Nội dung
Chương 1. Tình hình chung ngành điện
1. Tổng quan ngành điện tại Việt Nam
tại Việt Nam
Hình 1: Các giai đoạn phát triển của ngành Điện
•
Giai đoạn 1954-1975: Từ chiến tranh đến thống nhất đất nước
Đây là thời kỳ Đế quốc Mỹ đánh phá miền Bắc, các cơ sở điện lực là những mục
tiêu trọng điểm và phải chịu nhiều tổn thất. Nhằm mục tiêu phục vụ tái thiết đất nước,
Cơ quan quản lý nhà nước đầu tiên chuyên trách lĩnh vực điện là Cục điện lực trực
thuộc Bộ công thương được thành lập, đồng thời xây dựng 2 nhà máy Uông Bí (nhiệt
điện) và Thác Bà (thủy điện), góp phần tăng năng suất nguồn điện toàn quốc từ 31.5
MW lên 1326 MW, tăng gần 42 lần.
•
Giai đoạn 1976-1994: Khôi phục và xây dựng nền tảng
Ngành điện tập trung phát huy nội lực phát triển nguồn, lưới điện theo quy hoạch,
từng bước đáp ứng đủ nhu cầu điện cho sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước. Việc
xây dựng và đi vào hoạt động của các nhà máy nhiệt điện và thủy điện ở cả 2 miền
Bắc, Nam đã giúp tạo bước ngoặt cả về lượng và chất trong cung cấp điện. (ví dụ: nhà
máy Nhiệt điện Phả Lại với tổng công suất 400MW, nhà máy Thủy điện Hòa Bình với
tổng công suất 1.920MW, …). Cùng với đó, hàng loạt đường dây và trạm biến áp 220
kV, 110 kV cũng được xây dựng và đưa vào vận hành. Đặc biệt, việc hoàn thành
1
đường dây 500 kV Bắc - Nam với tổng chiều dài 1487 km đã mở ra thời kỳ mới cho hệ
thống điện thống nhất trên toàn quốc.
•
Giai đoạn 1995 - 2002: Hoàn thiện và phát triển
Đây là giai đoạn đất nước bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ngành
điện cũng được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn đi đầu, đóng vai trò quan trọng,
tạo nền tảng cho các ngành công nghiệp khác. Ngày 27/1/1995, Chính phủ ban hành
Nghị định số 14/NĐ- CP thành lập Tổng công ty Điện lực Việt Nam (EVN) là đơn vị
điều hành toàn bộ công việc của ngành Điện. Ngành Điện chính thức có bước ngoặt,
chuyển đổi sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Trong giai đoạn này, nhiều công trình trọng điểm đã được xây dựng và đưa vào vận
hành như Nhà máy Thủy điện Yaly (720MW), Nhà máy thủy điện Hàm Thuận -Đa mi
(475 MW), đặc biệt là trung tâm Điện lực Phú Mỹ (trên 2000MW),... Mạng lưới
truyền tải điện cũng được nâng cấp với hàng ngàn km đường dây.
•
Giai đoạn 2003 - nay: Tái cơ cấu
Từ năm 2003 đến nay, ngành công nghiệp điện đã được tổ chức lại nhiều lần nhằm
đảm bảo vận hành thống nhất và ổn định hệ thống điện trong cả nước, EVN cũng trở
thành tập đoàn có vai trò chủ chốt trong đầu tư, phát triển cơ cấu hạ tầng điện. Khối
lượng đầu tư xây dựng trong giai đoạn này lên đến 505.010 tỷ đồng, chiếm 7,14% tổng
đầu tư cả nước.
Ngày 03/12/2004, Luật Điện lực ra đời đã tạo ra hành lang pháp lý cho hoạt động
điện lực, nâng cao tính minh bạch, công bằng cho các bên tham gia hoạt động lĩnh vực
điện
Ngày 26/01/2006, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quyết định số 26/2006/ QĐTTg về lộ trình, các điều kiện hình thành, phát triển các cấp độ thị trường điện tại Việt
nam. Qua đó, EVN và các ban ngành liên quan đang triển khai tái cơ cấu ngành điện
theo hướng từng bước thị trường hóa ngành điện để đảm bảo cung cấp điện cho người
dân với giá cả và chất lượng tốt nhất.
Đến cuối năm 2014, 100% số huyện trên cả nước có điện lưới và điện tại chỗ,
99,59% số xã với 98,22% số hộ dân có điện lưới, hầu hết đồng bào vùng sâu vùng xa
cũng đã được sử dụng điện: khu vực các tỉnh Tây nguyên đạt 100% về số xã và
95,17% về số hộ dân, Khu vực Tây Nam Bộ là 100% và 95,71%,....
2
2. Vai trò của Ngành điện tại Việt Nam
2.1. Đối với đời sống người dân
Điện là nguồn nhân lực góp phần nâng cao đời sống con người, nâng cao dân trí
và trình độ văn hóa giáo dục. Điện góp phần làm tăng phúc lợi của con người thông
qua hệ thống chiếu sáng vào ban đêm, giúp con người có thể tiến hành các công việc
học tập, vui chơi, sản xuất về đêm, góp phần gia tăng sản lượng trong các nền kinh tế
và tăng thu nhập cho người dân. Đồng thời hệ thống chiếu sáng ban đêm cũng có tác
động không nhỏ đến hoạt động giao thông vận tải và quản lý an ninh quốc phòng.
Thay đổi to lớn nhất mà điện mang lại cho đời sống người dân chính là nếp
sống sinh hoạt và các phương tiện sử dụng trong gia đình. Thực tế sự ra đời của các đồ
dùng điện như nồi cơm điện, tủ lạnh, máy giặt, điều hòa,... đã mang đến những thay
đổi đáng kể trong chất lượng sống. Ngoài ra, việc phát triển của các công cụ truyền
thông đại chúng góp phần giúp con người nắm bắt nhanh được những kiến thức khoa
học hiện đại , áp dụng chúng vào đời sống.
Có thể thấy rằng, điện vừa mang đến giá trị vật chất, vừa mang đến giá trị tinh
thần, góp phần cải thiện đời sống ở mọi mặt.
2.2. Đối với phát triển kinh tế
Thực hiện phương châm “điện đi trước một bước”, ngành điện đã góp phần
chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, phục hồi và tăng trưởng kinh tế, đảm bảo quốc phòng
an ninh.
Trong thời đại ngày nay, khi loài người bước sang kỷ nguyên của khoa học
công nghệ thì nhu cầu về năng lượng nói chung và năng lượng điện nói riêng ngày
càng cao. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới và khu vực cho thấy bất kỳ quốc gia
nào trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế thì tốc độ phát triển của ngành
năng lượng nói chung và ngành điện nói riêng luôn cao hơn các ngành khác. Điện lực
có thể nói rằng là ngành quyết định nhịp độ phát triển của toàn bộ nền kinh tế, vì thế
Điện luôn được đòi hỏi phải đi trước một bước để làm tiền đề phát triển, làm động lực
thúc đẩy kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ và toàn diện. Ngành điện đã có công to lớn và
đóng vai trò không thể thiếu trong sự phát triển của đất nước.
a. Đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp
3
Đặc điểm của ngành nông nghiệp Việt Nam là phụ thuộc lớn vào nguồn nước.
Việc đưa điện vào phục vụ cung cấp nước và tưới tiêu đã giúp mở rộng đất canh tác
mà vẫn đảm bảo được việc cung cấp nước kịp thời, ổn định. Ngoài bơm nước tưới tiêu,
điện còn giúp các hộ nông dân giảm bớt thời gian và công sức lao động nhờ sử dụng
các công cụ nhỏ gọn. Trước kia, khi chưa có các loại máy móc, hầu như các hoạt động
nông nghiệp đều dựa vào sức người hoặc sức trâu bò, chế phẩm cũng được bảo quản
một cách thô sơ. Nhưng nhờ vào hỗ trợ của các thiết bị điện, các chế phẩm cũng được
bảo quản tốt hơn và đem lại giá trị kinh tế cao hơn.
b. Đối với hoạt động sản xuất công nghiệp
Có thể khẳng định rằng không một ngành công nghiệp nào, không một hoạt
động công nghiệp nào mà không cần sử dụng đến điện. Theo số liệu thống kê của Bộ
Kế hoạch và đầu tư, điện dùng cho sản xuất công nghiệp chiếm 46% sản lượng điện
toàn quốc năm 1990 (2846,6 triệu kWh), năm 2000 là 37% (8145 triệu kWh), do đó có
thể thấy rằng điện đóng vai trò vô cùng quan trọng,đóng vai trò quyết định hàng đầu
tới kết quả của hoạt động công nghiệp.
3. Cơ cấu ngành điện Việt Nam
3.1. Cơ cấu theo nhóm nhà máy điện
Các nhà máy sản xuất điện ở Việt Nam tập trung vào ba nhóm chính: thủy điện,
nhiệt điện chạy than, và nhiệt điện chạy khí.
Về cơ cấu công suất của ba nhóm nhà máy. nhóm thủy điện có tổng công suất
lớn nhất (17.022 MW), theo sau là nhiệt điện than (12.705 MW) và nhiệt điện khí
(7.684 MW).
Về cơ cấu sản lượng, nhóm nhiệt điện than có sản lượng điện cao nhất trong
10T.2016 ( 54,7 tỷ kWh – 37,1% tổng sản lượng điện toàn ngành). Theo sau là thủy
điện (52,4 tỷ kWh – 35,5% tổng sản lượng toàn ngành) và nhiệt điện khí (38,5 tỷ kWh
– 26% tổng sản lượng điện toàn ngành). Sản lượng điện theo từng nhóm nhà máy
không hoàn toàn tỷ lệ thuận với công suất do các nhà máy thủy điện chỉ hoạt động khi
nước về nên số giờ chạy thấp hơn so với các nhà máy nhiệt điện. Biểu đồ sau đây thể
hiện sự thay đổi về cơ cấu sản lượng điện và công suất của từng nhóm nhà máy giữa
năm 2015 và 2016.
4
Hình 2: Tỷ trọng sản lượng và công suất điện theo từng nhà máy
3.2. Cơ cấu theo địa lý
Xét về vị trí địa lý, tổng công suất của các nhà máy điện tính tới tháng 11/2016
tại miền Bắc là 15.516 MW, miền Trung là 9.275 MW và miền Nam là 15.455 MW.
Thủy điện chiếm tỷ trọng lớn về công suất ở cả ba miền. Các nhà máy nhiệt than
chiếm khoảng 50% về công suất tại miền Bắc và miền Trung và khoảng 15% tại miền
Nam. Trong khi đó, các nhà máy nhiệt khí chỉ nằm tại miền Nam, tận dụng nguồn khí
tự nhiên từ các bể khí phía Nam của biển Đông. Nhóm nhà máy nhiệt khí có tỷ trọng
lớn nhất về công suất tại miền Nam, chiếm khoảng 50% tổng công suất phát điện.
5
Hình 3:Cơ cấu công suất phát điện theo nhóm nhà máy và vị trí địa lý
3.3. Theo cách thức tổ chức ngành điện
Ngành điện Việt Nam là một hệ thống khép kín giữa các khâu: (1) Phát điện, (2)
Điều độ, truyền tải, (3) Phân phối, bán lẻ để có thể đưa điện từ nơi sản xuất (các nhà
máy thủy điện, nhiệt điện…) đến được với người sử dụng điện (các hộ công nghiệp,
văn phòng, dân dụng,…).
Ngành Điện được tổ chức theo cơ chế độc quyền liên kết dọc truyền .Dưới đây
là sơ đồ cơ cấu tổ chức của ngành điện trước năm 2008, có thể thấy rằng EVN tham
gia vào tất cả các khâu và chiếm tỷ trọng lớn ở cả 3 khâu phát điện, truyền tải, phân
phối và bán lẻ. Đặc biệt là chiếm 100% ở 2 khâu truyền tải, phân phối và bán lẻ.
6
Hình 4: Cơ cấu tổ chức ngành điện trước năm 2008
Ngày 01/06/2012, Bộ Công Thương đã ra quyết định thành lập 03 Tổng Công
ty Phát điện (GENCO 1, 2, 3) hoạt động theo hình thức Công ty mẹ - Công ty con, trực
thuộc EVN trên cơ sở tổ chức, sắp xếp lại các Công ty TNHH MTV, các Công ty Phát
điện hạch toán phụ thuộc, các Ban QLDA nguồn điện và tiếp nhận quyền đại diện vốn
Nhà nước tại một số Công ty phát điện đang hoạt động. Đây cũng là bước đầu cho việc
tái cơ cấu lại tổ chức ngành Điện, giúp ngành Điện trở nên minh bạch hơn.
Việc tiến hành tái cơ cấu đã khiến ngành điện trở nên cạnh tranh hơn, tuy nhiên
chủ yếu mới chỉ ở khâu phát điện, còn truyền tải , phân phối và bán lẻ, EVN vẫn chiếm
tỷ trọng 100%. Điều này vẫn chưa mang lại được lợi ích cho người tiêu dùng.
7
Hình 5: Cơ cấu tổ chức ngành điện từ năm 2013
8
Chương 2.
Tác động của độc quyền trong phân phối ngành điện tại Việt
Nam
1. Tình hình phân phối ngành điện
Ngành điện Việt Nam là một hệ thống khép kín giữa các khâu: (1) Phát điện, (2)
Điều độ, truyền tải, (3) Phân phối, bán lẻ để có thể đưa điện từ nơi sản xuất (các nhà
máy thủy điện, nhiệt điện…) đến được với người sử dụng điện (các hộ công nghiệp,
văn phòng, dân dụng,…). Trước năm 2008, ngành Điện được tổ chức theo cơ chế độc
quyền liên kết dọc truyền thống với sự góp mặt của EVN ở tất cả các khâu, đặc biệt là
độc quyền 100% ở khâu truyền tải, phân phối và bán lẻ.
Tuy vậy, vào năm 2006 Thủ tướng chính phủ đã ra quyết định số 26/2006/QĐ-TTg
với mục đích “từng bước phát triển thị trường điện lực cạnh tranh một cách ổn định,
xóa bỏ bao cấp trong ngành điện, tăng quyền lựa chọn nhà cung cấp điện cho khách
hàng sử dụng điện” bằng việc tái cơ cấu ngành điện, định hướng thị trường điện lực tại
Việt Nam được hình thành và phát triển qua 3 cấp độ:
•
Cấp độ 1 (2005 - 2014): thị trường phát điện cạnh tranh.
•
Cấp độ 2 (2015 - 2022): thị trường bán buôn điện cạnh tranh.
•
Cấp độ 3 (từ sau 2022): thị trường bán lẻ điện cạnh tranh.
Mỗi cấp độ được thực hiện theo hai bước: thí điểm và hoàn chỉnh, cụ thể như sau:
•
Bước 1 - cấp độ 1: thị trường phát điện cạnh tranh thí điểm (từ năm 2005 đến
năm 2008).
- Thực hiện thị trường phát điện cạnh tranh giữa các nhà máy điện thuộc Tổng công ty
Điện lực Việt Nam (EVN) để thí điểm cạnh tranh trong khâu phát điện theo mô hình
một đơn vị mua duy nhất. Các nhà máy điện, các công ty truyền tải điện, các công ty
phân phối điện thuộc EVN sẽ được tổ chức lại dưới dạng các công ty độc lập về hạch
toán kinh doanh.
- Các công ty phát điện độc lập (IPP) không thuộc sở hữu của EVN tiếp tục bán điện
cho EVN theo các hợp đồng mua bán điện dài hạn (PPA) đã được ký kết.
- Kết thúc bước thí điểm, các nhà máy điện lớn có vai trò quan trọng trong hệ thống
điện hiện đang thuộc EVN phải được chuyển đổi thành các đơn vị phát điện độc lập
9
IPP (Independent Power Producer) dưới dạng các công ty nhà nước độc lập; các nhà
máy điện còn lại phải được chuyển đổi thành các đơn vị phát điện độc lập dưới dạng
các công ty cổ phần để chuẩn bị cho thị trường phát điện cạnh tranh hoàn chỉnh.
- Bộ Công nghiệp ban hành các quy định điều tiết các hoạt động của thị trường và
hướng dẫn thực hiện.
•
Bước 2 - cấp độ 1: thị trường phát điện cạnh tranh hoàn chỉnh (từ năm 2009 đến
năm 2014).
- Thực hiện thị trường phát điện cạnh tranh hoàn chỉnh sau khi các điều kiện tiên quyết
cho bước này đã được đáp ứng.
- Cho phép các nhà máy điện độc lập (IPP) không thuộc sở hữu của EVN tham gia
chào giá để bắt đầu thị trường phát điện cạnh tranh hoàn chỉnh (theo mô hình một
người mua duy nhất); các đơn vị phát điện sẽ bán điện lên thị trường thông qua các
hợp đồng PPA và chào giá cạnh tranh trên thị trường giao ngay với tỷ lệ điện năng mua
bán theo hai hình thức của từng đơn vị do Cục Điều tiết điện lực quy định. (Nguồn:
Quyết định 26/2006/QĐ-TTg)
Như vậy, sau hai năm kể từ quyết định 26/2006/QĐ-TTg, Ngành Điện Việt Nam
bắt đầu có những thay đổi theo hướng tích cực. EVN từng bước tách các phòng ban
của mình thành các Tổng Công ty chuyên trách cho từng lĩnh vực nhằm nâng cao hiệu
quả và chuẩn bị cho công tác vận hành thị trường điện.
Hình 6: Quá trinh tái cơ cấu ngành điện
Theo đó, chỉ riêng trong khâu phân phối điện, khối phân phối thuộc EVN sẽ được
tổ chức lại dưới các công ty độc lập về hạch toán kinh doanh. Năm 2010, 05 Tổng
Công ty Điện lực (TCTĐL) thuộc EVN là TCTĐL Miền Bắc, Miền Trung, Miền Nam,
10
Tp.HCM và Hà Nội được thành lập trên cơ sở tổ chức lại 11 Công ty Điện lực hiện có
nhằm chuẩn bị cho việc thực hiện thí điểm thị trường phát điện cạnh tranh. Việc thành
lập các TCTĐL hạch toán độc lập giúp cho mỗi TCTĐL có định hướng riêng với đặc
thù từng miền, từng thành phố và từng bước thống nhất hơn về mô hình tổ chức, cơ
chế hoạt động của các Công ty điện lực trực thuộc. Nhờ đó, về cơ bản năng lực hoạt
động của các đơn vị này cũng được cải thiện, đã cung cấp đủ nhu cầu điện phục vụ cho
phát triển kinh tế - xã hội qua nhiều năm.
Năm 2016, các chỉ số tin cậy cung cấp điện được cải thiện rõ rệt, tổng thời gian
mất điện bình quân của một khách hàng trong năm (SAIDI) là 1,651 phút/khách
hàng/năm
( giảm 27,6% so với năm 2015), tần suất mất điện kéo dài bình quân (SAIFI) là 10,6
lần/Khách hàng ( giảm 21% so với năm 2015) và tần suất mất điện thoáng qua bình
quân (MAIFI) là 1,51 lần/khách hàng ( giảm 21% so với năm 2015). Tuy nhiên, nhìn
chung độ tin cậy của hệ thống cung cấp điện vẫn còn khá thấp nếu so với các nước
trong khu vực. Điển hình như SAIDI tương ứng ở Malaysia chỉ là 63,32 phút/khách
hàng/năm hay Singapore với 0,31 phút/khách hàng/năm (độ tin cậy 99,9%). Tổng tài
sản của EVN cũng tăng rõ rệt qua các năm và đã đạt được con số 692.216.834 triệu
VNĐ năm 2016. tăng gần 8% so với năm 2015)
Hình 7: Tài sản Tập đoàn điện lực Việt Nam
11
(Nguồn: Tập Đoàn Điện Lực Việt Nam)
Mặc dù cơ cấu chung của ngành điện Việt Nam đã giảm bớt tính độc quyền, tăng
tính cạnh trong khâu sản xuất, phân phát điện; các chỉ số kinh tế về vấn đề cung cấp
điện cũng được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, đây vẫn được coi là mô hình có tính độc
quyền cao (EVN vẫn hoàn toàn độc quyền trong việc mua điện từ các nhà sản xuất)
dẫn đến hiệu suất phát điện được đánh giá là yếu, không có sự phát triển mạnh, giá
điện tăng liên tục qua các năm ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động tiêu dùng điện.
Hình 8: Giá điện tăng qua các năm
(Nguồn: Tập Đoàn Điện Lực Việt Nam)
Đỉnh điểm là giá điện tăng một cách chóng mặt trong đầu năm 2019 (bắt đầu từ
ngày 20/03) đã gây ra một số phản ứng của người dân nghi ngờ về tính minh bạch của
chi phí đầu vào và cách tính giá điện độc quyền của EVN.
12
STT
1
Nhóm đối tượng khách hàng
Giá bán lẻ điện sinh hoạt
Bậc 1: Cho kWh từ 0 - 50
Bậc 2: Cho kWh từ 51 - 100
Bậc 3: Cho kWh từ 101 - 200
Bậc 4: Cho kWh từ 201 - 300
Bậc 5: Cho kWh từ 301 - 400
Bậc 6: Cho kWh từ 401 trở lên
2
Giá bán lẻ điện sinh hoạt dùng công tơ thẻ trả trước
Bảng 1: Giá điện công bố vào tháng 3 năm 2019
(Nguồn: Tập Đoàn Điện Lực Việt Nam)
Nhìn vào giá bán lẻ điện sinh hoạt dùng công tơ thẻ trả trước của tháng 03/2019 so
sánh với giá trung bình của các năm 2012 đến 2017 ta sẽ thấy một sự tăng cao rõ rệt.
Cụ thể, giá điện từ năm 2012-2017 có lúc lên xuống nhưng mức giá đỉnh điểm cũng
chỉ là 1.300 VNĐ/ số điện, nhưng ở đầu năm 2019 thì lại cao lên đến 2.461 đồng tức là
gần gấp đôi. Điều này rõ ràng là có ảnh hưởng rất lớn đến chi phí sử dụng điện của
người dân, đặc biệt là khu vực sản xuất khi mà cơ cấu ngành của nước ta đang chuyển
dần sang công nghiệp và ngay cả trong nông nghiệp thì việc ứng dụng điện trong sản
xuất cũng đang vô cùng lớn. Điều này càng đòi hỏi phải đưa ra một giải pháp để giải
quyết vấn đề độc quyền trong phân phối của ngành điện.
2.
Ảnh hưởng của độc quyền phân phối ngành điện
2.1.
Ảnh hưởng đến các nhà sản xuất điện
Trước hết ta phải xem xét nguyên tắc chào giá của EVN đối với các nhà sản xuất
điện
•
Đối với thị trường hợp đồng (PPA):
Các nhà máy điện tham gia (trừ BOT, các thủy điện chiến lược đa mục tiêu): ký
hợp đồng PPA dưới dạng hợp đồng sai khác (CfD) với EPTC. Giá hợp đồng do 2 bên
thỏa thuận và nằm trong khung giá quy định của Bộ Công Thương. Sản lượng hợp
đồng hàng năm (Qc) được xác định trước khi bắt đầu vận hành theo kết quả tính toán
13
tối ưu hệ thống điện của năm tiếp theo. Tỷ lệ sản lượng thanh toán theo giá hợp đồng
do ERAV quy định hàng năm.
•
Đối với các nhà máy điện BOT:
Do đã được bao tiêu sản lượng trong hợp đồng nên EPTC sẽ chào giá thay trong thị
trường để tối ưu chi phí mua điện của họ. Đối với các nhà máy thủy điện chiến lược đa
mục tiêu: ký hợp đồng mua bán điện với EPTC theo mẫu của Bộ Công Thương để
đảm bảo thu hồi đủ chi phí thực tế. Đối với thị trường điện giao ngay: Thị trường điện
giao ngay có chu kỳ giao dịch là 01 giờ. Theo đó, các nhà máy điện công bố công suất
sẵn sàng và chào giá phát điện của từng tổ máy cho từng chu kỳ giao dịch của ngày
tới. Sơ đồ hoạt động của VCGM tại Việt Nam Ngành Điện 119 www.fpts.com.vn
www.fpts.com.vn Bloomberg- FPTS | 119 Các nhà máy nhiệt điện chào giá theo chi
phí biến đổi của từng tổ máy (phải nằm trong khung giá thị trường quy định). Các nhà
máy thủy điện chào giá trong phạm vi +/- 10% giá trị nước do NLDC tính toán và
công bố cho từng tổ máy. Sau khi tổng hợp bản chào của các đơn vị này, kết hợp với
dự báo phụ tải hệ thống điện, khả năng tải của lưới điện truyền tải,… NLDC sẽ lập lịch
huy động (điều độ) trên nguyên tắc tổng chi phí thấp nhất. Nguyên tắc thanh toán Việc
thanh toán giữa bên mua và bán trong VCGM cũng bao gồm 2 phần là khoản thanh
toán đối với thị trường giao ngay và khoản thanh toán đối với thị trường hợp đồng.
Đối với thị trường điện giao ngay: Đây là khoản tiền mà bên mua thanh toán cho bên
bán điện, dựa trên tổng lượng điện năng phát (bao gồm cả Qc) và giá bán đã chào
khớp. Giá bán điện trên thị trường điện giao ngay này bao gồm giá điện năng thị
trường giao ngay (SMP) và giá công suất thị trường (CAN). SMP được NLDC xác
định cho từng chu kỳ giao dịch theo nguyên tắc giá biên hệ thống (chọn giá từ thấp lên
cao dựa theo phụ tải thực tế của hệ thống, các bản chào giá và công suất thực tế của
các tổ máy). Khoản thanh toán điện năng = SMP x Sản lượng đo đếm (h) CAN được
xác định hàng năm, đảm bảo cho Nhà máy điện mới tốt nhất (là nhà máy nhiệt điện
chạy nền, có tổng chi phí phát điện thấp nhất trong các nhà máy mới được đưa vào vận
hành trong năm) thu hồi đủ tổng chi phí phát điện trong năm. CAN được xác định cho
từng giờ, tỷ lệ thuận với phụ tải hệ thống điện giờ cao điểm và giờ bình thường. CAN
giờ thấp điểm bằng 0. Khoản thanh toán công suất = CAN x Công suất thanh toán
(MW) Tổng giá SMP và CAN là giá thị trường toàn phần (FMP) được dùng làm giá
tham chiếu khi tính toán thanh toán hợp đồng CfD. FMP = SMP + CAN Đối với thị
14
trường hợp đồng: Doanh thu tiền điện theo hợp đồng (Rc) cho từng chu kỳ: Rc = (Pc –
SMP – CAN) x Qc Khi giá thị trường toàn phần FMP > Pc thì bên bán có trách nhiệm
thanh toán cho bên mua khoản doanh thu Rc này và ngược lại. Để dễ hiểu, bỏ qua
nguyên tắc thanh toán có phần phức tạp trên, khoản tiền mà đơn vị phát điện nhận
được sẽ bao gồm 2 phần chính: (1) Phần sản lượng theo hợp đồng PPA (Qc) được
thanh toán với giá cố định đã quy định trong hợp đồng (Pc) và (2) phần sản lượng còn
lại được thanh toán theo giá chào khớp trên thị trường điện cạnh tranh (Pm – giá biến
đổi)
Như vậy, khoản thanh toán theo Qc và Pc đã cố định, các doanh nghiệp được
hưởng lợi trên việc cạnh tranh giá sẽ là các doanh nghiệp có chiến lược chào giá (Pm)
tốt để gia tăng lợi nhuận cho mình.
1.
Các nhà máy thủy điện nhìn chung có lợi thế hơn so với các nhà máy nhiệt
điện bởi thủy điện không có chi phí nhiên liệu giúp cho giá thành sản xuất của
thủy điện thấp hơn. Bởi cơ chế điều độ là tối ưu hóa chi phí, các doanh nghiệp
thủy điện có thể chào giá thấp hơn so với nhiệt điện.
2.
Các nhà máy điện cũ: điểm lợi thế của các nhà máy điện cũ là các loại chi phí
phát điện (như chi phí khấu hao, chi phí lãi vay,…) đã giảm, giúp cho giá thành
sản xuất thấp hơn so với các nhà máy điện mới. Theo cơ chế đàm phán giá PPA
mới, điều này dẫn đến đa phần giá Pc của các nhà máy điện cũ sẽ thấp hơn so
với các nhà máy điện mới, giúp các doanh nghiệp này có thể chào giá Pc cạnh
tranh hơn để thu được nhiều lợi nhuận hơn từ VCGM.
3.
Các nhà máy điện có chi phí sản xuất thấp: cũng tương tự như 02 trường hợp
trên, các nhà máy điện, kể cả nhiệt điện, có chi phí sản xuất thấp sẽ có nhiều cơ
hội hơn khi tham gia VCGM.
4.
Các nhà máy điện ở miền Nam: Đặc thù miền Nam là khu vực chiếm đến 50%
tổng tiêu thụ điện cả nước, trong khi công suất đường dây truyền tải điện có
hạn, do đó các nhà máy điện ở miền Nam thường được ưu tiên huy động trước
nhằm đảm bảo cung ứng điện cho khu vực này, đặc biệt vào mùa khô, các nhà
máy nhiệt điện ở phía nam có thể chào giá rất cao (các nhà máy thủy điện chưa
có nhiều nước để chào bán) để gia tăng lợi nhuận. Các nhà máy thủy điện có hồ
chứa điều tiết năm: Đây là điểm lợi thế của các nhà máy này khi có khả năng
15
tích trữ nước để chào bán điện vào mùa khô (giá bán điện trên thị trường vào
mùa khô cao hơn so với mùa mưa), nhờ đó có lợi thế hơn về giá bán. Đối với
các nhà máy thủy điện có hồ chứa nhỏ, vào mùa khô các nhà máy này thường
không có nước để huy động sản lượng cao. Còn vào mùa mưa, khi nước về
nhiều, các nhà máy này buộc phải chào bán (giá bán trên thị trường vào mùa
mưa thấp) do không có khả năng tích trữ nước lâu dài. (Nguồn: Báo cáo ngành
điện, FPT)
2.2.
Ảnh hưởng đến người tiêu dùng điện
Việc độc quyền khâu phân phối của EVN ảnh hưởng mạnh mẽ nhất là đến người
tiêu dùng, bởi người tiêu dùng chính là người cuối cùng mua điện cũng đại diện chi trả
cho mọi tổn thất trong khâu sản xuất, vận chuyển điện. Nói như vậy, tức là khi EVN là
độc quyền người bán duy nhất điện đến tay người tiêu dùng thì tương đương với mô
hình kinh tế có rất nhiều cầu mà chỉ có một đường cung, như vậy người tiêu dùng sẽ
phải hoàn toàn chấp nhận mọi giá mà EVN đưa ra, điều này gây ra tổn thất lớn cho
người tiêu dùng.
Điển hình vẫn là sự kiện giá điện tăng 3/2019, mặc dù EVN công bố mức tăng giá
điện là 8.6%, tuy nhiên tiền điện thực tế mà người dân phải trả là cho một tháng sau
khi tăng giá điện là lớn hơn rất nhiều (gấp rưỡi, thậm chí gấp đôi) so với tháng trước
khi tăng giá. Điều này cũng không được EVN giải thích một cách rõ ràng đồng thời
càng để lại những thắc mắc trong chi phí đầu vào, doanh thu và lợi nhuận thực tế mà
EVN đạt được . Như vậy, rõ ràng là có sự bất ổn trong việc độc quyền khâu phân phối
ngành điện, và giải pháp cho vấn đề này chỉ có thể là tăng cạnh tranh trong phân phối
điện, xoá bỏ hiện tượng chỉ có một người bán duy nhất thì giá điện mới tuân theo giá
cạnh tranh của thị trường, công bằng đối với người tiêu dùng.
16
Chương 3. Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phân phối điện tại
Việt Nam
Mô hình công ty điện lực truyền thống đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết với bản
chất vấn đề đưa ra là tính độc quyền trong gần như tất cả các khâu. Trong đó vấn đề
phân phối điện bao gồm truyền tải và bán lẻ vẫn chưa được giải quyết cơ bản.
Xuất phát từ thực tế trên, Chính phủ đã đưa ra nhiều Quyết định và Quy định
được cụ thể hóa bằng một lộ trình cải cách. Theo đó, trừ các nhà máy điện lớn, có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng được quy định tại Điều 4 Luật Điện lực, các Tổng công ty
phát điện, các nhà máy điện thuộc Tập đoàn Điện lực Việt Nam phải tách thành đơn vị
phát điện độc lập, không có chung lợi ích với đơn vị bán buôn điện, đơn vị truyền tải
điện, đơn vị điều độ hệ thống điện quốc gia và đơn vị điều hành giao dịch thị trường
điện lực.
(Nguồn: Báo Diễn đàn doanh nghiệp)
Mặc dù đã có nhiều bước tiến nhưng vẫn tồn đọng nhiều vấn đề đặt ra xoay
quanh câu chuyện độc quyền trong khâu truyền tải, phân phối và bán lẻ.
17
+ Trung gian mua bán điện:Công ty mua bán điện (EPTC) được thành lập năm
2008, trực thuộc EVN là đơn vị duy nhất được phép mua buôn điện từ tất cả các đơn vị
phát điện trên thị trường và bán buôn cho các công ty phân phối điện. Theo đó, Công
ty mua bán điện có trách nhiệm:lập kế hoạch, đàm phán và thực hiện hợp đồng mua
bán điện; thu mua toàn bộ điện năng trong thị trường điện; và phối hợp với Trung tâm
điều độ hệ thống điện quốc gia (cũng thuộc EVN) trong công tác lập kế hoạch vận
hành thị trường điện trong tháng tới, năm tới và các nhiệm vụ khác theo quy định của
thị trường điện.
+ Truyền tải điện là khâu trung gian để mang vận chuyển điện năng đến khâu
phân phối và bán lẻ. Tổng công ty Truyền tải điện Quốc gia (EVNNPT)đang thực hiện
vai trò của đơn vị truyền tải điện, quản lý vận hành hệ thống lưới điện truyền tải cấp
điện.EVNNPT hiện là công ty con do EVN nắm 100% vốn điều lệ. Như vậy, có thể
nói EVN vẫn đang độc quyền khâu truyền tải điện.
+ Khâu phân phối, bán lẻ đến người sử dụng là một mắt xích mà EVN nắm độc
quyền (EVN nắm giữ 100% các Tổng công ty Điện lực - PC).
Để khắc phục những vấn đề trên, trong thời gian tới, cần tiếp tục cải cách theo
các hướng sau:
Một là, thực hiện cơ cấu lại ngành điện, đặc biệt tiếp tục tái cơ cấu EVN.
- Tiếp tục tổ chức lại các nhà máy điện thuộc EVN thành các đơn vị phát điện
độc lập. Yêu cầu trước tiên để thực hiện thị trường phát điện cạnh tranh là các nhà máy
điện tham gia thị trường phải bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các nhà máy điện
thuộc EVN và các nhà máy điện thuộc các ngành khác ngoài EVN như PVN, TKV…
- Tổ chức lại Công ty mua bán điện, sớm phá bỏ thế độc quyền hay vị trí người
mua duy nhất của EVN. EVN cần chuyển giao và phân bổ dần các hợp đồng mua bán
điện hiện nay EVN đã ký cho 5 Tổng công ty Điện lực.
- Tổ chức lại đơn vị điều độ hệ thống điện quốc gia hay đơn vị vận hành hệ
thống điện và thị trường điện (SMO), phải là đơn vị hoạt động phi lợi nhuận, tách biệt
độc lập hoàn toàn với EVN, hoặc ít nhất là một công ty TNHH một thành viên tách
biệt riêng trong EVN. Đơn vị này cũng cần phải độc lập với cả bên mua điện và bên
bán điện. Mức độ độc lập cần phải tuyệt đối, từ cơ sở vật chất, nhân sự, chức năng
cũng tách biệt với các bộ phận khác của EVN.
- Tách đơn vị truyền tải độc lập để đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng.
18
- Việc thực hiện cấp độ thị trường bán buôn, bán lẻ điện cạnh tranh sẽ mở rộng
sự tham gia đối với các đơn vị trong và ngoài EVN. Hiện EVN đang nắm giữ hầu như
toàn bộ bán buôn và bán lẻ. Thực hiện cấp độ này liên quan chặt chẽ tới nội dung tái
cấu trúc của EVN và cả ngành điện.
- Các nhà máy điện có trên lãnh thổ Việt Nam không nhất thiết phải đấu nối với
lưới điện quốc gia (hoặc nối chỉ để trao đổi) và bán cho Công ty mua bán điện thuộc
EVN; có quyền bán trực tiếp cho các khách hàng theo quy định của Chính phủ và Luật
Điện lực. Khách hàng tiêu thụ điện ở mọi quy mô đều có quyền lựa chọn, thay đổi đơn
vị bán điện cho mình.
Hai là, thực hiện hiệu quả lộ trình hình thành và phát triển thị trường điện cạnh
tranh tại Việt Nam quy định tại Quyết định số 63/2013/QĐ-TTg ngày 08/11/2013 của
Thủ tướng chính phủ.
Ba là, tăng cường các chính sách khuyến khích sự tham gia của các nhà đầu tư
ứng dụng công nghệ hiện đại, hiệu quả về kinh tế và môi trường; phát triển năng lượng
tái tạo; khuyến khích các mô hình mới (như các cụm năng lượng tái tạo nhỏ, tận dụng
tài nguyên và sự tham gia của doanh nghiệp và người dân, giảm gánh nặng cho nhà
nước trong đầu tư phát triển điện).
Bốn là, chú trọng chính sách khuyến khích sử dụng điện tiết kiệm và hiệu quả;
chính sách giá mua-giá bán tính đủ chi phí ngoại biên cho mọi loại hình doanh nghiệp,
hướng tới hình thành hệ chính sách phát triển điện cạnh tranh, xóa bỏ độc quyền.
Năm là, đảm bảo tiếp cận công bằng tới hệ thống cốt lõi trong ngành điện (khâu
có tính chất độc quyền tự nhiên), gồm hệ thống lưới điện (truyền tải và phân phối), các
hệ thống đo đếm điện năng (công tơ đo đếm, thu thập, lưu trữ và quản lý sốliệu đo
đếm) và hệ thống công nghệ thông tin phục vụ công tác vận hành hệ thống điện vàthị
trường điện. Nguyên tắc cơ bản nhất trong việc tiếp cận các hạ tầng cốt lõi để thúc đẩy
cạnh tranh trong ngành điện đó là tiếp cận mở (Open Access) (World Bank, 2013),
gồm: Không biệt đối xử (bình đẳng); Minh bạch; Chi phí hợp lý.
Sáu là, tăng cường vai trò thực chất của cơ quan điều tiết; đảm bảo tính độc lập
và năng lực của cơ quan điều tiết (Cục Điều tiết điện lực) và cơ quan quản lý cạnh
tranh, đảm bảo tất cả các người dùng mạng có thể truy cập và sử dụng mạng lưới cung
cấp năng lượng trên cơ sở không phân biệt đối xử nhằm thúc đẩy cạnh tranh trong
khâu sản xuất, thương mại và bán lẻ. Cơ quan điều tiết thực hiện công khai báo cáo
19
hàng năm về tổng kết, đánh giá tình hình hoạt động điều tiết và vận hành của thị
trường điện.
Bảy là, thực hiện công khai cơ cấu giá điện; ban hành và thực hiện cơ chế giám
sát hoạt động cung cấp sản phẩm, dịch vụ của các doanh nghiệp ngành điện, đặc biệt
đối với EVN với sự tham gia của các Hiệp hội ngành và chuyên gia độc lập nhằm đảm
bảo chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp và lợi ích của người tiêu dùng và nền
kinh tế.
20
Kết luận
Cơ cấu ngành điện Việt Nam còn nhiều bất cập với mô hình truyền thống là sự
liên kết dọc trong các khâu. Tính độc quyền đã bộc lộ nhiều ảnh hưởng tiêu cực trong
hiệu quả ngành điện. Việc phá vỡ thế độc quyền nhằm nâng cao dịch vụ cung cấp, hạ
giá thành cũng như tạo tính minh bạch, rõ ràng đòi hỏi một quá trình lâu dài với sự
quản lý chặt chẽ của Chính phủ. Những điều chỉnh, cải cách cần hữu hiệu nhưng hợp
lý để vừa đáp ứng những yêu cầu kinh tế nhưng cũng đồng thời đảm bảo tính ổn định
an ninh xã hội.
21
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Doãn Thu Hiền, Diễn đàn doanh nghiệp, 21/05/2019
/>
2.
Nguyễn Hữu Khoa (2012), Thị trường điện: Định hình hiện trạng ngành điện
Việt Nam (Kỳ 1)
/>
3.
Quyết định 26/2006/QĐ-Ttg về việc “PHÊ DUYỆT LỘ TRÌNH, CÁC ĐIỀU
KIỆN HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC CẤP ĐỘ THỊ TRƯỜNG ĐIỆN
LỰC TẠI VIỆT NAM”:
/>
4. Báo cáo hàng năm của EVN năm 2012-2013
/>%20Viet.pdf
5. Báo cáo hàng năm của EVN năm 2014 - 2015
/>%20EVN_Final_1.7.15.pdf
6. Báo cáo hàng năm của EVN năm 2016
/>alReport2016.pdf
7. Báo cáo hàng năm của EVN năm 2017
/>8. Cải cách độc quyền trong ngành điện ở việt Nam, Viện Nghiên cứu quản lý
Kinh tế Trung ương.
/>%20độc%20quyền%20ngành%20Điện-converted.pdf
9. World Bank (2013), International Experience with Open Access to Power Grids
(Synthesis Report)
22
/>EVISED000Power0Grids0KS16013.pdf
10. Tổng quan ngành điện Việt Nam
/>
23