Tải bản đầy đủ (.pdf) (193 trang)

Cơ chế điều chỉnh pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (16.29 MB, 193 trang )


B ộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ T ư PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN QUỐC HOÀN

Cơ CHÊ ĐIỂU CHỈNH PHÁP LUẬT
VIỆT NAM


Chuyên ngành : Lý luận nhà nước và pháp quyển
M ã số

: 5.05.01

ỊĩHUVỈỆHClẮOVát

i sỏ0K

__ 1

LUẬN
ÁN TIẾN Sĩ LUẬT
HỌC





Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Minh Tâm
TS Bùi Xuân Đức

HÀ NỘI - 2002


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các s ố liệu nêu
trong luận án là trưng thực. Những kết luận
khoa học của luận ấn chưa từng được ai
công b ố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Quốc Hoàn


MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU

3

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỂ LÝ LUẬN c ơ BẢN VỂ c ơ CHẾ

9


ĐIỂU CHỈNH PHÁP LUẬT

1.1. Khái niệm và các thành tố của cơ chế điều chỉnh pháp luật

9

1.2. Những tiêu chuẩn để xác định mức độ hoàn thiện của cơ

48

chế điều chỉnh pháp luật
1.3. Những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến cơ chế điều chỉnh

63

pháp luật
Chương 2: QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ THựC TRẠNG cơ CHÊ

77

ĐIỂU CHỈNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Quá trình phát triển cơ chế điều chỉnh pháp luật Việt Nam

77

từ 1945 đến nay
2.2. Thực trạng cơ chế điều chỉnh pháp luật Việt Nam hiện nay
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN


98
133

Cơ CHÊ ĐIỂU CHỈNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM

3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật

133

Việt Nam
3.2. Những nguyên tắc cơ bản của quá trình hoàn thiện cơ chế

143

điều chỉnh pháp luật Việt Nam
3.3. Phương hướng và giải pháp chủ yếu để hoàn thiện cơ chế

148

điều chỉnh pháp luật Việt Nam
KẾT LUẬN

176

NHŨNG CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC

180

CÔNG BỐ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


181


3

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội đòi hỏi
chúng ta phải giải quyết nhiều vấn đề khác nhau, trong đó hoàn thiện cơ chế
điều chỉnh pháp luật là một trong những vấn đề cơ bản, bức xúc. Hơn một thập
kỷ vừa qua, những bất cập trong quá trình xây dựng, tổ chức thực hiện và bảo
vệ pháp luật đã từng bước được khắc phục, cơ chế điều chỉnh pháp luật được
đổi mới một bước quan trọng đã và đang phát huy tác dụng góp phần đảm bảo
an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, có thể nói cho đến nay cơ chế điều chỉnh pháp luật ở nước
ta vẫn còn nhiều nhược điểm, chưa đáp ứng được những yêu cầu bức xúc đang
đặt ra trong công cuộc đổi mới, các giải pháp mà chúng ta đã thực hiện còn
thiếu đồng bộ, tản mạn, chắp vá và nhiều khi chỉ mang tính tình thế. Hệ thống
pháp luật chưa hoàn thiện, tình trạng pháp luật vừa thiếu lại vừa thừa, những
mâu thuẫn, chồng chéo giữa các văn bản quy phạm pháp luật vẫn còn khá phổ
biến; công tác tổ chức thực hiện pháp luật không đồng bộ dẫn đến tình trạng
pháp luật không được thực thi, nhiều văn bản quy phạm pháp luật được ban
hành không phát huy được hiệu lực trên thực tế... hiệu quả pháp luật không cao.
Sở dĩ có tình trạng đó là do chúng ta chưa có được cơ sở khoa học toàn diện,
đầy đủ và thống nhất cho việc tổng kết, đánh giá thực tiễn pháp lý và xây dựng
phương hướng, giải pháp đồng bộ để hoàn thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật.
Trong giai đoạn hiện nay, để thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa đất nước trở thành một nước

công nghiệp; mở rộng quan hệ nhiều mặt song phương và đa phương, chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực thì đòi hỏi cơ chế điều chỉnh pháp
luật của nước ta phải có bước phát triển tương xứng. Vì vậy, cần phải có


4

những giải pháp tổng thể, đồng bộ để hoàn thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật
thì mới có thể mang lại kết quả mong muốn.
Bên cạnh đó, "Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán
và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
động theo cơ c h ế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tê thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa” [24, tr. 86] trong điều kiện mà nền kinh tế nước ta còn chậm phát triển,
cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu, mô hình kinh tế mà chúng ta chủ trương xây
dựng chưa có một tiền lệ trong lịch sử. Hơn nữa, kinh tế thị trường ngoài việc
tạo ra động lực mạnh mẽ cho việc phát triển kinh tế - xã hội thì nó cũng có sự
tác động tiêu cực đối với đời sống xã hội. Những tác động tiêu cực đó nếu
không được hạn chế thì có thể sẽ dẫn đến những hậu quả khó lường. Vì vậy,
việc xây dựng và hoàn thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật thích hợp vừa phát
huy được những nhân tố tích cực của cơ chế kinh tế thị trường trong việc thúc
đẩy sự phát triển của nền sản xuất xã hội, đồng thời hạn chế tối đa những tác
động tiêu cực của nó đối với xã hội là một nhiệm vụ hết sức khó khăn, phức tạp.
Để thực hiện có kết quả những nhiệm vụ đó đòi hỏi phải có sự nghiên cứu của
các ngành khoa học khác nhau nhằm xây dựng và hoàn thiện cơ sở khoa học
cho việc giải quyết những vấn đề cụ thể. Trong đó, khoa học pháp lý phải xây
dựng cơ sở lý luận cho việc hoàn thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật Việt Nam.
Những vấn đề nêu trên cho thấy sự cần thiết phải triển khai nghiên cứu
một cách toàn diện vấn đề cơ chế điều chỉnh pháp luật Việt Nam, làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận về cơ chế điều chỉnh pháp luật, xây dựng cơ sở khoa học

cho việc giải quyết những vấn đề thực tiễn của cơ chế điều chỉnh pháp luật
đang đặt ra ở Việt Nam, đồng thời tổng kết, đánh giá quá trình phát triển và
thực trạng của cơ chế điều chỉnh pháp luật Việt Nam. Trên cơ sở đó đề ra
những phương hướng và giải pháp để hoàn thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật


5

Việt Nam đáp ứng những yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, góp phần vào việc
thực hiện thắng lợi mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cơ chế điều chỉnh pháp luật là một vấn đề rất phức tạp đã được nhiều
luật gia nước ngoài quan tâm nghiên cứu, nhất là các luật gia của các nước xã

hội chủ nghĩa, đặc biệt là ở Liên Xô trước đây như A. V. Malko; L. s. Iavich,
s. s Alecxeev; V. p. Kazimirchuc, V. M. Gorshenev, c . A. Komarov, V. V. Lazareva,
N. I. Matuzova, V. N. Khropanhiuc... Những công trình khoa học của các tác
giả này đã đề cập đến nhiều vấn đề của cơ chế điều chỉnh pháp luật như vị trí
và vai trò của các thành tố trong cơ chế điều chỉnh pháp luật cũng như những
đặc điểm của cơ chế điều chỉnh pháp luật ở một số lĩnh vực pháp luật cụ thể
nhưng nhiều điểm chưa thống nhất với nhau.
Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu một cách toàn diện về
pháp luật Việt Nam đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến ở những mức độ
và phạm vi khác nhau. Trong giáo trình lý luận về nhà nước và pháp luật ở bậc
đại học và sau đại học của các cơ sở đào tạo luật cũng như các công trình khoa
học trên các tạp chí chuyên ngành đã đề cập những vấn đề về điều chỉnh pháp
luật và cơ chế điều chỉnh pháp luật ở cả phương diện lý luận và thực tiễn. Có
thể kể đến các công trình nghiên cứu của các tác giả như Đào Trí ú c, Lê Minh
Tâm, Lê Minh Thông, Lê Hồng Hạnh, Trần Ngọc Đường, Hoàng Phước Hiệp,
Lê Xuân Thảo, Nguyễn Minh Mẫn...

Trong số các công trình nghiên cứu về pháp luật Việt Nam có hai công
trình khoa học đáng chú ý, trực tiếp nghiên cứu về cơ chế điều chỉnh pháp luật
Việt Nam là: "Cơ chế điều chỉnh pháp luật trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại Việt N am ” của tác giả Hoàng Phước Hiệp và "Đổi mới và hoàn
thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật về bảo hộ sở hữu trí tuệ trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam" của tác giả Lê Xuân Thảo. Tuy nhiên, các công trình này


6

mới chỉ nghiên cứu cơ chế điều chỉnh pháp luật trong từng lĩnh vực cụ thể,
hơn nữa lại dựa trên cơ sở của những quan điểm lý luận khác nhau về cơ chế
điều chỉnh pháp luật vì thế còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết triệt để.
Như vậy, đến nay vẫn chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu một
cách cơ bản, toàn diện và có hệ thống về cơ chế điều chỉnh pháp luật Việt Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận án
• Mục đích nghiên cứu của luận án
Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về cơ chế điều chỉnh pháp
luật dưới góc độ lý luận về nhà nước và pháp luật, từ đó xây dựng cơ sở khoa
học cho việc đánh giá thực tiễn cơ chế điều chỉnh pháp luật Việt Nam và xây
dựng những phương hướng và giải pháp để hoàn thiện cơ chế điều chỉnh pháp
luật Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
• Nhiệm vụ của luận án
- Phân tích một cách tương đối toàn diên các quan điểm khác nhau về
những vấn đề cơ bản của cơ chế điều chỉnh pháp luật để xây dựng khái niệm
hoàn chỉnh về cơ chế điều chỉnh pháp luật; xác định rõ vị trí, chức năng, mối
quan hệ tác động qua lại lẫn nhau của các thành tố trong cơ chế điều chỉnh
pháp luật. Nghiên cứu các hình thái khác nhau của cơ chế điều chỉnh pháp luật
cũng như các tiêu chuẩn để xác định mức độ hoàn thiện của cơ chế điều chỉnh
pháp luật và những ảnh hưởng của kinh tế, chính trị và các quy phạm xã hội

đối với cơ chế điều chỉnh pháp luật.
- Nghiên cứu tổng quan về quá trình phát triển của cơ chế điều chỉnh
pháp luật Việt Nam từ 1945 đến nay; phân tích, đánh giá thực trạng cơ chế
điều chỉnh pháp luật Việt Nam trong giai đoạn hiện nay để khẳng định những
bước phát triển, những ưu điểm cần phát huy, đồng thời tìm ra những hạn chế,
nhược điểm và nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó.


7

-

Xác định phương hướng và những giải pháp chủ yếu cho việc hoàn

thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật trong điều kiện của Việt Nam hiện nay.
• Phạm vi nghiên cứu của luận án
Cơ chế điều chỉnh pháp luật có tính chất rất phức tạp và có nội dung
rất rộng. Bản luận án này không thể đề cập đến tất cả các vấn đề mà chỉ tập
trung phân tích và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về cơ chế điều
chỉnh pháp luật; khái quát sự phát triển của cơ chế điều chỉnh pháp luật Việt
Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay; đánh giá thực trạng của cơ
chế điều chỉnh pháp luật Việt Nam và xác định những phương hướng và giải
pháp cơ bản để hoàn thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những nhiệm vụ đã được xác định ở trên, luận án được
thực hiện trên cơ sở lý luận khoa học và các phương pháp của chủ nghĩa Mác Lênin. Trong đó, vận dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng,
phương pháp duy vật lịch sử và các phương pháp cụ thể như phân tích và tổng
hợp, phương pháp so sánh, phương pháp tổng kết thực tiễn, tiếp cận hệ thống...
để lý giải các vấn đề đã được đặt ra.
5. Những đóng góp mói về mặt khoa học của luận án

Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn
diện về cơ chế điều chỉnh pháp luật Việt Nam.
Trên cơ sở phân tích, so sánh đánh giá một số quan điểm khác nhau,
luận án xây dựng khái niệm hoàn chỉnh về cơ chế điều chỉnh pháp luật, trong
đó xác định chức năng và những mối quan hệ giữa các thành tố trong cơ chế
điều chỉnh pháp luật cũng như những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến cơ chế
điều chỉnh pháp luật. Bên cạnh đó, luận án làm sáng tỏ một cách có hệ thống
và toàn diện những tiêu chuẩn để xác định mức độ hoàn thiện của cơ chế điều
chỉnh pháp luật Việt Nam.


8

Cùng với việc nghiên cứu và làm sáng tỏ quá trình phát triển cũng như
thực trạng của cơ chế điều chỉnh pháp luật Việt Nam hiện nay, luận án đề xuất
những phương hướng và giải pháp toàn diện cho việc hoàn thiện cơ chế điều
chỉnh pháp luật góp phần nâng cao hiệu quả của pháp luật trong điều kiện phát
triển của một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần bổ sung và phát triển những
vấn đề lý luận về cơ chế điều chỉnh pháp luật, tạo ra cơ sở khoa học thống
nhất để nghiên cứu cơ chế điều chỉnh pháp luật trong các lĩnh vực cụ thể.
Luận án là tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu và giảng dạy
khoa học pháp lý cũng như các nhà hoạt động thực tiễn trong các cơ quan
pháp luật.
Các kết luận, các ý kiến được trình bày trong luận án có thể giúp ích
cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xây dựng một chương trình và kế
hoạch cụ thể đối với hoạt động xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp
luật và bảo vệ pháp luật một cách đồng bộ để từng bước hoàn thiện cơ chế
điều chỉnh pháp luật trên thực tế.

7. Kết cấu của ỉuận án
Luận án bao gồm phần mở đầu, ba chương, kết luận và danh mục tài
liệu tham khảo.


9

Chương 1
NHŨNG VẤN ĐỂ LÝ LUẬN c ơ BẢN
VỂ C ơ CHẾ ĐIỂU CHỈNH PHÁP LUẬT

Cơ chế điều chỉnh pháp luật là một phạm trù phức tạp và có nội dung
rất rộng của khoa học pháp lý nói chung và của lý luận về nhà nước và pháp
luật nói riêng đòi hỏi phải được nghiên cứu một cách có hệ thống mới có được
những kết luận đúng đắn. Chương 1 của luận án sẽ trình bày những vấn đề lý
luận cơ bản về cơ chế điều chỉnh pháp luật. Bao gồm: khái niệm và các thành
tố của cơ chế điều chỉnh pháp luật; những tiêu chuẩn để xác định mức độ hoàn
thiện của cơ chế điều chỉnh pháp luật; những nhân tố ảnh hưởng đến cơ chế
điều chỉnh pháp luật.
1.1. KHÁI NIỆM VÀ CÁC THÀNH T ố CỦA c ơ CHÊ ĐIỂU CHỈNH
PHÁP LUẬT

1.1.1. Khái niệin cơ chế điều chỉnh pháp luật
Để có được khái niệm cơ chế điều chỉnh pháp luật, trước hết cần phân
tích và làm rõ về mặt lý luận vấn đề điều chỉnh pháp luật.
Trong tiếng Việt, điều chỉnh được giải thích là "sửa đổi, sắp xếp lại ít
nhiêu cho đúng hơn, cân đối hơn” [86, tr. 310]. Trong một số ngôn ngữ khác
như tiếng Anh, tiếng Nga hay tiếng Latinh, điều chỉnh đều có nghĩa là sự tác
động, chỉnh đốn, điều khiển một hoạt động hay một quá trình để tạo ra một
trật tự hài hòa, thường dựa vào những nguyên tắc hay những quy tắc nhất định.

Đặc biệt, trong cuốn từ điển pháp luật bằng tiếng Anh "Black’s Law
Dictionary", thuật ngữ điều chỉnh được giải thích khá rõ ràng: "Điều chỉnh
(regulate) là sắp xếp, thiết lập, hoặc điều khiển, chỉnh đốn bằng quy tắc, phương
pháp hoặc phương thức đã được định ra; chỉ đạo bằng quy tắc hoặc khuôn
mẫu; kiểm soát bằng các nguyên tắc cai trị hoặc bằng pháp luật" [109, tr. 1286].


10

Như vậy, thuật ngữ "điều chỉnh" được giải thích tương đối thống nhất, nội
dung của nó là sự tác động của chủ thể đến đối tượng bằng những hình thức và
phương pháp cụ thể nhằm đạt mục đích nhất định.
Để duy trì trật tự xã hội, định hướng cho sự vận động và phát triển của
các quan hệ xã hội, trong xã hội tồn tại nhiều dạng điều chỉnh khác nhau. Đó
là sự điều chỉnh bằng các quy tắc đạo đức, tín điều tôn giáo, phong tục, tập quán,
pháp luật... Trong đó, điều chỉnh bằng pháp luật (ở đây gọi là điều chỉnh pháp
luật) có vai trò quan trọng nhất do tính chất và đặc điểm vốn có của pháp luật.
Pháp luật do nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện, vì thế nhà nước
là chủ thể của điều chỉnh pháp luật. Với tư cách là một tổ chức có quyền lực
bao trùm toàn bộ xã hội, nhà nước có bộ máy cưỡng chế đặc biệt có đủ khả
năng đảm bảo cho các quy phạm pháp luật được thực thi trên thực tế. Để thực
hiện sự điều chỉnh pháp luật, nhà nước trước hết xác định mục đích, nhiệm vụ
của điều chỉnh pháp luật, xác định phạm vi, đối tượng, phương pháp điều
chỉnh của pháp luật. Trên cơ sở đó, nhà nước tiến hành các hoạt động cụ thể
để thực hiện sự điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội. Các hoạt động
cụ thể của nhà nước nhằm thực hiện sự điều chỉnh pháp luật thể hiện dưới các
hình thức cơ bản là xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ
pháp luật. Trong đó, các cơ quan trong bộ máy nhà nước với những chức năng
và nhiệm vụ cụ thể phối hợp với nhau để thực hiện sự điều chỉnh pháp luật.
Thực chất, toàn bộ hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước chính là

các hoạt động để thực hiện sự điều chỉnh pháp luật.
Đối tượng điều chỉnh pháp luật là các quan hệ xã hội. Pháp luật với
những thuộc tính vốn có của nó có thể tác động vào đời sống xã hội bằng nhiều
hình thức khác nhau nhờ vào các phương tiện và các phạm trù khác nhau của
nó. Khi thực hiện sự tác động của mình đối với các quan hệ xã hội, pháp luật một
mặt bảo vệ và định hướng cho sự phát triển các quan hệ xã hội, bảo vệ các quyền
và sự tự do của con người, đảm bảo sự phát triển của xã hội phù hợp với các


11

quy luật khách quan, mặt khác tạo ra những rào chắn để hạn chế sự gia tăng
và loại bỏ ra khỏi đời sống xã hội những quan hệ xã hội lạc hậu không phù
hợp với sự phát triển khách quan của xã hội và lợi ích của giai cấp thống trị.
Các quan hệ xã hội mặc dù tồn tại một cách khách quan trong quá
trình hoạt động của con người nhưng mức độ ổn định và nhịp độ phát triển của
chúng lại phụ thuộc vào xử sự của con người khi tham gia vào các mối quan
hệ đó. Khi tham gia vào các mối quan hệ xã hội, con người có nhiều phương
án xử sự khác nhau. Pháp luật đưa ra cách xử sự thích hợp để các chủ thể tuân
theo và đảm bảo cho chúng được thực hiện. Các chủ thể khi tham gia vào các
mối quan hệ xã hội tuân theo những cách xử sự đã được xác định sẽ đảm bảo
cho quan hệ xã hội này tổn tại, vận động và phát triển của theo những hướng
tích cực mà nhà nước mong muốn.
Với chức năng phản ánh, pháp luật là sự mô hình hóa các nhu cầu xã
hội khách quan, điển hình, phổ biến thành hệ thống quy phạm pháp luật để
điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Đó là những cách xử sự hợp lý nhất, phù
hợp với ý chí và nguyện vọng chung của các chủ thể khi tham gia vào các
quan hệ đó. Vì vậy, sự tác động của pháp luật lên các quan hệ xã hội được
thực hiện thông qua việc xác định cách xử sự của chủ thể tham gia các quan
hệ xã hội, là sự tác động có tính tổ chức, tính quy phạm và có mục đích cụ thể,

rõ ràng. Thông qua hình thức tác động này, trật tự pháp luật của đời sống xã
hội được hình thành, trong đó lợi ích của giai cấp thống trị cũng như những
giá tri xã hội được bảo đảm.
Như vậy, điều chỉnh pháp luật là quá trình tác động có tổ chức,
mang tính quy phạm của nhà nước đối với các quan hệ xã hội thông qua
hành vi của các chủ thể nhằm đạt được những mục đích nhất định.
Với chức năng giáo dục, pháp luật luôn có sự tác động mạnh mẽ vào
nhận thức và tư tưởng của chủ thể để hình thành ở chủ thể pháp luật ý thức
pháp luật đúng đắn, làm cơ sở cho các chủ thể lựa chọn cách xử sự phù hợp


12

với yêu cầu của pháp luật. Mặc dù, hành vi mới là cơ sở để xác định mối quan
hệ giữa con người với pháp luật như Các Mác đã viết: "Ngoài những hành vi
của mình ra, tôi hoàn toàn không tồn tại đối với pháp luật, không phải là đối
tượng của nó" [13, tr. 27-28], nhưng con người cụ thể tham gia các quan hệ xã
hội hoạt động không phải như một cái máy, mà đó là hoạt động có ý chí, có
mục đích rõ ràng. Chính vì vậy, không thể đòi hỏi các chủ thể thực hiện các
hành vi mà nhà nước mong muốn nếu pháp luật không tác động vào nhận thức
của họ bởi vì theo quan điểm mác - xít, hành vi của con người chính là biểu
hiện bên ngoài của hoạt động [16, tr. 11], [48, tr. 17]. Vì vậy, khi nói sự tác
động của pháp luật đối với các quan hệ xã hội thông qua hành vi của chủ thể
thì đã bao hàm sự tác động pháp luật đối với nhận thức của chủ thể. Nhờ vào
sự tác động đó, các chủ thể có thể biết được mình được làm gì, không được
làm gì, phải làm gì hay phải làm như thế nào. Khi nhận thức được điều đó thì
các chủ thể tiến hành cách xử sự mà pháp luật đã đưa ra.
Tuy nhiên, sự tác động của pháp luật đối với nhận thức của chủ thể có
hai cấp độ khác nhau, ở cấp độ chung đó là sự tác động của toàn bộ các bộ
phận của thượng tầng chính trị pháp lý đối với nhận thức của con người về bản

chất và vai trò của pháp luật, về ý nghĩa xã hội của pháp luật nhằm mục đích
giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật của các chủ thể pháp luật. Sự tác động này
có thể được thực hiện cả trong quá trình điều chỉnh pháp luật cũng như các
quá trình pháp luật khác như tuyên truyền pháp luật, giáo dục pháp luật. Sự tác
động ở cấp độ chung thực chất là thực hiện chức năng giáo dục của pháp luật.
Ở cấp độ cụ thể, sự tác động của pháp luật đối với nhận thức của chủ thể chỉ
xảy ra trong quá trình điều chỉnh pháp luật. Sự tác động đó được thực hiện bởi
các phương tiện pháp luật tham gia vào quá trình điều chỉnh pháp luật. Sự tác
động này trực tiếp nhằm giúp cho chủ thể nhận thức được yêu cầu cụ thể của
pháp luật để có hành vi phù hợp với pháp luật trong điều kiện và hoàn cảnh cụ
thể đã được pháp luật quy định.


13

Sự tác động pháp luật ở cấp độ chung có ý nghĩa rất lớn đối với sự tác
động của pháp luật vào nhận thức của chủ thể pháp luật ở cấp độ cụ thể, nó
giúp cho các chủ thể nhận thức đúng đắn những yêu cầu của pháp luật trong
những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Ngược lại, sự tác động của pháp luật đối
với nhận thức của chủ thể ở cấp độ cụ thể cũng có ý nghĩa giáo dục chung. Vì
vậy, khi nói điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội đã bao hàm nội
dung của sự tác động đối với nhận thức của chủ thể ở cấp độ cụ thể nói trên.
Như vậy, không thể đồng nhất điều chỉnh pháp luật với sự tác động
pháp luật [99, tr. 285]. Bởi vì, điều chỉnh pháp luật là sự tác động của pháp
luật đối với các quan hệ xã hội nhằm đạt được kết quả nhất định là trật tự xã
hội và vì thế có những tác động của pháp luật không thể được xem là điều chỉnh
pháp luật. Đó là sự tác động vào nhận thức của chủ thể để thực hiện chức năng
giáo dục của pháp luật. Mặt khác, cũng không nên cho rằng điều chỉnh pháp
luật là sự tác động của pháp luật đối với các quan hệ xã hội được thực hiện bởi
tất cả các phương tiện pháp luật và các phạm trù pháp lý khác [99, tr. 286], bởi

vì văn hóa pháp luật, ý thức pháp luật không thể trực tiếp tác động lên các
quan hệ xã hội mà chỉ tác động lên nhận thức của chủ thể ở cấp độ chung giúp
cho chủ thể có được quan điểm đúng đắn về pháp luật để chủ thể tôn trọng
pháp luật, chúng không xác định cách xử sự của chủ thể khi tham gia các quan
hệ pháp luật vì vậy không trực tiếp tác động lên các quan hệ xã hội để đạt
được kết quả cụ thể. Tuy nhiên, nếu tách biệt hai hình thức tác động của pháp
luật là tác động đối với tư tưởng và tác động lên các quan hệ xã hội thông qua
hành vi của chủ thể [81, tr. 184] thì cũng không hoàn toàn chính xác vì ngay
cả trong quá trình tác động của pháp luật đối với các quan hệ xã hội cũng tồn
tại sự tác động của pháp luật đối với nhận thức của chủ thể các quan hệ xã hội
ở các cấp độ khác nhau.
Quan niệm điều chỉnh pháp luật như vậy cho phép chúng ta chỉ ra sự
khác nhau giữa điều chỉnh pháp luật và sự tác động của pháp luật. Mặt khác,


14

quan niệm đó thể hiện được bản chất của điều chỉnh pháp luật. Quan niệm này
tạo ra cơ sở cho việc làm sáng tỏ khái niệm cơ chế điều chỉnh pháp luật cũng
như vị trí và chức năng của các thành tố của cơ chế điều chỉnh pháp luật.
Để thực hiện sự điều chỉnh đối với các quan hệ xã hội, pháp luật xác
định cách xử sự của chủ thể trong những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Việc
xác định đó được thể hiện ở những phương thức điều chỉnh cụ thể. Đó là cách
thức pháp luật xác định cách xử sự của chủ thể gắn với những điều kiện và
hoàn cảnh nhất định.
Phương thức điều chỉnh pháp luật được nhà nước xác lập và thể hiện
trong các quy phạm pháp luật. Vì thế, với cùng một điều kiện và hoàn cảnh cụ
thể, pháp luật của nhà nước này xác định cách xử sự của chủ thể bằng phương
thức này, nhưng pháp luật của nhà nước khác thì lại xác định bằng phương
thức khác. Phương thức điều chỉnh pháp luật mặc dù do nhà nước xác lập

nhưng nó phụ thuộc vào tính chất của các quan hệ xã hội mà pháp luật điều
chỉnh và mục đích của điều chỉnh pháp luật. Việc xác định những cách xử sự
khác nhau cho chủ thể phải mang tính khách quan, phù hợp với hoàn cảnh và
điều kiện cụ thể. Có ba phương thức điều chỉnh pháp luật chung nhất là bắt
buộc, cấm đoán và cho phép [45, tr. 368], [94, tr. 285].
Bắt buộc là phương thức điều chỉnh pháp luật trong đó pháp luật xác
định những hành vi mà chủ thể buộc phải thực hiện khi gặp những điều kiện
hay hoàn cảnh cụ thể được pháp luật quy định. Ví dụ, pháp luật quy định công
dân có nghĩa vụ đóng thuế và lao động công ích, phải tố giác tội phạm...
Cấm đoán là phương thức điều chỉnh pháp luật trong đó pháp luật xác
định những hành vi mà chủ thể không được phép thực hiện khi gặp một điều kiện
hay hoàn cảnh cụ thể được pháp luật quy định. Chẳng hạn, Đoạn 1, Điều 17,
Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998 quy định: "Cán bộ, công chức không
được thành lập, tham gia thành lập hoặc tham gia quản lý, điều hành các


15

doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, hợp tác
xã, bệnh viện tư, trường học tư và tổ chức nghiên cứu khoa học tư".
Cho phép là phương thức điều chỉnh pháp luật trong đó pháp luật xác
định những hành vi mà chủ thể được phép thực hiện khi gặp một điều kiện hay
hoàn cảnh cụ thể được pháp luật quy định. Ví dụ, Khoản 1, Điều 1, Luật khiếu
nại, tố cáo năm 1998 quy định: "Công dân, cơ quan tổ chức có quyền khiếu
nại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà
nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước khi có căn
cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi
ích hợp pháp của mình".
Các phương thức điều chỉnh nói trên được triển khai theo hai kiểu khác
nhau. Kiểu thứ nhất dựa trên nguyên tắc: "Được làm tất những gì mà pháp

luật không cấm". Theo đó, chủ thể được tiến hành bất kỳ một hoạt động nào
miễn là không rơi vào những trường hợp mà pháp luật cấm đoán. Kiểu thứ hai
dựa trên nguyên tắc "chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép” tức là chủ
thể chỉ được tiến hành những hoạt động mà pháp luật quy định [94, tr. 286].
Mỗi kiểu điều chỉnh nói trên có những ưu thế riêng của mình. Nếu như
kiểu thứ nhất mở ra một phạm vi rộng lớn cho tính tích cực, chủ động của các
chủ thể khi tham gia vào các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh thì kiểu
thứ hai có thể xác định phạm vi các quyền được trao cho các chủ thể. Vì thế,
việc sử dụng kiểu điều chỉnh nào cho mỗi loại quan hệ xã hội phụ thuộc vào
đặc điểm của chủ thể cũng như mục đích và ý nghĩa của điều chỉnh pháp luật
đối với các quan hệ xã hội đó.
Bên cạnh đó, do các quan hệ xã hội có tính chất và đặc điểm khác
nhau nên pháp luật điều chỉnh các quan hệ đó bằng những phương pháp khác
nhau mặc dù đều được thể hiện dưới các phương thức và các kiểu điều chỉnh
cụ thể. Trên cơ sở đó, khoa học pháp lý đã xác định hai phương pháp cơ bản
của điều chỉnh pháp luật là phương pháp mệnh lệnh - phục tùng và phương


16

pháp phối hợp - bình đẳng [45, tr. 363], [76, tr. 518]. Phương pháp mệnh lệnh phục tùng thừa nhận sự không bình đẳng của các bên chủ thể trong quan hệ xã
hội, trong đó một bên có chủ thể có quyền đặt ra những mệnh lệnh phù hợp
với pháp luật còn chủ thể kia phải phục tùng những mệnh lệnh đó. Các quan
hệ phát sinh trong hoạt động quản lý nhà nước thường được điều chỉnh bằng
phương pháp này. Còn phương pháp phối hợp - bình đẳng thừa nhận sự bình
đẳng giữa các bên chủ thể tham gia quan hệ xã hội, trong đó các bên tham gia
quan hệ xã hội phối hợp, thỏa thuận với nhau để định đoạt quyền và nghĩa vụ
pháp lý của mình trên cơ sở pháp luật. Các quan hệ dân sự được điều chỉnh bằng
phương pháp này, như quan hệ hợp đồng... Trong những trường hợp khác lại
có sự kết hợp hai phương pháp điều chỉnh trên tạo ra phương pháp hỗn hợp

nhằm đảm bảo cho sự tổn tại và vận động của các quan hệ xã hội theo mục
đích mà nhà nước mong muốn [45, tr. 363]. Ví dụ, trong quan hệ giữa người
lao động và người sử dụng lao động, khi ký kết hợp đồng lao động, các bên chủ
thể dựa trên cơ sở sự bình đẳng, thỏa thuận để xác định các quyền và nghĩa vụ
của mình, nhưng khi thực hiện hợp đồng thì bên sử dụng lao động có quyền
đặt ra quy chế, mệnh lệnh trong khuôn khổ pháp luật và sự thỏa thuận trong hợp
đồng buộc người lao động phải thực hiện. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện,
các bên có thể thỏa thuận với nhau về việc thay đổi các điều khoản của hợp đồng.
Những vấn đề được phân tích ở trên về điều chỉnh pháp luật sẽ là cơ sở
để xây dựng và hoàn thiện các vấn đề lý luận về cơ chế điều chỉnh pháp luât^
Cơ chế điều chỉnh pháp luật là một trong những khái niệm cơ bản
trong hệ các khái niệm khoa học của lý luận về nhà nước và pháp luật. Do tính
chất phức tạp của vấn đề và nhiều lý do khác nên cho đến nay còn có nhiều ý
kiến rất khác nhau về khái niệm cơ chế điều chỉnh pháp luật, thể hiện ở những
quan điểm sau đây:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, cơ chế điều chỉnh pháp luật chính là cơ
chế tác động của pháp luật. Theo đó, cơ chế điều chỉnh pháp luật được hiểu là


17

tổng thể các phương tiện, các hình thái tác động khác nhau của pháp luật lên
các quan hệ xã hội, bao gồm: quy phạm pháp luật, quan hệ pháp luật, các quá
trình thực hiện pháp luật, ý thức pháp luật, văn hóa pháp luật và hoạt động
tuyên truyền và giáo dục pháp luật. Với cách tiếp cận như vậy, quan điểm này
có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn là, nó tạo ra khả năng tìm kiếm các giải
pháp trên nhiều hướng khác nhau để đưa pháp luật đi vào cuộc sống. Tuy
nhiên, do xuất phát từ sự đồng nhất "điều chỉnh pháp luật" với "tác động pháp
luật", cho rằng: "Điều chỉnh pháp pháp luật cần được hiểu là nó được thực
hiện bằng pháp luật và toàn bộ các phương tiện tác động của pháp luật lên

các quan hệ xã hội" [93, tr. 5], nên quan điểm này đã mở rộng phạm vi của
khái niệm cơ chế điều chỉnh pháp luật tới mức dung hợp vào đó cả những yếu
tố nằm ngoài nội dung của khái niệm điều chỉnh pháp luật; chưa phân định rõ
chức năng điều chỉnh với chức năng giáo dục của pháp luật và do đó, việc xác
định các thành tố hợp thành cơ chế điều chỉnh pháp luật cũng như xác định và
giải quyết các mối quan hệ giữa chúng đã gặp phải những khó khăn nhất định.
Quan điểm thứ hai cho rằng, cơ chế điều chỉnh pháp luật được hiểu
theo hai nghĩa rộng và hẹp. Theo nghĩa rộng, cơ chế điều chỉnh pháp luật bao
gồm toàn bộ các hiện tượng pháp lý mà sự vận động của chúng có ảnh hưởng
đến nhận thức và hành vi của chủ thể pháp luật. Theo nghĩa hẹp, cơ chế điều
chỉnh là quá trình mà nhờ đó có được sự tác động của pháp luật đối với các
quan hệ xã hội mà cụ thể là sự tác động bằng các quy phạm pháp luật và được
bảo đảm bằng quyền lực nhà nước [99, tr. 286]. Quan điểm này đã chú trọng
đến các khía cạnh tâm lý, xã hội của điều chỉnh pháp luật. Như vậy, nếu xét
theo nghĩa rộng thì khái niệm cơ chế điều chỉnh pháp luật được hiểu tương tự
như quan điểm thứ nhất; còn nếu xét theo nghĩa hẹp thì lại có mâu thuẫn là đã
quá đề cao vai trò của nhà nước, chưa tính đến tích tích cực của các chủ thể
pháp luật khác, dẫn đến khó khăn khi đi giải quyết-Rhững vấn ềề e4~tírih thống
1 TRƯƠNG t)H u . \T K ' ;■;c i

nhất và toàn diện của cơ chế điều chỉnh pháp luật.-------;;------.------ -

T H Ư V iỀ M r ; A p VĨẺN
sò í
V—

____________________________

,



18

Quan điểm thứ ba cho rằng, cơ chế điều chỉnh pháp luật bao gồm hai
bộ phận là: phương thức điều chỉnh pháp luật, được thể hiện trong các quy
phạm pháp luật, là cơ sở để các chủ thể lựa chọn cách xử sự phù hợp với yêu
cầu của pháp luật (cho phép, bắt buộc hoặc cấm đoán) và phương thức thực
hiện hành vi, thể hiện trong các xử sự cụ thể của con người, trong đó chủ thể
pháp luật chủ động thực hiện, phải thực hiện hoặc phải kiềm chế việc thực
hiện một hành vi nào đó. Đổng thời, theo quan điểm này, giữa hai phương
thức đó lại tồn tại các khâu trung gian: chủ thể pháp luật, sự kiện pháp lý,
quan hệ pháp luật [97, tr. 55]. Quan điểm này đã nhấn mạnh tính cấu trúc của
phạm trù cơ chế điều chỉnh pháp luật, xác định đặc điểm riêng của các bộ
phận trong cấu trúc đó, tạo ra cơ sở cho việc tiếp cận và giải quyết các vấn đề
cơ bản thuộc nội dung của khái niệm này. Tuy nhiên, do quan điểm này phân lập
phương thức điều chỉnh pháp luật và phương thức thực hiện hành vi pháp luật
của chủ thể và xác định chủ thể pháp luật, sự kiện pháp lý và quan hệ pháp luật
chỉ là khâu trung gian giữa hai phương thức đó, nên chưa giải quyết được mối
quan hệ tương tác giữa các thành tố cấu thành cơ chế điều chỉnh pháp luật.
Một quan điểm khác cho rằng, cơ chế điều chỉnh pháp luật là hệ thống
các phương tiện pháp luật đặc thù có quan hệ mật thiết với nhau, được nhà
nước sử dụng để tác động lên các quan hệ xã hội nhằm tạo ra một trật tự pháp
lý nhất định, làm cho khoảng cách giữa pháp luật trên giấy, pháp luật thực
định và pháp luật trên thực tế, pháp luật trong cuộc sống ngày càng thu nhỏ lại
và tiến tới xóa bỏ hoàn toàn [35, tr. 26]. Quan điểm này có nhiều yếu tố hợp
lý, nhất là đã chú trọng tính hiệu quả của pháp luật, tạo cơ sở cho việc tiếp cận
và giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn pháp lý khác để đề xuất những
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của pháp luật. Tuy nhiên, nếu chỉ quan
niệm cơ chế điều chỉnh pháp luật là hệ thống phương tiện pháp luật... được
nhà nước sử dụng, thì chưa đầy đủ, chưa thấy hết tính toàn diện và trạng thái

"động" của của cơ chế điều chỉnh pháp luật.


19

Ngoài ra, cơ chế điều chỉnh pháp luật còn được tiếp cận dưới các góc
độ khác. Chẳng hạn, dưới góc độ tâm lý học, cơ chế điều chỉnh pháp luật là
cơ chế tác động đến ý chí của con người nhằm tạo ra xử sự thích hợp của chủ
thể [78, tr. 240]; dưới góc độ xã hội, cơ chế điều chỉnh pháp luật nằm trong cơ
chế xã hội, tức là cơ chế tác động của các quy phạm pháp luật lên các quan hệ
xã hội [38, tr. 434], [78, tr. 241]; dưới góc độ chức năng, cơ chế điều chỉnh
pháp luật là hệ thống các phương tiện pháp luật tác động đến các quan hệ xã
hội thông qua chủ thể [38, tr. 434], [78, tr. 240]...
Từ điển bách khoa Việt Nam định nghĩa: Cơ chế điều chỉnh pháp luật
là hệ thống các biện pháp pháp luật tác động đến các quan hệ xã hội, bao gồm
toàn bộ những mối quan hệ tác động lẫn nhau giữa các bộ phận cấu thành: chủ
thể pháp luật, quy phạm pháp luật và sự kiện pháp lý. Thông qua đó, các bộ
phận cấu thành của quá trình điều chỉnh pháp luật liên kết với nhau trong quan
hệ pháp luật cụ thể với những quyền và nghĩa vụ pháp lý [36, tr. 612].
Mỗi quan điểm nêu trên đều có những yếu tố hợp lý, nhưng cũng có
những hạn chế nhất định. Để có quan niệm đúng về cơ chế điều chỉnh pháp luật,
theo chúng tôi cũng cần làm rõ nội dung ngữ nghĩa của nhóm từ cơ chế điều
chỉnh pháp luật; xác định rõ cấu trúc nội dung của khái niệm; phân tích một cách
toàn diện những đặc trưng chung của khái niệm đó cũng như những đặc điểm
riêng của từng bộ phận hợp thành và mối quan hệ tương tác cơ bản giữa chúng.
Trước hết, thuật ngữ "cơ c h ê thường được sử dụng cùng với các thuật
ngữ khác để tạo nên những khái niệm chuyên môn của các lĩnh vực khoa học
khác nhau. Chẳng hạn, kinh tế học có "cơ chế kinh tế"; "cơ chế quản lý kinh
tế", tâm lý học có "cơ chế kích thích - phản ứng", trong lĩnh vực cơ khí có "cơ
chế vận hành của một hệ thống máy móc", chính trị học có "cơ chế thực hiện

quyền lực"... và trong khoa học pháp lý chúng ta có "cơ chế điều chỉnh pháp
luật", "cơ chế áp dụng pháp luật"... Tuy nhiên, nội dung của thuật ngữ "cơ
chê11được giải thích rất khác nhau.


20

Trong tiếng Nga, cơ c/ỉế(MexaHM3M) được giải thích theo hai nghĩa,
thứ nhất là cơ cấu bên trong của máy móc hoặc thiết bị mà làm cho máy móc
hoặc thiết bị đó hoạt động và thứ hai là cấu trúc bên trong, phương thức vận
hành của một bộ máy của một kiểu hoạt động nào đó [105, tr. 203]. Trong
tiếng Anh, thuật ngữ này cũng được giải thích với hai nghĩa khác nhau: "Cơ
chế (mechanism) là hệ thống các bộ phận hoạt động cùng nhau trong một cỗ
máy" và "Cơ ch ế là một quá trình tự nhiên hoặc được thiết lập nhờ đó một
hoạt động nào đó được tiến hành hoặc được thực hiện” [123, tr. 1148-1149].
Trong tiếng Việt, cơ ch ế được các nhà ngôn ngữ học giải thích là cách thức
theo đó một quá trình được thực hiện [86, tr. 207]. Tuy nhiên, nghiên cứu
trong lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là khi xây dựng khái niệm "cơ chế kinh tế" và
"cơ chế quản lý kinh tế", các nhà kinh tế học cho rằng: "Cơ chế là khái niệm
dùng đ ể chỉ sự tương tác giữa các yếu tố kết thành một hệ thống mà nhờ đó hệ
thông có thể hoạt động" [54, tr. 6].
Như vậy, cơ c h ế luôn được giải thích gắn liền với hoạt động của một
hộ thống các bộ phận tác động qua lại lẫn nhau trong quá trình hoạt động của
chúng. Vì vậy, theo chúng tồi, thuật ngữ "cơ chể' chứa đựng hai nội dung đó
là cấu trúc của một chỉnh thể bao gồm nhiều bộ phận khác nhau hợp thành có
mối liên hệ mật thiết với nhau và phương thức vận hành hay hoạt động của chỉnh
thể đó, tức là sự tương tác giữa các bộ phận trong cấu trúc của chỉnh thể theo
những nguyên tắc và quá trình xác định nhằm đạt được một kết quả nhất định.
Như đã phân tích ở phần trước, điều chỉnh pháp luật được thực hiện
thông qua hành vi của các chủ thể tham gia các mối quan hệ xã hội, vì thế

mục đích của điều chỉnh pháp luật chỉ có thể đạt được khi nó được thể hiện
thành hành vi thực tế của các chủ thể pháp luật. Tuy nhiên, để có được hành vi
xử sự thực tế của các chủ thể, điều chỉnh pháp luật được tiến hành thông qua
các quá trình phức tạp từ việc mô hình hóa hành vi của chủ thể gắn với những
điều kiện và hoàn cảnh nhất định đến việc cá biệt hóa các mô hình hành vi đó


21

thành những xử sự trong những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể và thực hiện các
biện pháp để các chủ thể tiến hành đúng các xử sự đó trên thực tế. Quá trình
này phụ thuộc vào đặc điểm của từng loại, nhóm và từng mối quan hệ xã hội
mà pháp luật điều chỉnh cũng như mục đích mà nhà nước mong muốn đạt
được khi thực hiện sự điều chỉnh bằng pháp luật các quan hệ xã hội đó.
Để tiến hành các hoạt động này, đòi hỏi nhà nước với tư cách là chủ
thể của quá trình điều chỉnh pháp luật phải dựa vào các phương tiện pháp luật
khác nhau. Nhờ vào các phương tiện này, nhà nước có thể đạt được mục đích
của mình khi thực hiện việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, đồng thời các
chủ thể pháp luật cũng thỏa mãn được lợi ích của mình khi tham gia vào các
mối quan hệ xã hội trên cơ sở sự đảm bảo của nhà nước.
Các phương tiện pháp luật có vị trí và vai trò rất khác nhau trong quá
trình điều chỉnh pháp luật. Thông qua sự tác động qua lại giữa các phương tiện
đó, pháp luật từng bước đi vào đời sống xã hội.
Với ý nghĩa đó, cơ chế điều chỉnh pháp luật là hệ thống các phương
tiện pháp luật có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại với nhau trong
một th ể thông nhất theo một quá trình nhất định đ ể điều chỉnh các quan hệ
xã hội VỚI sự đảm bảo của nhà nước nhằm đạt những mục đích xác định.
Khái niệm này thể hiện ba nội dung cơ bản của cơ chế điều chỉnh
pháp luật:
Thứ nhất, cơ chế điều chỉnh pháp luật là một hệ thông các phương tiện

pháp luật có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại với nhau trong một thể
thống nhất, theo một quá trình xác định.
Để thực hiện sự điều chỉnh pháp luật, nhà nước phải dựa vào các quy
phạm pháp luật, quan hệ pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật... Thông qua đó
làm cho pháp luật có "cuộc sống thực" trong đời sống xã hội chứ không phải
là pháp luật "trên giấy", tức là nhà nước dựa vào các phương tiện pháp luật cụ
thể để điều chỉnh các quan hệ xã hội.


22

Các phương tiện pháp luật tham gia vào quá trình điều chỉnh các quan
hệ xã hội có mối liên hệ mật thiết với nhau tạo thành một hệ thống thống nhất,
mỗi phương tiện đó như là một bộ phận cấu thành của hệ thống có chức năng
riêng để đảm bảo cho pháp luật từng bước đi vào đời sống xã hội. Trong đó,
quy phạm pháp luật là khuôn mẫu chung cho hành vi của chủ thể; quan hệ
pháp luật là quan hệ xã hội cụ thể mà nội dung là quyền và nghĩa vụ pháp lý
của chủ thể đã được pháp luật quy định... Khi các chủ thể tham gia vào các
quan hệ pháp luật một cách hợp pháp thì các khuôn mẫu chung trở thành
quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể; việc thực hiện pháp luật là làm cho
các quyền và nghĩa vụ đó trở thành hành vi thực tế của các chủ thể.
Mối liên hệ mật thiết giữa các phương tiện pháp luật được biểu hiện ở
vai trò của các phương tiện đó đối với nhau và đối với toàn bộ sự vận hành của
cơ chế, trong đó phương tiện này là tiền đề cho sự tham gia của các phương tiện
khác trong quá trình điều chỉnh pháp luật. Nhờ mối liên hệ tác động qua lại giữa
các phương tiện pháp luật mà quá trình điều chỉnh pháp luật được thực hiện.
Thứ hai, sự tác động lẫn nhau giữa các phương tiện pháp luật trong cơ
ch ế điều chỉnh pháp luật được thực hiện thông qua hoạt động của các chủ thể
tham gia các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh.
Như đã phân tích ở trên, kết quả của điều chỉnh pháp luật chỉ đạt được

khi chủ thể thực hiện trên thực tế hành vi cụ thể mà pháp luật quy định. Mặc
dù pháp luật do nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện, nhưng pháp luật chỉ
đi vào đời sống xã hội thông qua hoạt động của các chủ thể. Hoạt động của
các chủ thể pháp luật như tham gia quan hệ pháp luật, thực hiện quyền và
nghĩa vụ pháp lý... làm cho các quy phạm pháp luật từng bước trở thành cách
xử sự cụ thể và cuối cùng là được thể hiện thành hành vi cụ thể của các chủ
thể đó trên thực tế. Nhờ những hoạt động đó mà quá trình điều chỉnh pháp luật
diễn ra, đổng thời cũng nhờ vào hoạt động của các chủ thể pháp luật mà các
phương tiện pháp luật có mối liên hệ tác động lẫn nhau.


23

Vai trò của các chủ thể trong cơ chế điều chỉnh pháp luật không chỉ
được biểu hiện ở tính tích cực của các chủ thể trong việc thực hiện quyền và
nghĩa vụ pháp lý của mình mà trong một chừng mực nào đó, các chủ thể còn
được nhà nước trao quyền để tiến hành những hoạt động cụ thể (chẳng hạn,
trong trường hợp áp dụng pháp luật) hoặc được chủ động trong việc xác định
các quyền và nghĩa vụ của mình trên cơ sở các quy phạm pháp luật (ví dụ,
tham gia quan hệ hợp đồng). Chính những hoạt động đó làm cho cơ chế điều
chỉnh pháp luật được vận hành tạo ra trật tự xã hội theo mục đích đã định trước.
Thứ ba, nhà nước với tư cách là chủ thể của điều chỉnh pháp luật là
nhân tố đảm bảo cho cơ chế điều chỉnh vận hành trên cơ sở tính tích cực của
các chủ thể pháp luật.
Nhà nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản
chứa đựng các quy phạm pháp luật. Hoạt động ban hành pháp luật của các cơ
quan này không chỉ khởi động cho cơ chế điều chỉnh pháp luật vận hành mà
còn định hướng cho các chủ thể tham gia quan hệ xã hội thực hiện các quy
phạm pháp luật. Hoạt động đó của nhà nước cùng với tính tích cực của chủ thể
và các điều kiện cần thiết làm cho các quy phạm pháp luật có thể được thực hiện

trên thực tế. Chẳng hạn, việc quy định quyền của chủ thể hay các nghĩa vụ gắn
liền với lợi ích của họ nhằm kích thích chủ thể tự giác thực hiện trên cơ sở sự
đảm bảo của nhà nước mà không cần một biện pháp cưỡng chế nào đối với họ.
Nhà nước xác định những phương pháp, phương thức và các kiểu điều
chỉnh cụ thể của pháp luật đối với các quan hệ xã hội để định ra phương thức
vận hành của cơ chế điều chỉnh pháp luật. Chẳng hạn, đối với các quan hệ
phục tùng, với một bên chủ thể của quan hệ mang quyền lực nhà nước, sẽ dẫn
đến việc sử dụng phương pháp mệnh lệnh phục - tùng và việc xác định quyền
và nghĩa vụ của bên mang quyền lực nhà nước dựa trên nguyên tắc "chỉ được
làm những gì mà pháp luật cho phép". Trên cơ sở đó bên mang quyền lực nhà
nước sẽ xác định quyền và nghĩa vụ của chủ thể kia. Ngược lại, trong quan hệ


×