Thơ, Rạch Giá, Phú Quốc, Côn Sơn, Lâm Đồng, Gia
Lai, Con Tum, Đắk Lắk...
Về phân loại: Máy bay thường được phân loại theo kiểu động cơ, tải trọng
và tính chất, mục đích sử dụng.
Theo kiểu động cơ, máy bay được phân làm hai loại:
- Loại động cơ cánh quạt, ví dụ: IL-2, AN-2...
- Động cơ phản lực gồm: Động cơ tuôcbin phản lực ví dụ: I L-62, TU-144,
Boeing 737, 747, 767, 777, Ebơx... và động cơ tuôcbin cánh quạt ví dụ: IL-18,
AN-10,...
Theo kiểu tải trọng, máy bay được phân làm bốn loại:
- Loại I: Máy bay có trọng tải trên 60 tấn, ví dụ: AN-10, IL-18, các loại
Boeing 737, 747, 767, 777 ...
- Loại II: Máy bay có trọng tải từ (20 - 60) tấn, ví dụ: IL-12, TU-144.
- Loại III: Máy bay có trọng tải từ (5 - 20) tấn, ví dụ: IL-2, AN-2.
- Loại VI: Máy bay có trọng tải dưới 5 tấn, ví dụ: YAK-12, YAK-18, YAK-24.
Theo tính chất, mục đích sử dụng, máy bay được phân làm ba loại gồm:
Máy bay chở khách, máy bay vận tải, máy bay chiến đấu.
2. Đặc điểm cấu tạo của máy bay
Các loại máy bay được cấu thành từ một số bộ phận chính như: Thân, cánh,
càng, đuôi máy bay.


- Thân máy bay: Tác dụng để chứa hành khách, hàng hoá, thiết bị vật tư. Ở

máy bay chiến đấu, thân còn là nơi đặt động cơ chất đốt.
Thân máy bay là bộ phận cơ bản, là trung tâm liên kết các bộ phận khác tạo
thành chiếc máy bay hoàn chỉnh. Thân máy bay được chia thành nhiều phần: Thân
trước, thân trước cánh, thân trung tâm và thân sau. Hình dạng của thân phụ thuộc
vào tốc độ bay của từng loại. Máy bay có tốc độ chậm hơn vận tốc âm thanh thì
thân rộng, mũi tù, tròn. Máy bay siêu âm tốc độ nhanh hơn vận tốc âm thanh thì có
thân nhỏ thon, mũi nhọn. Chiều dài thân của các kiểu máy bay khác nhau, nó có
thể dài từ (9 - 76) m. Chiều rộng của thân từ (2 - 7) m. Tiết diện ngang của thân
thường có dạng hình tròn hay bầu dục được ngăn làm hai khoang gồm khoang
buồng lái và khoang chở hành khách (hay hàng hoá). Khoang chở hành khách chia
làm hai tầng, tầng trên để hành lý, tầng dưới là các dãy ghế ngồi. Loại máy bay
Airbus A380-900 có thể chở được 900 hành khách, máy bay Boeing 747 - 400 có
thể chở được 624 hành khách, máy bay Boeing 777 - 200 có thể chở được 440
hành khách, máy bay Boeing 767 - 300ER chở được 197 hành khách, loại IL – 96 300 chở được 235 hành khách.
Trên thân máy bay có hai cửa chính và (4 - 8) cửa phòng chống sự cố. Độ
cao từ mặt đất đến cửa chính (1 - 5,5) m. Đối với loại máy bay chở khách, nếu bỏ
ghế ngồi sẽ trở thành máy bay vận tải và khi đó, khoang chở khách trở thành
khoang chứa hàng hoá. Vỏ ngoài của thân là lớp vỏ bọc băng đuya-ra, phía trong là
những lớp cách nhiệt và cách âm. Trong cùng là lớp trang trí bằng gỗ dán hay chất
dẻo.
- Cánh máy bay dùng để tạo lực nâng, giữ thăng bằng. Cánh còn mang theo
động cơ, càng máy bay. Ở máy bay chiến đấu, cánh còn mang theo tên lửa, bom


đạn, thùng nhiên liệu. Đối với máy bay chở khách, máy bay vận tải ở cánh có các
khoang chứa nhiên liệu biệt lập. Nếu sự cố hỏng khoang chứa nhiên liệu này thì
không ảnh hưởng đến khoang chứa nhiên liệu khác. Lớp vỏ bọc ở cánh cũng giống
như ở thân tạo thành "buồng kín" cho máy bay. Sải cánh máy bay dài từ (15 - 60)
m.
Càng máy bay có gắn các bánh xe chạy đà khi cất cánh, chạy giảm đà khi hạ

cánh, hoặc để dịch chuyển từ chỗ này sang chỗ khác trong khu vực sân bay. Mỗi
càng có từ (1 - 2) bánh xe hay nhiều hơn tuỳ thuộc vào loại trọng tải máy bay. Đĩa
quay bánh xe của càng chế tạo từ hợp kim Magiê, càng tự động thu vào và thả
xuống nhờ hệ thống thuỷ lực và động cơ điện của máy phát.
- Đuôi máy bay bao gồm đuôi ngang và đuôi đứng đều có phần cố định và
phần dao động điều khiển được. Đuôi đứng có tấm định hướng đứng và bánh lái
hướng: Rẽ trái, rẽ phải và lượn vòng.
Đuôi ngang có tấm ổn định ngang và các bánh lái lên xuống, ở máy bay
chiến đấu có vận tốc bay lớn nên đuôi còn chứa dù hãm.
Ngoài ra, ở máy bay còn có một số hệ thống như nhiên liệu, điện, báo cháy
và chữa cháy:
- Đối với hệ thống nhiên liệu của máy bay cần phải đảm bảo tuyệt đối an
toàn vì động cơ của máy bay đều sử dụng xăng, dầu với số lượng rất lớn khi bay
các chuyến bay ra ngoài nước. Hệ thống này gồm các thùng, khoang chứa nhiên
liệu, đường ống dẫn từ thùng, khoang chứa đến động cơ;
- Hệ thống điện trong máy bay rất phức tạp, bất kỳ bộ phận nào của máy bay
cũng phải sử dụng điện: Điện để thắp sáng, điều hoà nhiệt độ, tủ lạnh, cung cấp
cho thông tin liên lạc... công suất tới hàng trăm KW, ở máy bay hiện đại nếu nối tất
cả dây dẫn của mạng điện được một chiều dài tổng cộng là 150 km;
- Hệ thống báo cháy và chữa cháy của các máy bay hiện đại, ở mỗi hộp động
cơ, buồng dễ cháy thông thường có lắp các đầu báo cháy tự động và hệ thống chữa
cháy tự động bằng khí cacbonic được nối về trung tâm cho tổ lái biết. Ở các
khoang hành khách còn trang bị các loại bình chữa cháy xách tay để chủ động chữa
cháy các đám cháy nhỏ mới xảy ra.
3. Tình hình cháy của máy bay
Đến nay ở nước ta có nhiều tuyến bay trong nước vận tải hàng hoá, chuyên
chở hành khách và nhiều tuyến bay quốc tế nhằm mở rộng quan hệ ngoại giao,
kinh tế, du lịch... Tuy là phương tiện kỹ thuật hiện đại song quá trình sử dụng máy
bay vẫn thường xuyên xảy ra tai nạn như sự cố hỏng động cơ, xảy ra cháy, đặc biệt
khi cất cánh hoặc khi hạ cánh.



Theo thông báo của Tổ chức hàng không dân dụng Quốc tế gọi tắt là ICAO,
tình hình tai nạn máy bay (cháy hoặc không cháy) được phân tích như sau:
- Số vụ xảy ra khi hạ cánh: 40 %
- Số vụ xảy ra khi cất cánh: 20 %
- Số vụ xảy ra khi chạy trên đường băng: 15 %
- Số vụ xảy ra khi đỗ ở sân bay: 10 %
- Số vụ xảy ra khi đang bay: 15 %
Từ các số liệu trên thấy rằng có 85 % số vụ xảy ra ở khu vực sân bay nhất là
khi máy bay cất cánh, hạ cánh, chạy trên đường băng hay đang đỗ ở sân bay. Theo
thống kê của ngành hàng không, ở nước ta cháy hay sự cố máy bay ở các sân bay
hàng năm xảy ra khoảng 30 vụ do nhiều nguyên nhân khác nhau. Một số vụ cháy
điển hình như sau:
- Vụ cháy máy bay Boeing 737 ngày 20/08/2007 của hãng hàng không
Trung Quốc, ngay sau khi hạ cánh xuống đảo Okinawa ở miền Nam Nhật Bản. Rất
may tất cả 157 hành khách và phi hành đoàn 8 người đều kịp thoát ra khỏi máy bay
bằng cửa phòng chống sự cố và chỉ có 1 người bị thương.
Khói đen bốc lên và ngọn lửa bùng cháy ngay sau khi cứu người. Lực lượng
chữa cháy đó phun chất chữa cháy dập tắt đám cháy trong vũng 1 tiếng đồng hồ,
chưa rừ nguyên nhân tai nạn, nhưng các cơ quan chức năng đó loại bỏ đây là hành
động tấn công khủng bố.

Vụ cháy máy bay của hãng hàng không Trung Quốc

- Sáng 23/3/2009, một chiếc máy bay chở hàng của Tập đoàn Federal
Express đó phải hạ cánh khẩn cấp rồi bốc cháy tại Sân bay Quốc tế Narita, miền
đông Tôkyô Nhật Bản. Vì chiếc máy bay gặp một cơn gió mạnh tới 72 km/giờ khi
đang bay. Một phi công và phụ lái là người Mỹ ở độ tuổi tứ tuần đều được xác
định là đó thiệt mạng sau khi được cứu ra khỏi chiếc máy bay gặp nạn. Chiếc máy

bay thân lớn, ba động cơ này nghiêng sang một bên ngay sau khi tiếp đất trong


điều kiện gió mạnh. Sau đó, cánh bên trái của máy bay đó quệt đất ở tốc độ lớn,
ngọn lửa bắt đầu bùng cháy. Sau đây là chùm ảnh máy bay bị cháy:

Hình ảnh máy bay bị cháy ở Nhật Bản

- Ngày 05/5/2019 xảy ra cháy máy bay Sukhoi Superjet 100 của hãng
Aeroflot khi hạ cánh khẩn cấp xuống sân bay Sheremetyevo của Nga. Vụ cháy đã
làm 41 hàng khách thiệt mạng và có 37 hành khách may mắn sống sót trong vụ tai
nạn. Nguyên nhân là do máy bay bị sét đánh, cơ trưởng phải điều khiển máy bay
hạ cánh khẩn cấp, tuy nhiên cơ trưởng điều khiển máy bay lao xuống đất, máy bay
trượt trên đường băng, tạo thành lực mạnh làm vỡ thân máy bay, khiến lửa bùng
lên ở động cơ và nơi chưa nghiên liệu.

Hình ảnh cháy máy bay ở Nga


- Ngày 29/3/2020, xảy ra cháy máy bay y tế mang biển số RP-C5880 khởi
hành từ sân bay quốc tế Ninoy Aquino của Philippines làm 8 người thiệt mạng.
Trước khi lên được khỏi đường băng, chiếc máy bay đã bốc cháy, chạy vượt quá
đường băng. Ngọn lửa lớn đã bốc lên từ vỏ máy bay bị hư hại. Lực lượng chữa
cháy đã mất 1 tiếng đồng hồ để dập tắt đám cháy. Chiếc máy bay chở 8 người, bao
gồm 3 nhân viên y tế, 3 phi hành đoàn, 1 bệnh nhân, 1 người đi cùng và tất cả đều
thiệt mạng.

Hinh ảnh cháy máy bay ở Philippines
II. ĐẶC ĐIỂM VÀ DIỄN BIẾN ĐÁM CHÁY


Trên cơ sở, căn cứ vào phân loại, cấu tạo của tính chất đặc điểm có liên quan
đến chiến thuật chữa cháy máy bay, chất cháy chủ yếu là khối lượng nhiên liệu
trong các bình, khoang chứa, các chất cháy trong buồng hành khách, khoang chở
hàng hoá và hợp kim Magiê. Đám cháy phát triển nhanh theo hệ thống đường ống
dẫn nhiên liệu, song đặc điểm cháy máy bay phụ thuộc vào kiểu, loại máy bay,
chất cháy, số lượng nhiên liệu, vị trí phát sinh cháy.
Đám cháy xảy ra ở động cơ máy bay làm cho nhiệt độ của khoang tăng
nhanh, chỉ sau (2 - 3) phút nhiệt độ đạt (300 - 400) 0C có thể truyền nhiệt, dẫn nhiệt
qua vách ngăn cháy để cháy sang các ngăn, khoang chứa nhiên liệu nếu động cơ
máy bay đặt ở cánh. Khi đó diễn biến đám cháy sẽ phát triển nhanh hơn, dữ dội
hơn và tạo sản phẩm cháy nhiều. Từ đây đám cháy lan sang thân máy bay khi hệ
thống nhiên liệu bị phá huỷ dẫn đến đám cháy ngoài máy bay do nhiên liệu chảy
xuống sân ga, có thể cháy lan sang các máy bay lân cận đang đỗ ở sân ga hay đang
bảo dưỡng trong gara do bức xạ nhiệt của ngọn lửa.
Đám cháy xảy ra trong thân máy bay chủ yếu ở khoang hành khách và
khoang chứa hàng hóa. Cháy ở khoang hàng hóa phát triển với tốc độ không lớn
lắm vì sự trao đổi khí không thuận lợi, sản phẩm cháy không hoàn toàn nên gây
độc hại cho lực lượng tham gia cứu chữa. Nhưng cháy từ khoang hàng hóa vẫn có
thể nhanh chóng lan sang các khoang, bộ phận khác của máy bay. Khoang hành


khách vì có các vật liệu dễ cháy như vật liệu cách âm, chất dẻo, gỗ dán, đệm mút
ghế ngồi,... Hơn nữa nhờ có hệ thống thông gió cho nên so với đám cháy ở khoang
chứa hàng hoá thì đám cháy ở đây phát triển nhanh hơn. Tuy nhiên ở khoang hành
khách khi cháy vẫn tạo ra các sản phẩm cháy không hoàn toàn ảnh hưởng độc hại
trực tiếp đế tính mạng của hành khách. Chỉ sau (1- 2) phút, nồng độ khí ôxitcacbon
và đioxitcacbon vượt quá giới hạn nồng độ cho phép đối với sự sống con người. ở
phút thứ ba, nhiệt độ trong khoang hành khách đạt tới 300 0C và cao hơn.
Đám cháy xảy ra ở càng máy bay thường xuất hiện khi hạ cánh hay cất cánh
do tải trọng của máy bay quá lớn. Tốc độ trên đường băng khi hạ cánh hay lấy đà

cất cánh sẽ tạo ra một lực tác động trực tiếp vào các bánh lốp, lực ma sát giữa bánh
lốp và đường băng lớn ấy sinh nhiệt dẫn đến cháy lốp. Hơn nữa đĩa quay của bánh
xe bằng hợp kim Magiê có nhiệt độ bốc cháy 550 0C cho nên rất có thể vị trí phát
sinh cháy từ bộ phận càng máy bay do hợp kim magiê bị sinh nhiệt và bốc cháy.
Cháy sẽ gây hư hỏng hệ thống phanh hãm làm cho dầu phanh chảy xuống mặt sân
ga, đường băng bê tông sẽ tạo ra đám cháy có diện tích lớn hơn phát triển rộng hơn
và từ đây đám cháy cháy lan vào các bộ phận của máy bay như thân, cánh, hay các
máy bay đỗ lân cận...
Ngoài ra khi nạp nhiên liệu trên sân ga hay hệ thống nhiên liệu trên máy bay
có thể bị các dạng sự cố: Rò rỉ, chảy tràn, do bị tĩnh điện... có thể gây ra đám cháy
lớn phức tạp và phát triển rất nhanh trên diện tích rộng hàng ngàn mét vuông. Chỉ
sau 2 - 3 phút, ngọn lửa có thể bao trùm toàn bộ máy bay, khi ấy nhiệt độ trong
thân máy bay đạt tới 400 0C và cao hơn gây rất khó khăn cho việc tổ chức cứu
người, tài sản và chữa cháy.
Nói tóm lại khi cháy máy bay, dưới ảnh hưởng tác động nhiệt của các đám
cháy sẽ làm biến dạng cấu trúc và dễ bị kẹt các cửa chính, cửa phụ, cửa phòng
chống sự cố của máy bay. Thông thường chỉ sau 5 phút xảy ra cháy, hợp kim
Magiê nóng chảy, bốc cháy và toả nhiệt lớn. Sau 6 phút làm rạn nứt thân máy bay.
Sau 8 phút máy bay bị phá huỷ nặng và 17 phút sau khi cháy, máy bay bị bốc cháy
hoàn toàn, nếu không kịp thời phun nước làm mát và tổ chức cứu chữa. Quá trình
cháy diễn ra có thể tạo thành hỗn hợp nguy hiểm nổ của xăng, dầu hay nổ các bình
chứa khí Ôxy. Đối với máy bay chiến đấu có chứa bom đạn, tên lửa nếu cháy xảy
ra cần hết sức chú ý bảo toàn lực lượng, phương tiện, bảo vệ các máy bay lân cận ở
trong sân ga, gara...
III. TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG CHỮA CHÁY

Công ước năm 1970 của ICAO quy định rất ngặt nghèo và chặt chẽ cho
phép như sau:



- Thời gian chữa cháy tối đa là 03 phút (kể từ khi xe chữa cháy đầu tiên
phun chất chữa cháy vào đám cháy cho đến khi đám cháy bị dập tắt).
- Thời gian khống chế được 90 % đám cháy là 01 phút.
- Thời gian dập tắt hoàn toàn đám cháy là 02 phút.
- Thời gian cứu người là 1,5 phút.
- Cho phép rút ngắn thời gian chữa cháy bằng cách phun chất chữa cháy với
cường độ tối đa.
1. Trinh sát đám cháy
Các đám cháy xảy ra trên máy bay chở khách, máy bay vận tải hàng hoá khi
đỗ trong sân ga hết sức phức tạp đòi hỏi phải tổ chức trinh sát đám cháy. Thông
qua trinh sát đám cháy sẽ giúp cho chỉ huy chữa cháy quyết định đúng chiến, kỹ
thuật chữa cháy và đạt hiệu quả chữa cháy cao nhất.
Thành phần của tổ trinh sát trong đó có cán bộ (phụ trách kỹ thuật, vận tải
hàng hóa,...) của máy bay bị cháy ở nhà ga trong sân bay. Nội dung trinh sát các
đám cháy máy bay bao gồm: xác định số lượng hành khách còn trong máy bay,
khả năng và lối thoát nạn cho họ ra nơi an toàn. Xác định số lượng, chủng loại
hàng hoá, vật tư có trên máy bay, khả năng sơ tán, hướng lan truyền ngọn lửa và
ngăn chặn cháy lan. Hướng triển khai lực lượng, phương tiện tốt nhất để tập trung
phun chất chữa cháy vào gốc lửa. Khả năng sơ tán và cứu chữa máy bay chưa bị
cháy ở sân ga, gara. Khả năng hoạt động của hệ thống chữa cháy có trên máy bay.
2. Cứu người bị nạn
Song song với việc tổ chức dập tắt đám cháy máy bay, phải nhanh chóng cứu
người. Trước hết tổ chức phun nước làm mát cho các lối thoát nạn ở các cửa chính lên
xuống, cửa phòng sự cố ở cánh. Nếu các cửa này bị kẹt có thể mở lối thoát nóc hoặc
sử dụng cưa máy của xe chữa cháy sân bay cưa thân máy bay ở những chỗ đánh dấu
sơn màu vàng sẫm bên ngoài.
Tổ chức đưa các cầu thang di động, thang ba tầng, ôtô có mui (xe tải, xe buýt) đỗ
sát vào cánh về phía đầu chiều gió để tránh lửa, khói đe doạ và vận dụng các phương
pháp, biện pháp cứu người bị nạn trong đám cháy để cứu nguy cho hành khách bị kẹt
lại trong máy bay như: Hướng dẫn họ xuống bằng ống cứu sinh, hướng dẫn họ thoát ra

bằng cầu thang di động, xuống từ các cửa chính của máy bay trèo lên thùng xe tải, nóc
xe buýt... Thời gian cho phép cứu người là 1,5 phút. Các phương tiện cứu nạn (xe các
loại) phải chọn vị trí đỗ cho phù hợp với hướng gió, độ dốc, nơi phát sinh cháy để
không bị lửa đe doạ gây cháy lan (xem mục 92 cấp cứu và chống cháy của phụ lục số
14 - công ước quốc tế của ICAO 1983).


3. Các phương pháp và biện pháp dập tắt đám cháy máy bay
* Phương pháp và biện pháp chữa cháy khi biết trước sự cố: Trường hợp khi
máy bay đang hạ cánh xảy ra cháy phải trực tiếp liên lạc bằng vô tuyến điện hoặc
qua đài chỉ huy ở mặt đất để theo dõi nắm tình hình về loại máy bay hạ cánh, số
hành khách, lượng hàng hoá có trên máy bay, nhiên liệu còn lại, tình trạng càng và
tính chất sự cố.
Các lực lượng tham gia chữa cháy, đội PCCC sân bay hay lực lượng cảnh
sát PCCC chuyên nghiệp đưa xe chữa cháy thường trực sẵn ở 2/3 chiều dài đường
băng tính từ phía đầu máy bay hạ cánh xuống. Chuẩn bị lực lượng, phương tiện
chữa cháy và cứu người hoặc huy động các xe chữa cháy trải thảm bọt rộng 20 m,
cao 0,5 m dọc theo toàn bộ 1/3 chiều dài đường băng còn lại để chữa cháy kịp thời
nếu sự cố và cháy xảy ra ở càng máy bay.
* Các phương pháp và biện pháp chữa cháy động cơ máy bay
Để đảm bảo chữa cháy đám cháy động cơ có hiệu quả và thuận lợi cho việc
khắc phục, sửa chữa bảo dưỡng động cơ máy bay, cần phải sử dụng khí cacbonic
hay hỗn hợp hoá lỏng Metylbrômua (CH3Br) phun vào lỗ thoáng phia trước, phía
sau hay cùng phun vào cả hai phía nếu thây khói thoát ra. Thông thường chỉ sử
dụng 40 lít khí cacbonic hay 50 lít Metylbrômua lỏng phun vào là đám cháy ở
động cơ có thể được dập tắt. Nếu không đủ hai loại chất chữa cháy kể trên thì sử
dụng bọt prôtêin.
Bên ngoài vỏ máy bay và càng cần phải phun nước làm mát. Sau (1 - 2)
phút, mở nắp động cơ để thông gió. Nếu khi cháy động cơ vẫn làm việc mà không
tắt máy hay khoá đường ống dẫn nhiên liệu được thì cho phép sử dụng bọt hoà

không khí hay nước phun vào cách quạt để dừng máy rồi tiếp tục phun chất chữa
cháy dập tắt đám cháy ở động cơ.
* Các phương pháp và biện pháp chữa cháy trong thân máy bay
Đối với khoang chứa hàng hoá, tốc độ cháy phát triển chậm, sản phẩm cháy
không hoàn toàn vì thế cần mở hai cửa chính và mở bốn cửa phòng chống sự cố
trên cánh để thông gió, thoát khói lên phía trên tạo điều kiện thuận lợi cho các
chiến sỹ cầm lăng phun chất chữa cháy vào đám cháy. Sử dụng chất chữa cháy là
nước và các lăng B phun nước vào đám cháy với áp suất máy bơm (5 - 7) at. Có
thể sử dụng kèm cả lăng A phun sục vào các kiện hàng, thùng hàng. Khi sử dụng
nước chữa cháy có thể pha thêm dung dịch tạo bọt để tăng độ thẩm thấu và hiệu
quả chữa cháy. Cường độ phun nước và dung dịch bọt để dập tắt đám cháy trong
khoang chứa hàng hoá ở thân máy bay không hạn chế.


Đối với khoang hành khách, vì cháy các vật liệu dễ cháy như vật liệu cách
âm, chất dẻo, gỗ dán, đệm mút và các lớp trang trí nên chất chữa cháy chủ yếu vẫn
là nước. Sử dụng lăng B, lăng hương sen phun phân tán (có biện pháp thoát khói
như chữa cháy ở khoang hàng hoá). Cường độ phun nước để chữa cháy khoang
hành khách là (0,06 - 0,08) l/m2.s. Cũng có thể sử dụng bọt hoà không khí để chữa
cháy theo thể tích bằng cách sử dụng lăng liên hoàn (lăng cá sấu) của xe
Rosenbauer, xe Titan, xe Iveco, xe Camiva… phun bọt vào đám cháy qua các cửa
phòng chống sự cố trên thân máy bay. Cần tính toán đủ lượng chất tạo bọt và
lượng nước để pha dung dịch bọt. Quá trình chữa cháy phải tổ chức lực lượng,
phương tiện phun nước làm mát toàn bộ phần vỏ bên ngoài máy bay. Nếu cháy lan
ra đến vỏ máy bay thì sử dụng các lăng A, lăng giá phun tia nước đặc, cường độ
phun nước chữa cháy từ (0,25 - 0,3) l/m2.s.
* Các phương pháp và biện pháp chữa cháy càng máy bay
Khi chữa cháy càng máy bay, nếu cháy bánh lốp cao su, đĩa quay hợp kim
Magiê, dầu phanh thì sử dụng nước để chữa cháy. Triển khai đội hình lăng A, lăng
giá phun tia nước mạnh quét đám cháy trên càng, bánh lốp hất ra bên ngoài chúng

sẽ tự tắt. Chú ý hợp kim Magiê cháy có khói trắng toả ra nên khi phun nước vào nó
sẽ tạo ra tiếng nổ lách tách và bắn ra các mảnh kim loại cháy. Vì thế các chiến sỹ
trực tiếp cầm lăng chiến đấu phải mặc quần áo chống nóng đứng cách xa càng máy
bay từ (6 - 8) m đề phòng hệ thống phanh dầu bị vỡ, dầu bắn ra. áp suất máy bơm
chữa cháy (6 - 8) át. Ngoài ra khi chữa cháy cao su, dầu phanh sử dụng bọt hoà
không khí phun bao phủ toàn bộ diện tích đám cháy để chữa cháy cũng rất tốt.
Trường hợp cháy máy bay khi hệ thống nhiên liệu bị sự cố hoặc khi nạp
nhiên liệu ở sân ga. Phải khẩn trương sử dụng các lăng giá, lăng liên hoàn phun
nước làm mát cho toàn bộ máy bay bị cháy. Triển khai đội hình phun bọt hoà
không khí của các xe chữa cháy có công suất lớn như xe Rosenbauer, xe Titan, xe
Iveco, xe Camiva... bằng các lăng liên hoàn phun phủ kín phạm vi diện tích đám
cháy trên sân ga. Tập trung và huy động toàn bộ lực lượng, phương tiện của đội
PCCC sân bay để tổ chức khống chế và dập tắt đám cháy trong thời gian ngắn nhất
là 03 phút.
* Chữa cháy máy bay ở trong gara, trong xưởng bảo dưỡng kỹ thuật sử dụng
lăng B, lăng giá phun với cường độ (0,18 - 0,2) l/m2.s. Đồng thời tiến hành phun
nước làm mát các cấu kiện xây dựng và mái để tránh chúng bị biến dạng, mất khả
năng chịu lực và sụp đổ. Nếu cần sử dụng các dụng cụ, phương tiện phá dỡ mái
thoát khói tạo điều kiện cho lực lượng tham gia chữa cháy tiếp cận dập tắt đám
cháy. ở sân ga cũng như trong gara phải tổ chức di chuyển những máy bay chưa bị
cháy ra nơi an toàn. Đồng thời tìm mọi biện pháp để sử dụng các loại xe ôtô kéo


xoay máy bay làm cho ngọn lửa hắt ra phía ngoài để hạn chế cháy lan và thuận lợi
cho việc cứu chữa.
4. Các biện pháp kỹ thuật an toàn
Để đảm bảo an toàn khi chữa cháy máy bay, cần trang bị mặt nạ phòng độc
cho cán bộ trinh sát, cứu người và quần áo chống nóng cho cán bộ, chiến sỹ trực
tiếp cầm lăng chiến đấu. Các phương tiện kỹ thuật phục vụ công tác cứu người
phải đảm bảo chắc chắn, sẵn sàng khi có lệnh cần thiết.

Chữa cháy các bình chứa nhiên liệu trên máy bay bị sự cố cháy, phải hết sức
chú ý đề phòng nguy hiểm nổ, phun nước làm mát, khi đủ chất tạo bọt thì sử dụng
lăng phun bọt trên xe chữa cháy phun dập tắt đám cháy. Các chiếnỹ trực tiếp chiến
đấu có biện pháp làm mát bảo vệ.
Khi chữa cháy các loại máy bay chiến đấu có mang theo bom đạn phải hết
sức thận trọng không nóng vội để đảm bảo tuyệt đối an toàn cho lực lượng,
phương tiện tham gia chữa cháy.
IV. NHỮNG LƯU Ý KHI TỔ CHỨC CHỮA CHÁY
1. Cháy máy bay có những đặc điểm sau:
- Chất cháy chủ yếu là khối lượng nhiên liệu trong các bình chứa, các chất
cháy trong buồng hành khách, khoang chở hàng và hợp kim ma giê. Đám cháy
phát triển nhanh theo hệ thống dẫn nhiên liệu.
- Cháy máy bay thường dẫn đến các cửa bị kẹt. Việc cứu hành khách và tổ
lái gặp nhiều khó khăn.
- Máy bay có thể bị cháy tại sân bay, xưởng sửa chữa và có khi phải hạ cánh
xuống một địa điểm bất kỳ trên đường bay. Trường hợp bị cháy ngoài khu vực sân
bay, đường xe chữa cháy đến đám cháy có thể gặp.
2. Khi chữa cháy máy bay ở sân bay người chỉ huy có nhiệm vụ:
- Phải tìm mọi cách khẩn trương cứu hành khách và tổ lái ra khỏi máy bay:
+ Tập trung dập tắt đám cháy trên các thùng nhiên liệu, khu vực cửa thoát
nạn và làm mát toàn bộ thân máy bay (dùng bọt hoà không khí hoặc tia nước đặc
có áp suất lớn).
+Tổ chức phá, cắt các cửa kính cửa thoát nạn hoặc tạo cửa mới để cứu người
(dùng cưa, búa trên xe chuyên dùng).
- Phun bọt hoà không khí vào khoang động cơ, buồng lái, buồng hành khách
dập tắc các đám cháy có khả năng lan theo chất cách nhiệt hệ thống thông gió).


- Nếu điều kiện cho phép, phải tìm cách dùng xe kéo xoay máy bay hợp với
hướng gió thổi, làm cho ngọn lửa hắt ra ngoài hạn chế cháy lan.

- Khi cháy máy bay đang để trên bãi, phải nhanh chóng dùng nước làm mát
các máy bay bên cạnh, di chuyển các máy bay chữa cháy đến nơi an toàn.
- Khi chữa đám cháy trên càng, bánh máy bay dùng tia nước đặc áp suất từ 5
đến 7 át để rửa trôi hợp chất ma giê trên bề mặt đang cháy.
3. Khi chữa cháy máy bay đang sửa chữa trong xưởng phải dùng lăng A
phun nước bảo vệ tường và các cấu kiện chịu lực của nhà xưởng. Dùng các phương
tiện kéo, dắt sơ tán máy bay ra ngoài.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×