Phần mở đầu
Từ khi hình thành thị trường, chủ đề về các trung gian tài chính luôn là một lĩnh
vực đặc thù thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu, hơn nữa luôn luôn mang danh
"cầm trịch thị trường" bởi các vai trò và tác động to lớn đối với thị trường nói riêng và
nền kinh tế nói chung. Trung gian tài chính hình thành từ khá lâu, qua mỗi giai đoạn
của nền kinh tế cũng như các cuộc cách mạng công nghiệp đều mang những đặc điểm
riêng biệt, phù hợp với từng hoàn cảnh cũng như tính chất của cuộc cách mạng. Các
nghiên cứu về trung gian tài chính đa phần đi sâu vào sự hình thành, đặc điểm, tác
động của chúng, tuy nhiên, vẫn chưa thực sự làm rõ được tính ưu việt của đối tượng
này tại hoàn cảnh là cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0 so với các cuộc cách mạng
công nghiệp trước đó.
Quan tâm đến trung gian tài chính, không thể bỏ qua được những bước tiến của
nó qua thời kỳ mới, cũng là cách để tận dụng tốt nhất tính ưu việt cũng như tác động
tốt mà chúng đem lại cho thị trường, và hạn chế tối đa ảnh hưởng tiêu cực. Đây cũng
là cách để các nhà nghiên cứu tài chính (finance specialists) dễ dàng nắm bắt và lên
những kế hoạch tốt nhất thích nghi với sự thay đổi thị trường.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đang cố gắng đa dạng hóa những tài liệu nghiên
cứu về hệ thống trung gian tài chính, bằng cách tìm hiểu và đưa ra các ưu việt của
trung gian tài chính trong giai đoạn cách mạng công nghiệp 4.0. Chúng ta biết rằng,
nếu nắm được thật rõ bản chất của trung gian tài chính, ta sẽ có hướng đi tốt để phát
triển và ngày càng mở rộng chúng trong tương lai. Đặc biệt với Việt Nam, đất nước có
tính riêng biệt và đặc thù trong các khâu của quản lý tài chính thì càng cần có những
nghiên cứu riêng và phù hợp nhất có thể.
Chính vì vậy, nhóm chúng tôi chọn "Hệ thống các trung gian tài chính của Việt
Nam trong bối cảnh CMCN 4.0" làm đề tài nghiên cứu. Do vốn kiến thức vẫn còn hạn
chế, chưa bao quát được toàn bộ tình hình thực tế tại Việt Nam, nghiên cứu này của
chúng tôi chắc chắn sẽ có nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp của độc
giả.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: Tổng quan nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
1. Tổng quan nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và khung phân tích
1.1. : Tổng quan nghiên cứu
Nghiên cứu về hệ thống trung gian tài chính có khá nhiều công trình nghiên cứu
trong và ngoài nước.
Bài đăng trên Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ số 14 năm 2019, TS.
Nguyễn Thanh Nhàn và Ths. Vũ Thị Kim Oanh đã nhấn mạnh vai trò đặc
biệt quan trọng của hệ thống trung gian tài chính trong huy động và phân bổ
có hiệu quả các nguồn vốn trong nền kinh tế. Đồng thời, hai tác giả cũng đề
cao sự cần thiết của việc nghiên cứu về thực trạng khu vực tài chính ở Việt
Nam để từ đó đưa ra những khuyến nghị hình thành các chỉ tiêu cảnh báo
sớm hướng tới ổn định tài chính.
Trước hết, phải kể đến nghiên cứu của King & Levine (1993) về vai trò của trung
gian tài chính đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế. Trong đó, tác giả đã chỉ ra, phát
triển trung gian tài chính có liên hệ chặt chẽ với tăng trưởng GDP bình quân đầu
người, tỷ lệ tích luỹ vốn vật chất, và tăng hiệu quả thu hút vốn vật chất của nền kinh tế.
Beck, Levine & Loayza (2000) đã xem xét tác động, ảnh hưởng của trung gian
tài chính. Theo đó, trung gian tài chính có tác động tích cực đến nhân tố năng suất tổng
hợp (TFP), tăng trưởng vốn vật chất và tăng tỷ lệ tiết kiệm tư nhân.
Schumpeter (1911) thông qua nghiên cứu của mình, đã chỉ ra rằng: Trung gian tài
chính, bằng các dịch vụ của nó đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng và thiết yếu
cho sự đổi mới và phát triển kinh tế
Nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh M. Keynes (1883 - 1946) trong công trình
về trung gian tài chính đã đi sâu vào nghiên cứu vai trò của quản lý nhà nước đối với
hệ thống trung gian tài chính. Ông bảo vệ quan điểm: Nhà nước can thiệp vào các lĩnh
vực hoạt động của ngân hàng để kiểm soát rủi ro qua các quy định giới hạn lĩnh vực
công việc, Nhà nước quản lý chặt chẽ tỷ lệ lãi suất. Như vậy, M. Keynes đã đi sâu vào
ủng hộ cho sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế nói chung và hệ thống trung
gian tài chính nói riêng mà không thực sự đi sâu vào phân tích hệ thống trung gian tài
chính.
Trong tác phẩm Financial markets and institutions, tác giả Anthony Saunders đã
phân tích những bộ phận cấu thành của TTTC và mối quan hệ giữa các bộ phận.
Anthony cho rằng các trung gian tài chính (gồm ngân hàng và các định chế tài chính
khác) có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của TTTC. Ông đi sâu nghiên cứu
và phân tích vai trò, tác động to lớn của trung gian tài chính đối với TTTC như vai trò
quan trọng trong việc huy động và cung cấp các nguồn lực tài chính để phục vụ nhu
cầu phát triển kinh tế và xã hội. TTTC là công cụ quan trọng của Nhà nước thực hiện
các chính sách tài chính và chính sách tiền tệ nhằm điều hành và quản lý tốt hơn nền
kinh tế thị trường. TTTC có vai trò kiểm soát về luồng dịch chuyển tài chính từ đó có
cơ cấu phân bổ hợp lý các nguồn lực của nhà nước theo ngành nghề phù hợp. Nhưng
cùng với sự chuyển động của thời gian và sự phát triển của khoa học công nghệ, điển
hình là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, những nghiên cứu trên ít nhiều mất đi tính
cập nhật.
1.1.2. Nghiên cứu trong nước
1.1.3. Kết luận rút ra từ các nghiên cứu trước đây và tìm ra khoảng trống nghiên
cứu
Các công trình nghiên cứu trên, hoặc đi sâu vào mối quan hệ giữa hệ thống trung
gian tài chính và GDP, hoặc quá đề cao vai trò của Nhà nước trong tư cách là công cụ
quản lý, điều hành hoạt động của trung gian tài chính thông qua những chính sách,
điều lệ. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của Khoa học - Công nghệ, chưa có công
trình nghiên cứu nào đào sâu về hệ thống trung gian tài chính trong bối cảnh Cách
mạng công nghiệp 4.0.
1.2. : Cơ sở lý thuyết
1.2.1: CMCN 4.0
Tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) lần thứ 46 đã chính thức khai mạc tại thành
phố Davos-Klosters của Thụy Sĩ, với chủ đề “Cuộc CMCN lần thứ 4”, Chủ tịch Diễn
đàn Kinh tế Thế giới đã đưa ra một định nghĩa mới, mở rộng hơn khái niệm Công
nghiệp 4.0 của Đức. Nhân loại đang đứng trước một cuộc cách mạng công nghiệp mới,
có thể thay đổi hoàn toàn cách chúng ta sống, làm việc và các mối quan hệ với nhau.
Quy mô, phạm vi và sự phức tạp của lần chuyển đổi này không giống như bất kỳ điều
gì mà loài người đã từng trải qua. CMCN 4.0 (hay CMCN lần thứ 4) là sự ra đời của
một loạt các công nghệ mới, kết hợp tất cả các kiến thức trong lĩnh vực vật lý, kĩ thuật
số, sinh học và ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực, nền kinh tế, các ngành kinh tế và
các ngành công nghiệp. Trong bài viết của mình, tác giả Ths Trần Thị Lương cho rằng:
CMCN 4.0 không chỉ là số hóa, internet hóa các thiết bị mà còn là sự hội tụ, dung hợp
nhiều công nghệ và tương tác của chúng trên nhiều lĩnh vực với quy mô rộng lớn như:
dữ liệu lớn; trí thông minh nhân tạo; vạn vật kết nối, tự động hóa, rô bốt hóa, phương
tiện không người lái; công nghệ in 3D, công nghệ thực tế ảo kết hợp với các công nghệ
sinh học, công nghệ nano…
CMCN lần thứ 4 là cuộc CM được nảy nở từ cuộc CMCN lần thứ 3, kết hợp các
công nghệ lại với nhau, trong khi CMCN lần thứ 1 và thứ 2 lần lượt dựa trên cơ sở là
năng lượng nước và ứng dụng điện năng. Đây là bước tiến lớn trong lịch sử các cuộc
cách mạng công nghiệp của loài người tính đến nay.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 1 diễn ra vào khoảng những năm 1784, với
đặc trưng là việc sử dụng năng lượng nước, hơi nước và cơ giới hóa sản xuất. Cuộc
cách mạng công nghiệp này được đánh dấu bởi dấu mốc quan trọng là việc James Watt
phát minh ra động cơ hơi nước năm 1784. Phát minh vĩ đại này đã châm ngòi cho sự
bùng nổ của công nghiệp thế kỷ 19 lan rộng từ Anh đến châu Âu và Hoa Kỳ. Cuộc
cách mạng công nghiệp đầu tiên đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại –
kỷ nguyên sản xuất cơ khí, cơ giới hóa. Nó khiến lực lượng sản xuất được thúc đẩy
phát triển mạnh mẽ, tạo nên tình thế phát triển vượt bậc của nền công nghiệp và nền
kinh tế.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2 ra đời từ khoảng năm 1870 đến khi Thế
Chiến I nổ ra. Đặc trưng của cuộc cách mạng công nghiệp lần này là việc sử dụng
năng lượng điện và sự ra đời của các dây chuyền sản xuất hàng loạt trên quy mô lớn.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai diễn ra khi có sự phát triển của ngành điện,
vận tải, hóa học, sản xuất thép, và (đặc biệt) là sản xuất và tiêu dùng hàng loạt. Cuộc
CMCN lần thứ 2 đã tạo nên những tiền đề mới và cơ sở vững chắc để phát triển nền
công nghiệp ở mức cao hơn nữa. Yếu tố quyết định của cuộc cách mạng này là chuyển
sang sản xuất trên cơ sở điện – cơ khí và sang giai đoạn tự động hóa cục bộ trong sản
xuất, tạo ra các ngành mới trên cơ sở khoa học thuần túy, biến khoa học thành một
ngành lao động đặc biệt. Cuộc cách này đã mở ra kỷ nguyên sản xuất hàng loạt, được
thúc đẩy bởi sự ra đời của điện và dây chuyền lắp ráp.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3 xuất hiện vào khoảng từ 1969, với sự ra
đời và lan tỏa của công nghệ thông tin (CNTT), sử dụng điện tử và công nghệ thông
tin để tự động hóa sản xuất. Cuộc cách mạng này thường được gọi là cuộc cách mạng
máy tính hay cách mạng số bởi vì nó được xúc tác bởi sự phát triển của chất bán dẫn,
siêu máy tính, máy tính cá nhân (thập niên 1970 và 1980) và Internet (thập niên 1990).
Cuộc cách mạng này đã tạo điều kiện tiết kiệm các tài nguyên thiên nhiên và các
nguồn lực xã hội, cho phép chi phí tương đối ít hơn các phương tiện sản xuất để tạo ra
cùng một khối lượng hàng hóa tiêu dùng. Kết quả, đã kéo theo sự thay đổi cơ cấu của
nền sản xuất xã hội cũng như những mối tương quan giữa các khu vực I (nông - lâm thủy sản), II (công nghiệp và xây dựng) và III (dịch vụ) của nền sản xuất xã hội
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 lần đầu tiên được đưa ra tại Hội chợ công
nghiệp Hannover tại Cộng hoà Liên bang Đức vào năm 2011. Công nghiệp 4.0 nhằm
thông minh hoá quá trình sản xuất và quản lý trong ngành công nghiệp chế tạo, tạo
điều kiện mới thuận lợi cho việc tạo ra các nhà máy thông minh, sự phát triển của
internet và những lĩnh vực dịch vụ, ghép nối di động... Thúc đẩy chuyển đổi kỹ thuật
số của sản xuất thông qua thích hợp hệ thống và quy trình thông qua hệ thống máy tính
được kết nối qua chuỗi cung ứng và giá trị. Có thể thấy rằng, các công nghệ của cuộc
cách mạng công nghiệp 4.0 này có tính kế thừa và phát huy từ 3 cuộc cách mạng công
nghiệp trước. Trong đó, việc can thiệp của máy tính đã tiến lên tầm cao mới với kết
nối internet đã biến đổi mọi công nghệ nhanh hơn.
CMCN 4.0 riêng biệt so với các cuộc cách mạng trên các lĩnh vực khác bởi
TÍNH KẾT NỐI, TỰ ĐỘNG HÓA VÀ XÓA NHÒA RANH GIỚI giữa tất cả các lĩnh
vực.
Tốc độ là yếu tố then chốt. Trong bài phát biểu mở màn cho sự kiện đầu tiên
trong khuôn khổ Hội nghị diễn đàn kinh tế thế giới về ASEAN (WEF ASEAN) 2018,
chủ tịch WEF ASEAN Klaus Schwa đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của tốc độ trong
CMCN 4.0. Khi ông còn làm một kỹ sư, ông đã được chứng kiến sự thay đổi ấy:
những thứ mà vài năm trước tưởng chừng như bất khả thi, thì chỉ vài năm sau đã trở
thành hiện thực. Tiến sĩ Vũ Tiến Lộc - Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp
Việt Nam (VCCI) phát biểu tại Hội nghị Thượng đỉnh Kinh doanh Việt Nam (VBS)
2018 tổ chức tại Hà Nội: "Trong cách mạng công nghiệp 4.0 yếu tố quyết định chiến
thắng trên thị trường đó là tốc độ." Trong cuộc CMCN lần thứ hai, mất 70 năm để 50%
hộ gia đình Mỹ trang bị điện thoại để bàn, nhưng Apple chỉ cần 4 năm để làm công
việc tương tự với sản phẩm iPod. Như vậy có thể thấy rằng, tốc độ là một trong những
yếu tố được đặt lên hàng đầu trong mọi ngành nghề sản xuất hiện nay. Thiếu tốc độ,
mọi thứ đều trở nên lỗi thời, lỗi nhịp với CMCN 4.0.
Ngoài tốc độ, CMCN 4.0 còn có kết hợp giữa hệ thống ảo và thực thể. Cuộc cách
mạng công nghệ lần thứ tư đang làm thay đổi cách thức sản xuất, chế tạo. Trong các
“nhà máy thông minh”, các máy móc được kết nối Internet và liên kết với nhau qua
một hệ thống có thể tự hình dung toàn bộ quy trình sản xuất rồi đưa ra quyết định sẽ
thay thế dần các dây chuyền sản xuất trước đây. Nhờ khả năng kết nối của hàng tỷ
người trên trên thế giới thông qua các thiết bị di động và khả năng tiếp cận được với
cơ sở dữ liệu lớn, những tính năng xử lý thông tin sẽ được nhân lên bởi những đột phá
công nghệ trong các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo, công nghệ người máy, Internet kết
nối vạn vật, xe tự lái, công nghệ in 3 chiều, công nghệ nano, công nghệ sinh học, khoa
học vật liệu, lưu trữ năng lượng và tính toán lượng tử.
1.2.2: Hệ thống trung gian tài chính
Các định chế trung gian tài chính (TGTC) là những tổ chức chuyên hoạt động
trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ có chức năng chủ yếu là chuyển các nguồn vốn tạm
thời nhàn rỗi đến những chủ thể thiếu vốn để đầu tư sản xuất kinh doanh, nhằm mục
đích thu lợi nhuận. Với chức năng hoạt động như vậy, các TGTC đóng vai trò là một
trung gian, cầu nối giữa những người có vốn và những người cần vốn, giúp cho việc
luân chuyển vốn được thuận lợi hơn. Hoạt động huy động và cho vay của các TGTC
có thể diễn ra trực tiếp với các chủ thể kinh tế hoặc thông qua thị trường tài chính. Lợi
nhuận của các TGTC dưới dạng chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động
và các khoản thu phí từ cung cấp các dịch vụ tài chính - tiền tệ.
Các trung gian tài chính bao gồm: các tổ chức nhận tiền gửi (thrift institutions),
các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng (contractual savings institutions) và các trung gian
đầu tư (investment intermediaries).
Các tổ chức nhận tiền gửi là các trung gian tài chính huy động tiền nhàn rỗi
thông qua các dịch vụ nhận tiền gửi rồi cung cấp cho chứng chủ thể cần vốn chủ yếu
dưới hình thức các khoản vay trực tiếp. Không chỉ có vai trò quan trọng trong kênh tài
chính gián tiếp, các tổ chức này còn tham gia vào quá trình cung ứng tiền cho nền kinh
tế. Các tổ chức nhận tiền gửi bao gồm các ngân hàng thương mại (commercial banks),
các tổ chức tiết kiệm (thrift institutions) như các hiệp hội tiết kiệm và cho vay (savings
and loan associations), các ngân hàng tiết kiệm (savings banks) và các quỹ tín dụng
(Credit Funds).
Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng là những TGTC thu nhận vốn theo định kỳ
trên cơ sở các hợp đồng đã ký kết với khách hàng. Do số tiền và thời gian phải thanh
toán có thể dự báo được chính xác nên các trung gian tài chính này có xu hướng đầu tư
vốn thu được vào các tài sản có tính lỏng thấp, đặc biệt là các chứng khoán dài hạn
như cổ phiếu, trái phiếu hoặc các khoản vay trả góp mua bất động sản. Các tổ chức tiết
kiệm theo hợp đồng bao gồm các công ty bảo hiểm (bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm tài
sản và tai nạn) và các quỹ trợ cấp hưu trí.
Các trung gian đầu tư là các TGTC chuyên hoạt động trong lĩnh vực đầu tư.
Chức năng chủ yếu của các tổ chức là hỗ trợ cho các chủ thể kinh tế huy động vốn để
đầu tư cho các dự án đầu tư của mình cũng như giúp cho các nhà đầu tư nhỏ có thể đầu
tư trực tiếp các khoản tiền nhàn rỗi vào thị trường vốn. Trên thực tế, các trung gian đầu
tư không đồng thời thực hiện tất cả các chức năng này mà thường xuyên chuyên môn
hóa thực hiện từng chức năng. Trung gian đầu tư bao gồm: Ngân hàng đầu tư
(Investment bank), công ty đầu tư mạo hiểm (venture capital Firms), các quỹ đầu tư
tương hỗ (mutual funds), các quỹ đầu tư tương hỗ trên thị trường tiền tệ (money
market mutual funds) và cuối cùng là các công ty quản lý tài sản (asset management
firms).
TGTC đóng vai trò quan trọng trong việc khuyến khích tiết kiệm xã hội, đáp ứng
nhu cầu đa dạng về vốn của nền kinh tế. Nhờ có chức năng này mà những người cho
vay (thừa vốn) có thể tận dụng tối đa nguồn tài chính của mình, đồng thời những
người đi vay (thiếu vốn) có cơ hội để kinh doanh, phát triển các ý tưởng kinh doanh
mới, từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển, nâng cao hơn nữa đời sống của nhân dân.
Ngoài ra, TGTC cũng khắc phục những hạn chế của kênh tài chính trực tiếp, góp phần
làm giảm chi phí xã hội. Những nhà đầu tư vào các tài sản tài chính phải có được
những kỹ năng cần thiết để đánh giá một khoản đầu tư, phân tích khả năng lợi nhuận,
mức độ rủi ro của từng tài sản tài chính để từ đó ra quyết định mua hoặc bán các tài
sản tài chính. Tuy nhiên, các nhà đầu tư cá nhân thường không có điều kiện để phát
triển những kỹ năng này. Họ thường phải thuê người viết hợp đồng, làm phát sinh chi
phí hợp đồng. Bên cạnh đó, để xác nhận mức độ tin cậy và xử lý những thông tin thu
thập được về tài sản tài chính và về người phát hành tài sản đó, nhà đầu tư cũng phải
bỏ ra một khoảng thời gian và chi phí nhất định, được gọi là chi phí xử lý thông tin.
Các trung gian tài chính, với tư cách là các nhà đầu tư chuyên nghiệp, có thể giảm
thiểu tất cả những chi phí đó do ưu thế về tính tập trung, chuyên môn hoá và quy mô
đầu tư lớn hơn. Đồng thời, TGTC cũng hỗ trợ hệ thống dịch vụ trên thị trường tài
chính.
1.3. : Khung phân tích sử dụng trong bài nghiên cứu
Chương 2: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
2.1. CMCN 4.0 tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của hệ thống trung gian tài
chính Việt Nam.
2.1.1. Các tổ chức nhận tiền gửi
Hiện nay, hệ thống trung gian tài chính Việt Nam đã phát triển đầy đủ 3 loại hình
chủ yếu, bao gồm: các trung gian nhận tiền gửi, các trung gian đầu tư và các tổ chức
tiết kiệm theo hợp đồng. Tuy nhiên, sự phát triển của các loại hình công ty, tổ chức
trung gian tài chính trong mỗi loại là chưa thực sự đầy đủ. Trong đó, loại hình các tổ
chức nhận tiền gửi ở Việt Nam mới chỉ là sự tồn tại các hệ thống ngân hàng. Vì vậy,
xem xét sự phát triển của tổ chức nhận tiền gửi ở Việt Nam trong bối cảnh CMCN 4.0
cũng chính là đi nghiên cứu sự phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong
CMCN 4.0.
2.1.1.1 Sự phát triển của hệ thống ngân hàng trong bối cảnh CMCN 4.0
CMCN 4.0 đang diễn ra trên 3 lĩnh vực chính gồm Công nghệ sinh học, Kỹ thuật
số và Vật lý. Trong đó, những yếu tố cốt lõi của Kỹ thuật số sẽ là: Trí tuệ nhân tạo
(AI), Vạn vật kết nối - Internet of Things (IoT) và dữ liệu lớn (Big Data). Thế giới
ngày càng trở nên phẳng hơn và công nghệ đang làm thay đổi mạnh mẽ hoạt động
truyền thống của mọi ngành, lĩnh vực trong đời sống xã hội. Hầu như mọi khía cạnh
trong cuộc sống của chúng ta đều bị tác động: công việc, mô hình kinh doanh, cấu
trúc, tương tác xã hội, hệ thống quản trị… Sự phát triển của công nghệ cùng với việc
áp dụng rộng rãi những tiến bộ của CMCN 4.0 vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội đã,
đang và sẽ tiếp tục mang đến những thay đổi chưa từng có cả về chiều rộng và chiều
sâu trong mọi lĩnh vực, làm mờ đi ranh giới giữa thế giới thực và thế giới ảo.
Hệ thống trung gian tài chính là một thành phần của nền kinh tế, lĩnh vực hoạt
động có tính liên thông và ứng dụng công nghệ ở mức độ cao, là mạch máu của xã hội
nên chịu ảnh hưởng mạnh mẽ và bắt buộc phải chuyển mình theo CMCN 4.0.
Có thể thấy, làn sóng công nghệ từ CMCN 4.0 mang đến những cơ hội lớn cho
hệ thống ngân hàng Việt Nam trong quá trình phát triển trên nhiều khía cạnh như: Gia
tăng việc tiếp cận thị trường quốc tế cho các ngân hàng thương mại trong nước; Tăng
cường khả năng ứng dụng công nghệ hiện đại; Nâng cấp sản phẩm dịch vụ ngân hàng
theo hướng hiện đại, hiệu quả hơn để gia tăng lợi nhuận. Từ đó giúp các ngân hàng
Việt Nam nâng mình lên một tầm cao mới, phát triển và nâng cao sức cạnh tranh với
các ngân hàng tiên tiến trong khu vực và trên thế giới.
Cụ thể như, các công nghệ số, công nghệ mới gắn với CMCN 4.0 không chỉ giúp
chuyển dịch kênh phân phối sản phẩm, dịch vụ ngân hàng truyền thống từ các chi
nhánh, quầy giao dịch, ATM vật lý sang các kênh số hóa, giúp tương tác khách hàng
nhiều và hiệu quả hơn; mà còn có khả năng thay đổi mô hình kinh doanh, quy trình
nghiệp vụ, cấu trúc sản phẩm, dịch vụ theo hướng số hóa, giúp các ngân hàng từng
bước trở thành ngân hàng số, cung cấp tiện ích, trải nghiệm mới mẻ và đem lại lợi ích
thiết thực cho khách hàng.
Với sự phát triển mạnh mẽ của CMCN 4.0, các ngân hàng bước đầu tiếp cận và
mở rộng cung ứng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng phù hợp đến những người dân
hiện chưa có tài khoản ở vùng sâu, vùng xa với chi phí hợp lý, góp phần đẩy mạnh phổ
cập tài chính quốc gia.
Trên nền tảng công nghệ 4.0 cùng với việc tận dụng những thế mạnh của kinh tế
quy mô, kinh tế chia sẻ, việc triển khai ứng dụng công nghệ số kỹ thuật cao liên quan
đến kết nối internet, điện toán đám mây, công nghệ cảm biến, thực tế ảo… sẽ giúp
giảm thiểu chi phí giao dịch, vận chuyển, quản lý, góp phần tiết kiệm về mặt tài chính
cho các ngân hàng Việt Nam.
Hình 1. Dự báo số người dùng dịch vụ ngân hàng số tại Châu Á (theo McKinsey
2015) (đơn vị tính: triệu người)
Công nghệ số sẽ góp phần thay đổi dịch vụ, doanh thu và hiệu quả kinh doanh.
Đến năm 2018, việc kinh doanh sử dụng công nghệ số sẽ đóng góp 44% doanh thu
ngân hàng (so với mức 32% năm 2014 theo Tập đoàn BamBoo Capital). Đến năm
2020, tài sản do các chuyên gia tư vấn trực tuyến tự động (robo-adviser) quản lý sẽ
tăng 68%/năm, lên đến 2.200 tỷ USD (theo công ty tư vấn kinh doanh AT Kearney
2015); 60% đầu tư công nghệ thông tin (CNTT) sẽ dành cho điện toán đám mây (theo
IDC 2015). Bên cạnh đó, việc lưu trữ dữ liệu lớn và phân tích kinh doanh (business
analytics) sẽ giúp nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Ứng dụng công nghệ 4.0 sẽ giúp ngân hàng nâng cao lợi nhuận, đảm bảo tính sẵn
sàng cao cho hệ thống trong việc đáp ứng nhu cầu sử dụng các dịch vụ ngân hàng điện
tử của khách hàng. Khi sự minh bạch ngày càng rõ hơn, người tiêu dùng Việt Nam có
nhiều cơ hội tiếp cận hơn với các dịch vụ tài chính hàng đầu trong và ngoài nước. Từ
đó giúp các ngân hàng trong nước nâng lên một tầm cao mới, phát triển và cạnh tranh
với các ngân hàng tiên tiến trong khu vực và thế giới.
Tuy nhiên, CMCN 4.0 cũng tạo ra một số thách thức đối với lĩnh vực thanh toán
và hoàn thiện hành lang pháp lý, phục vụ hoạt động thanh toán điện tử. Trong đó,
khuôn khổ pháp lý và cơ chế chính sách liên quan đến các dịch vụ, phương tiện thanh
toán trực tuyến, điện tử mới, hiện đại, tiền ảo, thẻ ảo, tiền điện tử,… là những vấn đề
mới và phức tạp, cần được tiếp tục nghiên cứu, đánh giá, sửa đổi, bổ sung để đáp ứng
yêu cầu thực tế và sự phát triển nhanh chóng của CNTT và viễn thông.
Riêng đối với các tổ chức tín dụng, thách thức còn tồn tại là việc mô hình kinh
doanh, quản trị và thanh toán có thể cần được xem xét lại để phù hợp với xu hướng
quản trị thông minh trí tuệ nhân tạo (AI), mô hình ngân hàng di động, ngân hàng
không giấy, ngân hàng số, thanh toán điện tử. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu, tối đa hóa
trải nghiệm của khách hàng trong lĩnh vực thanh toán để đáp ứng nhu cầu đòi hỏi ngày
càng cao của khách hàng trong thời đại CMCN 4.0.
Đặc biệt, sự phát triển ngày càng tinh vi của công nghệ số cũng kéo theo sự gia
tăng lỗ hổng bảo mật, khiến tội phạm công nghệ cao hoạt động ngày càng thường
xuyên. Đối với lĩnh vực thanh toán, tội phạm trong lĩnh vực công nghệ cao, thanh toán
thẻ qua POS, thanh toán điện tử gần đây có những diễn biến phức tạp với những hành
vi, thủ đoạn mới, tinh vi hơn. Do vậy, thách thức cho toàn bộ ngành Ngân hàng Việt
Nam nói chung và cho lĩnh vực thanh toán nói riêng trong bối cảnh CMCN 4.0 chính
là vấn đề an toàn cho hệ thống ngân hàng, hệ thống thanh toán, vấn đề bảo mật thông
tin và vấn đề về các loại tội phạm công nghệ cao, cũng như thách thức về trình độ,
năng lực, số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ CNTT, đào tạo cán bộ, nhân viên có
đủ trình độ vận hành, làm chủ công nghệ mới…
2.1.1.2 Xu hướng ứng dụng một số công nghệ đặc trưng của CMCN 4.0 trong hệ
thống ngân hàng Việt Nam trong tương lai
Hệ thống ngân hàng Việt Nam đang có những bước tiếp cận nhanh chóng với
CMCN 4.0 khi nhu cầu ứng dụng và phát triển công nghệ cao trong hoạt động của các
ngân hàng tại Việt Nam đang tăng cao để tự phát triển và cạnh tranh với các ngân hàng
tiên tiến trong khu vực và thế giới. Theo kết quả khảo sát của Viện Chiến lược ngân
hàng được thực hiện vào tháng 5/2017 vừa qua tại 18 Hội sở chính các NHTM, 1 ngân
hàng chính sách xã hội, 4 ngân hàng 100% vốn nước ngoài và 2 tổ chức tài chính vi
mô (đại diện cho 65% tổng tài sản của ngành ngân hàng), 92% ngân hàng trả lời đang
có những chuẩn bị về đầu tư đổi mới công nghệ và phát triển kênh bán hàng qua công
nghệ số để đón nhận và thích ứng với những bước tiến đang đến của CMCN 4.0 và
76% chuẩn bị về thu hút lao động trong lĩnh vực kỹ thuật – công nghệ cao & công
nghệ thông tin. Đặc biệt, 96% các ngân hàng hiện nay đang xây dựng chiến lược phát
triển công nghệ cao/công nghệ đặc trưng của CMCN 4.0 đến năm 2025, trong đó có 03
ngân hàng (NHTMCP Việt Nam Thịnh Vượng, NHTMCP Tiên Phong, NH HSBC) có
chiến lược phát triển về robot tự động và tiên tiến. Như vậy, với việc đón nhận những
tiến bộ khoa học công nghệ, những thông tin, tri thức, các dịch vụ tiên tiến… từ cuộc
CMCN 4.0, các ngân hàng Việt Nam sẽ có cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế, học hỏi
trình độ quản trị điều hành và kinh doanh tiên tiến, phát huy tiềm năng to lớn về lĩnh
vực tài chính ngân hàng và có những thay đổi kịp thời với xu thế công nghệ mới. Tuy
nhiên, nhìn vào xuất phát điểm của Việt Nam khi lực lượng lao động dồi dào nhưng
thiếu lao động chất lượng cao, trước tốc độ thay đổi nhanh chóng và tác động sâu rộng
của CMCN 4.0, các ngân hàng Việt Nam cũng sẽ không tránh khỏi những khó khăn
nếu như muốn ứng dụng một số công nghệ đặc trưng của CMCN 4.0 như blockchain,
robot tự động hay big data. Do vậy, các ngân hàng Việt Nam cần phải lưu ý một số
điểm sau:
– Chủ động nắm bắt và chuẩn bị các điều kiện cần thiết để các ngân hàng Việt
Nam có thể tận dụng được những cơ hội tốt và hạn chế những khó khăn thách thức sẽ
gặp phải khi hòa nhập cùng CMCN 4.0.
– Phát triển những giải pháp công nghệ thông tin mới, đẩy mạnh ứng dụng Big
data trong phân tích và quản lý dữ liệu: Lượng dữ liệu đầu vào tăng nhanh theo cấp số
nhân đòi hỏi các ngân hàng cần phải nghiên cứu và ứng dụng các kỹ thuật mới, hiện
đại như Big data để thu thập, lưu trữ, xử lý, phân tích và chiết suất số liệu từ nhiều
nguồn khác nhau một cách nhanh chóng, chính xác và bảo mật, hỗ trợ cho việc đưa ra
quyết định kinh doanh và tạo lợi thế cạnh tranh. Trong thời gian tới, các ngân hàng cần
quan tâm đến đầu tư xây dựng trung tâm dữ liệu, dành một khoản đầu tư riêng cho
việc nâng cấp hệ thống dữ liệu và tăng cường việc ứng dụng các giải pháp công nghệ
của Big data trong phân tích và quản lý dữ liệu.
– Nghiên cứu khả năng ứng dụng các công nghệ mới từ CMCN 4.0 (robot tự
động, blockchain) để phát triển các dịch vụ tài chính: Hiện nay, các quốc gia đi đầu về
tiếp cận CMCN 4.0 coi việc ứng dụng công nghệ blockchain và robot tự động như một
xu hướng ứng dụng đầy hứa hẹn cho việc tối ưu hóa lợi nhuận thông qua phát triển các
loại hình dịch vụ tài chính với khách hàng (giao tiếp, tư vấn, thanh toán, cho vay…)
hay sử dụng hiệu quả các thao tác nghiệp vụ của ngân hàng (tính toán, ghi sổ, đối
chiếu tài khoản, thực hiện giao dịch, kiểm tra báo cáo, quản lý hóa đơn, xử lý thanh
toán, tìm kiếm thông tin, dữ liệu, giám sát rủi ro…). Tuy nhiên, các ngân hàng tại Việt
Nam nên xem xét khả năng và nguồn lực cũng như mục đích và định hướng phát triển
của mình để triển khai những ứng dụng công nghệ mới này.
– Chú trọng quản lý an ninh mạng: CMCN 4.0 đã đẩy cao mức độ chia sẻ thông
tin từ đó tạo ra một nhu cầu rất lớn về an ninh mạng. Theo đó, các ngân hàng cần đặc
biệt quan tâm đến việc xây dựng trung tâm Dự phòng dữ liệu (Disaster Recovery);
nâng cấp hệ thống an ninh, bảo mật ở mức cao, đảm bảo việc mở rộng phạm vi hoạt
động (nếu có) được ổn định, an toàn, mang lại hiệu quả lâu dài, đáp ứng.
2.1.2. Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng
Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng được biết đến là các trung gian tài chính mà
nhiệm vụ chủ yếu và thường xuyên là thu nhận vốn một cách định kì trên cơ sở hợp
đồng bảo hiểm nhằm chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia bảo hiểm. Các tổ chức
này có thể lượng hóa được các khoản chi trả cho việc hạn chế, phòng ngừa, khắc phục
những tổn thất do các rủi ro gây ra, do đó, có thể xác định lượng tiền đầu tư vào các tài
sản kém lỏng hơn thị trường tài chính, đặc biệt là các chứng khoán dài hạn như trái
phiếu, cổ phiếu hay các khoản vay trả góp mua bất động sản. Các tổ chức này bao gồm
công ty bảo hiểm, các quỹ trợ cấp tư nhân, các quỹ hưu trí mà điển hình nhất là các
công ty bảo hiểm.
Các công ty bảo hiểm là một định chế tài chính trung gian thực hiện việc huy
động vốn bằng cách bán các hợp đồng bảo hiểm, đồng thời sử dụng vốn vào các hoạt
động đầu tư, bù đắp cho người mua bảo hiểm khi có rủi ro xảy ra theo các điều khoản
ký kết trong hợp đồng bảo hiểm. Công ty bảo hiểm thực hiện chức năng trung gian tài
chính bằng cách sử dụng phí bảo hiểm đã thu được thông qua việc bán các hợp đồng
bảo hiểm để đầu tư kinh doanh sinh lời. Từ kết quả hoạt động đầu tư sinh lời ấy, công
ty bảo hiểm sử dụng để thanh toán cho các khoản tổn thất rủi ro bất ngờ trong phạm vi
được quy định trong hợp đồng bảo hiểm.
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là xu thế tất yếu của thời đại, hướng khách
hàng đến chuẩn mực tận hưởng mọi dịch vụ trên nền tảng CNTT. Ngành bảo hiểm
cũng không nằm ngoài xu thế ấy, ngược lại công nghệ thông tin đóng vai trò vô cùng
quan trọng, là yếu tố quyết định tới quản trị hệ thống và khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp bảo hiểm trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Nếu như
Singapore có tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm lên đến 80%, Malaysia 75% thì Việt
Nam chỉ mới có 8% - một khoảng trống rất lớn cho doanh nghiệp khai thác. Và tất
nhiên, có rất nhiều doanh nghiệp bảo hiểm trong và ngoài nước đã nhìn thấy sự báu bở
của mảnh đất màu mỡ ấy. Lợi thế sẽ dành cho những doanh nghiệp nhanh nhạy, mạnh
dạn thử sức ứng dụng công nghệ 4.0 để để mang lại cho khách hàng những trải nghiệm
ngày một thuận tiện hơn, thú vị hơn và nhanh hơn khi sử dụng sản phẩm, dịch vụ bảo
hiểm tài chính.
Trong bối cảnh CMCN 4.0, công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ, mang lại
cho lĩnh vực bảo hiểm nhiều lợi ích như gia tăng kênh bán hàng, phương tiện tương
tác, cơ hội có được dữ liệu toàn diện, đẩy mạnh kênh phân phối qua giao dịch điện tử,
đồng thời giúp các doanh nghiệp tiết kiệm chi phí, nguồn nhân lực thực hiện công
đoạn bán hàng. Khách hàng cũng sẽ chủ động tìm hiểu các nguồn thông tin về sản
phẩm bảo hiểm đáp ứng nhu cầu đa dạng của họ.
Tại Việt Nam, không ít doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) đã nhanh nhạy đón đầu
xu thế để tận dụng lợi thế của cuộc CMCN 4.0 thông qua việc đẩy mạnh ứng dụng kỹ
thuật số vào hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Trong số các DNBH tiên phong đón đầu cuộc CMCN 4.0 phải kể đến một số tên
tuổi lớn, hàng đầu trên thị trường bảo hiểm Việt Nam như Tập đoàn Bảo Việt. Năm
2018, Bảo Việt sẽ tiếp tục tập trung đầu tư hoàn thiện hạ tầng công nghệ thông tin tiên
tiến, hiện đại, đẩy mạnh triển khai các dự án công nghệ thông tin trọng điểm nhằm đáp
ứng yêu cầu cạnh tranh trong xu hướng CMCN 4.0, góp phần nâng cao chất lượng của
công tác quản trị điều hành tập trung và thúc đẩy hoạt động kinh doanh của toàn hệ
thống, tạo điều kiện cung cấp cho khách hàng các dịch vụ tài chính trực tuyến trọn gói
và đáp ứng yêu cầu cạnh tranh trong xu hướng CMCN 4.0.
Minh chứng cho chiến lược này của Bảo Việt là việc ngày 1/2/2018, Tổng Công
ty Bảo hiểm Bảo Việt (Bảo hiểm Bảo Việt) –đơn vị thành viên của Tập đoàn Bảo Việt
đã tiên phong và chính thức ký kết hợp đồng hợp tác cùng MoMo – Công ty Fintech
cung cấp giải pháp ví điện tử an toàn. Kế hoạch này nằm trong định hướng phát triển
bền vững thông qua việc ứng dụng thành quả công nghệ của cuộc CMCN 4.0 trong
hoạt động kinh doanh để mang lại cho khách hàng những trải nghiệm ngày một thuận
tiện hơn, thú vị hơn và nhanh hơn khi sử dụng sản phẩm, dịch vụ bảo hiểm tài chính.
Có thể thấy, việc một doanh nghiệp lớn như Bảo hiểm Bảo Việt hợp tác với 1 startup
về Fintech có uy tín tại Việt Nam đã cho thấy bước chuyển mình mạnh mẽ, sẵn sàng
đón đầu CMCN 4.0 để mang sản phẩm gần hơn, tiện lợi hơn, thông minh hơn đến cho
khách hàng trong thời đại số hoá.
Với thỏa thuận này, Bảo hiểm Bảo Việt đã trở thành công ty bảo hiểm đầu tiên ký
kết hợp tác bán trực tuyến các sản phẩm của mình trên ứng dụng ví MoMo - kênh phân
phối chính thức cho các sản phẩm bảo hiểm cá nhân của Bảo hiểm Bảo Việt như: Bảo
hiểm xe ô tô, xe máy, bảo hiểm sức khỏe, ung thư, bảo hiểm du lịch… Khách hàng có
thể chủ động lựa chọn và trực tiếp mua sản phẩm bảo hiểm của Bảo Việt thông qua
ứng dụng ví điện tử MoMo, đồng thời được trải nghiệm quy trình đặt mua và thanh
toán trực tuyến khép kín, vô cùng nhanh chóng, tiện lợi với các tiêu chuẩn đảm bảo an
toàn bảo mật quốc tế chỉ bằng một chạm trên di động. Việc hợp tác chiến lược này
không chỉ mang đến giải pháp toàn diện trong việc mua bán, thanh toán không tiền
mặt - xu hướng tất yếu trong thời đại 4.0 – đối với các sản phẩm bảo hiểm cần thiết
cho cuộc sống, mà còn thể hiện rõ định hướng phát triển lâu dài dựa nền tảng công
nghệ thông tin.
Ngoài ra, có thể kể đến một số trường hợp điển hình khác như Công ty bảo hiểm
nhân thọ FWD Việt Nam hiện đã số hóa toàn bộ quy trình nghiệp vụ, hay Công ty
Prudential Việt Nam trong năm 2017 cũng đã giới thiệu giải pháp công nghệ ứng dụng
trên nền tảng AI và Big Data như chatbox tư vấn bảo hiểm PRUbot hay tương tác với
khách hàng thông qua facebook, website. Theo thống kê của Prudential trong năm
2017, đã có gần 290.000 lượt tin nhắn trò chuyện của khách hàng với PRUbot...
Trong bối cảnh CMCN 4.0, công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ, mang lại
cho lĩnh vực bảo hiểm nhiều lợi ích như gia tăng kênh bán hàng, phương tiện tương
tác, cơ hội có được dữ liệu toàn diện, nâng cao hiệu quả hoạt động của DNBH…
Theo các chuyên gia bảo hiểm, cuộc CMCN 4 với các ứng dụng công nghệ hiện
đại sẽ giúp các DNBH đẩy mạnh kênh phân phối qua giao dịch điện tử, đồng thời giúp
các DNBH tiết kiệm chi phí nguồn nhân lực thực hiện công đoạn bán hàng. Khách
hàng cũng sẽ chủ động tìm hiểu các nguồn thông tin về sản phẩm bảo hiểm đáp ứng
nhu cầu đa dạng của họ...
Theo Viện Chiến lược và Chính sách tài chính (Bộ Tài chính), CMCN 4.0 sẽ ảnh
hưởng đến mọi mặt của ngành Bảo hiểm, bởi các công đoạn của một chu trình sản
phẩm dịch vụ bảo hiểm (hay chuỗi giá trị bảo hiểm) đều chịu sự ảnh hưởng rất lớn của
kỹ thuật số.
Chẳng hạn, trong giai đoạn tìm hiểu thị trường, thiết kế sản phẩm, dữ liệu lớn
(Big Data), vạn vật kết nối (IoT) mang lại những phân tích đáng tin cậy, nhanh hơn
nhiều so với các phương tiện truyền thống trước đây. Từ đó, các DNBH phát triển
được những sản phẩm bảo hiểm cá thể hoá cao, sản phẩm bảo hiểm cho từng đối
tượng. Đến giai đoạn tiếp thị/chào bán sản phẩm, IoT, mạng xã hội hỗ trợ việc tiếp cận
và tương tác với khách hàng nhanh hơn trước đây rất nhiều. Với trí tuệ nhân tạo (AI)
và Big Data, DNBH cung cấp cho đại lý các thông tin để tối ưu hóa sản phẩm/dịch vụ
đối với mỗi khách hàng với một khoảng thời gian tối ưu. Công nghệ số giúp việc lập
bản chào phí bảo hiểm nhanh, trực tiếp, thủ tục đơn giản hơn, giảm bớt chi phí và thời
gian.
Đến giai đoạn thẩm định rủi ro, tính phí bảo hiểm, Big Data giúp tra xuất dữ liệu
về khách hàng tiện lợi, đầy đủ, khiến việc thẩm định, tính phí bảo hiểm diễn ra nhanh
hơn. Big Data cũng giúp tránh, ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm hoặc hành vi lựa chọn bất
lợi. Đến giai đoạn phục vụ sau bán hàng, các công cụ trực tuyến giúp quản trị hợp
đồng bảo hiểm mọi nơi, mọi lúc, rất thuận tiện cho khách hàng. Các dịch vụ 24/7, sử
dụng AI trả lời những thắc mắc của khách hàng; công nghệ định vị, địa phương hóa, cá
thể hoá chăm sóc khách hàng...
Trên đây là một số ví dụ về những công ty bảo hiểm lớn hiện nay trên thị trường
tích cực áp dụng công nghệ vào trong các hoạt động của mình. Ngoài những mặt tích
cực trên, cuộc CMCN 4 với các ứng dụng công nghệ hiện đại cũng có khả năng gây ra
nguy cơ giảm việc làm cho người lao động khi người dân lựa chọn hình thức giao dịch
điện từ nhiều hơn cho nhu cầu mua bảo hiểm. Các DNBH cũng đối mặt với nguy cơ an
ninh mạng, mất các cơ sở dữ liệu cá nhân... Trong khi đó, việc ứng dụng công nghệ
thông tin vào công tác quản lý giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm đối với cơ
quan giám sát bảo hiểm cũng cao hơn nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra.
Cuộc Chạy đua ứng dụng công nghệ lĩnh vực bảo hiểm chắc chắn sẽ làm thay đổi
thị trường bảo hiểm Việt Nam. Doanh nghiệp bảo hiểm nào không chuẩn bị để song
hành cùng bước tiến của thị trường sẽ bị tụt lùi, thậm chí bị xóa sổ. Trong thời gian tới,
để đón đầu cuộc CMCN 4.0, các cơ quan quản lý và DNBH cần phải tiếp tục tái cơ
cấu DNBH, tăng cường quản lý giám sát giao dịch, an toàn tài chính các DNBH, đổi
mới các sản phẩm dịch vụ, đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Ngoài ra, doanh nghiệp
cần chuẩn bị tốt quy trình quản lý rủi ro, đặc biệt là rủi ro hệ thống và rủi ro bán hàng
để sẵn sàng triển khai áp dụng trên thực tế, bước đầu đối với những sản phẩm bảo
hiểm đơn giản. Các DNBH cần đầu tư một hệ thống công nghệ hiện đại, một cơ sở dữ
liệu đầy đủ để các có thể thiết kế chi tiết mỗi rủi ro được bảo hiểm, quyền lợi bảo hiểm
rất đa dạng để thu hút khách hàng lựa chọn...
2.1.3. Các trung gian đầu tư.
Các trung gian đầu tư là các trung gian tài chính chuyên hoạt động trên lĩnh vực
đầu tư. Chức năng chủ yếu của yếu của các tổ chức này là hỗ trợ cho các chủ thể kinh
tế huy động vốn để tài trợ cho các dự án đầu tư của mình cũng như giúp các nhà đầu tư
nhỏ có thể đầu tư trực tiếp khoản tiền nhàn rỗi vào thị trường vốn. Khác với các ngân
hàng nhận tiền gửi và cho vay, khác với các tổ chức bảo hiểm nhận vốn định kỳ trên
cơ sở hợp đồng, các trung gian đầu tư nhận vốn bằng các phát hành các chứng khoán.
Trung gian đầu tư bao gồm các công ty tài chính, ngân hàng đầu tư, quỹ tường hỗ và
công ty chứng khoán.
Hiện thị trường Việt Nam chưa có cho vay tự động (digital lending) đúng nghĩa,
theo đó người vay có thể yêu cầu vay và nhận được kết quả phê duyệt vay thông qua
ứng dụng số mà không cần hẹn gặp mặt và hỗ trợ từ nhân viên tổ chức tín dụng. Tuy
nhiên, các công ty tài chính đang ngày một nỗ lực để áp dụng công nghệ tiên tiến nhất
cho mục tiêu tăng cường trải nghiệm khách hàng và hiệu quả hoạt động.
FE CREDIT hiện là công ty duy trì vị trí tiên phong trong ngành tài chính tiêu
dùng bằng cách không ngừng đầu tư vào nền tảng công nghệ số nhằm tối ưu trải
nghiệm người dùng và quy trình cho vay. Chỉ với thao tác đơn giản, người dùng đã có
thể ngay lập tức trò chuyện trực tuyến với nhân viên chăm sóc khách hàng khi có nhu
cầu. Hiện FE CREDIT dã ứng dụng kho dữ liệu khổng lồ (Big data), số hóa dữ liệu,
vào các quy trình nghiệp vụ cho vay và hơn nữa sẽ ứng dụng trí tuệ nhân tạo và nhận
diện ký tự thông minh và từ kho dữ liệu sinh trắc học được tối ưu hóa. Công ty hiện
đang đưa vào thử nghiệm công nghệ nhận diện khuôn mặt và kiểm tra chất lượng hình
ảnh, giúp nhận dạng khách hàng một cách nhanh chóng và chính xác, tiết kiệm thời
gian và nhân lực.
"Công nghệ sẽ chỉ thuần túy là công nghệ nếu không có những sáng tạo mang
tính thực tiễn của con người trong việc áp dụng công nghệ. FE CREDIT ý thức được
điều này nên công ty đã không ngừng nghiên cứu và chọn ra những giải pháp công
nghệ phù hợp nhất để đào sâu tính hiệu quả giúp tối ưu hóa trải nghiệm người dùng và
tăng hiệu quả làm việc của nhân viên cũng như giúp cắt giảm chi phí vận hành" - ông
Nguyễn Thiện Tâm - Giám đốc Trung tâm sáng kiến FE CREDIT, chia sẻ.
Rõ ràng, tốc độ phát triển của khoa học công nghệ đang làm thay đổi sâu sắc các
trung gian tài chính của nước ta. Trước yêu cầu cấp bách,có khá nhiều trung gian đã
chấp nhận thay đổi và tìm kiếm cách thức phù hợp để theo kịp xu hướng
Chương 3: Kết luận và gợi ý chính sách
3.1 Kết luận
Tóm lại, qua các nghiên cứu cũng như phân tích rõ về đối tượng, ta có thể rút ra
những kết luận sơ bộ về hệ thống trung gian tài chính trong cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0 tại Việt Nam.
Trước hết, từ nhận thức về tính ưu việt trong thời đại mới, chúng ta phải nhận ra
được những cơ hội cho ngành tài chính ngân hàng cũng như nắm bắt được những cơ
hội ấy:
- Hiện nay Việt Nam có quan hệ ngoại giao, thương mại với hầu hết các quốc gia
và vùng lãnh thổ trên thế giới, tham gia vào phần lớn các Hiệp định thương mại tự do
(FTA) có quy mô lớn trên thế giới, sự hiện diện của CMCN 4.0 sẽ là cơ hội cho không
chỉ các tổ chức tài trung gian tài chính lớn mà toàn hệ thống có thể vươn ra khỏi lãnh
thổ, mở rộng phạm vi hoạt động và tạo dựng thương hiệu quốc tế trong điều kiện sân
chơi kinh doanh bình đẳng mang tính toàn cầu, có tính chuyên nghiệp cao. Điều này sẽ
mở ra cơ hội lớn cho khu vực tài chính – ngân hàng bắt kịp trình độ thế giới, mở rộng
thị trường, đóng góp cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Với công nghệ di động phát triển, các trung gian tài chính có thể khai thác tệp
khách hàng mới, vốn là những người trước đây chưa sử dụng các sản phẩm dịch vụ
ngân hàng, thông qua các ứng dụng ngân hàng trên di động mà không cần tới chi
nhánh vật lý. Công nghệ chính là cánh tay nối dài giúp các trung gian tiếp cận tốt,
vươn xa và rộng hơn tới các khu vực chưa có chi nhánh, tới các khách hàng mới mà
không cần phải bỏ ra nhiều chi phí để xây dựng các chi nhánh vật lý.
- Nhu cầu ứng dụng và phát triển công nghệ cao trong hoạt động của trung gian
tài chính tại Việt Nam đang tăng cao. Điều tra của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, có
những ngân hàng dự kiến sẽ đầu tư 8% - 10% tổng chi phí hoạt động hằng năm cho
công nghệ thông tin. Những tiến bộ từ cuộc cách mạng công nghệ số và tiếp theo là
cuộc CMCN 4.0 sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam có cơ hội thu hút vốn đầu tư,
tiếp cận thị trường quốc tế; cập nhật được trình độ quản trị điều hành và kinh doanh
hiện đại; tiếp thu những mô hình ngân hàng số thông minh; đổi mới công nghệ nhờ
việc ứng dụng hay chuyển giao công nghệ cao, phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân
hàng hiện đại, phát huy tiềm năng to lớn về lĩnh vực tài chính – ngân hàng và có
những thay đổi kịp thời với xu thế công nghệ mới khi Việt Nam đã gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới và ký kết một loạt FTA, đặc biệt là FTA Việt Nam - Liên minh
kinh tế Á - Âu, hay FTA Việt Nam - Hàn Quốc, FTA Việt Nam - Nhật Bản... Sự phát
triển của công nghệ trong cuộc CMCN 4.0 sẽ cho ra đời các công nghệ mới, giúp cho
các tổ chức tài chính ngân hàng tăng hiệu quả kinh doanh, giảm chi phí giao dịch.
- Công nghệ hiện đại không chỉ đẩy mạnh được hoạt động kinh doanh, giảm chi
phí giao dịch mà còn tăng tính bảo mật, giao dịch minh bạch và an toàn hơn với những
công nghệ mới như blockchain, sinh trắc học trong thanh toán như sử dụng dấu vân
tay thay thế cho thẻ thanh toán…
- Việc xây dựng một xã hội không tiền mặt đang là cơ hội lớn để các trung gian
tài chính đẩy mạnh việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ của mình. Nhu cầu thanh toán
trực tuyến cũng tăng lên khi hoạt động thương mại điện tử phát triển, công nghệ vạn
vật kết nối internet trở nên thông dụng hơn, và đây cũng là một cơ hội lớn để mở rộng
kinh doanh trong thời kỳ công nghiệp 4.0.
Tuy nhiên, cơ hội bao giờ cũng đi kèm những thách thức, và nếu như không có
những nhận thức cụ thể về các thách thức này, Việt Nam sẽ đứng trong tình trạng “lợi
bất cập hại”, chưa tận dụng được cơ hội đã phải đối mặt với rủi ro.
Có thể điểm mặt những thách thức dễ nhận ra nhất:
- Việt Nam vẫn còn tồn tại rất nhiều vấn đề trong quá trình tiến hành CMCN 4.0.
Một khi chưa tối ưu hóa được quá trình tiến hành tổng thể, thì các lĩnh vực riêng lẻ
như Trung gian tài chính nói riêng, ngành tài chính Ngân hàng nói chung, vẫn chưa thể
phát huy hết tính ưu việt trong thời đại mới so với những cuộc Cách mạng diễn ra
trước đó. Đồng thời, do thiếu chiến lược và tầm nhìn về công nghệ số, hiểu biết hạn
chế về số hóa và các tiềm năng của số hóa cũng đang là những thách thức hạn chế các
trung gian tài chính đầu tư đúng mực vào việc hiện đại hóa hệ thống.
Bên cạnh đó, hiện nay tại Việt Nam các trung gian tài chính vẫn đang sở hữu
những hệ thống máy móc cũ, đặc biệt, nhân sự có năng lực về công nghệ số hiện đại
còn yếu và mỏng, lại chưa phân bố đều, còn thiếu các nhân sự có khả năng nắm bắt và
triển khai các công nghệ số hiện đại trên thế giới và áp dụng một cách tốt nhất tại Việt
Nam
- Vấn đề thứ hai chính là bảo mật hệ thống - cũng đang là vấn đề khiến hầu hết
các trung gian tài chính trên toàn cầu, trong đó có Việt Nam phải quan tâm rất nhiều
khi trình độ của các tổ chức tấn công mạng, trình độ của tội phạm cũng cao hơn rất
nhiều, cùng với đó, bên cạnh mức độ toàn cầu hóa cao mà cuộc CMCN 4.0 đem lại thì
việc tấn công vào ngành tài chính ngân hàng tại Việt Nam không còn chỉ gói gọn trong
phạm vi trong nước mà tại bất kỳ một quốc gia nào, tội phạm cũng có thể tấn công.
- Vấn đề thứ ba chính là sự cạnh tranh đến từ các công ty tài chính công nghệ.
Các trung gian tài chính tại Việt Nam không chỉ đối mặt với cạnh tranh nội tại (tự
mình phải đào thải cái cũ và mở rộng tiếp nhận cái mới) mà còn đối mặt với nhiều sự
lấn lướt của các công ty tài chính có nền tảng công nghệ từ lâu và chịu đổi mới thường
xuyên. Trong khi đó, khả năng vừa tự giải quyết cạnh tranh nội tại vừa phải tìm cách
giải quyết các vấn đề để trở nên thu hút hơn, cạnh tranh cao hơn.
Trên đây là những kết luận chung nhất được rút ra sau quá trình nghiên cứu về
trung gian tài chính trong CMCN 4.0, bao gồm những ưu nhược điểm vốn có hoặc do
môi trường tác động nên. Từ những ưu nhược điểm này ta nhìn rõ hơn về cơ hội mới,
thách thức mới đòi hỏi những nhà hoạch định chính sách thị trường tài chính phải có
những giải pháp tối ưu nhất để tận dụng tối đa những cơ hội và hạn chế thấp nhất
thách thức và rủi ro tài chính. Dưới đây là những giải pháp đề xuất.
3.2 Giải pháp thúc đẩy hoạt động của hệ thống trung gian tài chính tại Việt Nam
trong bối cảnh CMCN 4.0
Để tận dụng ưu thế và hạn chế những tác động tiêu cực của CMCN 4.0 đến lĩnh
vực tài chính, ngân hàng Việt Nam nói chung và hệ thống các trung gian tài chính nói
riêng, các giải pháp cần được tập trung xây dựng một số giải pháp ổn định, phát triển
bền
vững
như
sau:
Một là, đẩy mạnh đổi mới và ứng dụng các công nghệ hiện đại thông qua việc
xây dựng và hoạch định chiến lược về phát triển CNTT của hệ thống trung gian tài
chính. Trong đó, nhiệm vụ xuyên suốt là nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu công
nghệ hiện đại của CMCN 4.0
Hai là, các tổ chức trung gian tài chính nói riêng và các định chế tài chính nói
chung cần tập trung thúc đẩy phát triển, tạo sự bứt phá về hạ tầng công nghệ, hỗ trợ
cho sự phát triển của toàn hệ thống. Về phía NHTM, cần tích cực hơn nữa trong việc
nghiên cứu, ứng dụng các giải pháp, công nghệ mới đột phá như: các giải pháp thanh
toán đổi mới, sáng tạo (thanh toán di động qua mã QR chuẩn hóa, số hóa thông tin thẻ
- Tokenization, công nghệ thanh toán thẻ chíp đối với thẻ nội địa…); nền tảng kết nối,
chia sẻ dữ liệu mở qua giao diện lập trình ứng dụng (open API); các công nghệ mới
như Phân tích dữ liệu lớn (Big Data Analytics), Trí tuệ nhân tạo (A.I)… nhằm cung
cấp các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng tiện lợi, giá cả hợp lý theo hướng số hóa, thông
minh, đem lại lợi ích thiết thực cho khách hàng trong kỷ nguyên số; Đầu tư thích đáng
để có được nguồn nhân lực chất lượng cao..
Ba là, tăng cường ứng dụng chuỗi cung ứng thông minh. CMCN 4.0 sẽ tạo ra
một mô hình chuỗi cung ứng mới gắn kết chặt chẽ hơn với nhu cầu của khách hàng.
Do đó, chuỗi cung ứng mới này sẽ tạo ra một cơ sở dữ liệu duy nhất, làm cho chuỗi
cung ứng thông minh, minh bạch và hiệu quả hơn ở mọi giai đoạn, từ khi phát sinh
nhu cầu cho đến khi bàn giao dịch vụ, sản phẩm. Như vậy, đứng trước kỷ nguyên
CMCN 4.0, các ngân hàng trong nước cần tìm kiếm những giải pháp toàn diện cho
dịch vụ tài chính, ngân hàng thông qua sử dụng các dữ liệu thông minh và hợp tác với
nhiều ngành kinh doanh.
Bốn là, đẩy nhanh tiến độ xây dựng và hoàn thiện chiến lược tài chính toàn diện,
trong đó nhấn mạnh vai trò ứng dụng CNTT, khuyến khích sự phát triển hợp tác giữa
ngân hàng và các công ty tài chính công nghệ Fintech; thúc đẩy hệ sinh thái Fintech
phát triển, trở thành một phần của hệ sinh thái trong chuỗi cung ứng sản phẩm dịch vụ
tài chính, ngân hàng hiện đại. Tăng cường hợp tác với Fintech cũng cần thiết cho các
ngân hàng nhằm tận dụng mô hình kinh doanh tinh gọn, hướng tới trải nghiệm khách
hàng và sự đổi mới, sáng tạo của Fintech kết hợp khai thác ưu thế quản lý rủi ro vững
mạnh, cơ sở khách hàng rộng lớn của các ngân hàng để tạo ra sức mạnh tổng hợp
trong cung ứng dịch vụ, đem lại lợi ích thiết thực về giảm chi phí, tăng tiện ích, thuận
lợi cho khách hàng và góp phần đắc lực phổ cập tài chính địa bàn nông thôn, vùng sâu,
vùng xa.
Năm là, chú trọng quản lý an ninh mạng. CMCN 4.0 đã đẩy cao mức độ chia sẻ
thông tin, từ đó tạo ra một nhu cầu rất lớn về bảo mật và an toàn thông tin. Theo đó,
các ngân hàng và các định chế tài chính cần đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng trung
tâm Dự phòng dữ liệu (khôi phục dữ liệu sau thảm họa); Nâng cấp hệ thống an ninh,
bảo mật ở mức cao; Đảm bảo việc mở rộng phạm vi hoạt động (nếu có) được ổn định,
an toàn, mang lại hiệu quả lâu dài. Các ngân hàng thương mại cần tiếp tục đầu tư nhiều
giải pháp bảo đảm an toàn thông tin, đồng thời tăng cường công tác cảnh báo, khuyến
cáo khách hàng cần cẩn trọng khi giao dịch ngân hàng điện tử. Có thể thấy, muốn thực
hiện tốt việc bảo mật an ninh lĩnh vực ngân hàng - tài chính đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ
từ ba phía: khách hàng, ngân hàng và cơ quan quản lý. Nếu thiếu bất cứ thành phần
nào, việc đảm bảo an toàn an ninh toàn hệ thống sẽ khó thực hiện.
Sáu là, xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực ngành tài chính, ngân
hàng. Trong đó, chú trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực công nghệ cao, tăng khả
năng ứng dụng CNTT. Việc đào tạo, quan tâm tới chất lượng nguồn nhân lực công
nghệ cao được thực hiện trên toàn hệ thống tài chính.
Bảy là, cần tham gia xây dựng khuôn khổ pháp lý hoàn chỉnh cho việc triển khai
và phát triển ngân hàng số. Về phía cơ quan quản lý, để hỗ trợ phát triển ngân hàng số,
NHNN tiếp tục rà soát, chỉnh sửa và hoàn thiện hành lang pháp lý tạo thuận lợi, hỗ trợ
cho sự phát triển, hoạt động của ngân hàng số. Bên cạnh đó, triển khai nâng cấp, hoàn
thiện hạ tầng thanh toán quốc gia quan trọng như: Hệ thống thanh toán điện tử liên
ngân hàng (IBPS)…; đồng thời thúc đẩy việc sớm ra đời và đưa vào vận hành Hệ
thống bù trừ điện tử tự động phục vụ cho các giao dịch thanh toán bán lẻ (ACH) với
tính năng hoạt động 24x7x365, thanh toán thời gian thực, xử lý đa kênh, đa phương
tiện. Ngoài ra, tiếp tục triển khai các mô hình thanh toán mới tại nông thôn, vùng sâu,
vùng xa gắn với việc xây dựng, triển khai Chiến lược Quốc gia về Phổ cập Tài chính
tại Việt Nam; Thúc đẩy thanh toán điện tử dịch vụ công trong khu vực Chính phủ.
NHNN cũng đang nghiên cứu, ban hành Nghị định về cơ chế thử nghiệm cho hoạt
động Fintech trong lĩnh vực ngân hàng; Nghiên cứu ứng dụng công nghệ Blockchain
trong lĩnh vực ngân hàng. Đặc biệt, NHNN tiếp tục mạnh công tác thông tin, tuyên
truyền về thanh toán không dùng tiền mặt, giáo dục tài chính; tăng cường các biện
pháp bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; nâng cao chất lượng, hiệu quả dịch vụ thanh
toán…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ths Vũ Thị Kim Oanh, TS. Nguyễn Thanh Nhàn, Thực trạng khu vực tài chính Việt
Nam và khuyến nghị hình thành các chỉ tiêu cảnh báo sớm. Truy cập ngày 05/09/2019
từ />
2.
Ths Trần Thị Lương (2018), Tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0 đến thị trường
tài chính Việt Nam. Truy cập ngày 05/09/2019 từ />
3.
Chủ tịch WEF ASEAN, Ông Klaus Schwab. Bài phát biểu mở màn cho sự kiện đầu
tiên trong khuôn khổ Hội nghị diễn đàn kinh tế thế giới về ASEAN (WEF ASEAN)
2018 chủ đề “ASEAN 4.0: Tinh thần doanh nghiệp và Cách mạng Công nghiệp lần thứ
4” diễn ra từ ngày 11 - 13/9.
4.
Nguyễn Thắng. (2016) .CMCN4. Một số đặc trưng, tác động, hàm ý chính sách cho
Việt Nam, truy cập ngày 06/09/2019 từ />
5.
Theo Đào Trung Thành .(2019). Tương lai của dịch vị tài chính . Truy cập ngày
06/09/2019,
từ
chinh/1512896.html:
/>