Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Lương Khải Siêu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.57 KB, 8 trang )

Lương Khải Siêu (1873 - 1929)
Lương Khải Siêu (1873 - 1929), tự: Trác Như, hiệu: Nhiệm Công, bút
hiệu: Ẩm Băng Tử, Ẩm Băng Thất chủ nhân. Ông là nhà tư tưởng và là
nhà hoạt động chính trị Trung Quốc thời cận đại.
I. Thân thế và sự nghiệp:
Lương Khải Siêu sinh ngày 23 tháng 2 năm 1873 tại làng Tân Hội, nằm trên
một hòn đảo thuộc Giang Môn, tỉnh Quảng Đông, (Trung Quốc) trong một
gia đình nông dân bậc trung. Cha ông tên là Lương Bảo Anh, mẹ ông là
người họ Triệu. Thuở nhỏ, ông theo học tại Học hải đường Quảng Châu.
1. 1 Theo phái tân học:
Năm 1890, ông đỗ cử nhân. Mùa thu năm 1891, ông đến gặp Khang Hữu Vi
(1858-1927) lúc bấy giờ đang dạy học tại Vạn Mộc thảo đường Quảng
Đông. Nghe ông này bài xích cựu học, Lương Khải Siêu tin theo, tôn Khang
Hữu Vi làm thầy, rồi trở thành người lính xung kích của phái tân học.
Năm 1892, Khang Hữu Vi mở lớp dạy học ở Quảng Đông và làm thư ký cho
thầy trong việc biên soạn sách. Năm 1894, Khang Hữu Vi lên Bắc Kinh, làm
quen với các danh sĩ như Hạ Tăng Hựu, Đàm Tự Đồng,...
1. 2 Cùng thầy đề xướng biến pháp:
Lương Khải Siêu khi còn trẻTháng 7 năm 1894, quân Nhật Bản không tuyên
chiến đã tấn công và đánh chìm quân hạm của Trung Quốc gần ASan (tức
Nha Sơn thuộc Triều Tiên). Sau đó, quân đội nhà Thanh còn đại bại trước
quân đội Nhật thêm mấy trận nữa...
Bị một nước nhỏ là Nhật đánh thua, nhiều kẻ sĩ Trung Quốc bỗng thức tỉnh.
Họ nhận ra rằng cần mà phải thay đổi chế độ và duy tân mọi mặt mới chấn
hưng được nước nhà. Trong số ấy, có Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu là
người hăng hái nhất. Bởi ngay sau đó, nhân đến Bắc Kinh dự thi Hội, Khang
Hữu Vi liền tranh thủ vận động được 1.300 sĩ tử cùng ký tên vào Bức thư
vạn chữ (Vạn ngôn thư) của mình, đề nghị Hoàng đế không phê chuẩn điều
ước Mã Quan với Nhật và cần làm gấp cuộc biến pháp duy tân (nói vắn là
biến pháp). Trong khi đó, Lương Khải Siêu cũng đã thảo thư với nội dung
tương tự, kèm theo chữ ký của 190 cử nhân tỉnh Quảng Đông.


Sau đó, hai thầy trò cùng vào dâng thư, nhưng thư không đến được tay
Hoàng đế, vì bị Viện đô sát ở Thanh đình từ chối. Tuy nhiên, việc làm này
của hai ông đã gây chấn động lớn ở kinh thành. Bởi từ thế kỷ 7, đời Nam
Tống đến bấy giờ (cuối thế kỷ 19), mới lại thấy một phong trào học sinh
dâng thỉnh nguyện lên Hoàng đế.
Tháng 6 năm 1896, Khang Hữu Vi (lúc này đã đỗ Tiến sĩ, đang làm ở bộ
Công) và Lương Khải Siêu lại dâng thư đề nghị biến pháp. Lần này nhờ có
thầy dạy Hoàng đế là Trạng Nguyên Ông Đồng Hòa, giúp đỡ nên thư mới
đến tay Hoàng đế [1].
Sau đó, Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu được Hoàng Đế Quang Tự cho
mời vào cung. Khi nghe hai ông trình bày chủ trương biến pháp xong,
Hoàng đế tỏ ý rất đồng tình.
Để chuẩn bị cho công cuộc biến pháp, tháng 7 năm 1896 tại Bắc Kinh,
Khang Hữu Vi cho ra báo Trung ngoại ký văn (Văn chương chép việc trong
ngoài) và lập Cường học hội vào tháng sau, rồi giao cho Lương Khải Siêu
làm Chủ bút và làm lãnh đạo hội.
Kể từ lúc ấy, Lương Khải Siêu viết báo, dịch sách ở Đại học đường, và cùng
các thành viên trong hội đi diễn thuyết nhiều nơi, lập ra Cường học hội ở các
tỉnh lớn như Thượng Hải, Nam Kinh, Hồ Nam, v.v...Ngoài ra, ông còn cùng
bạn bè là Đàm Tự Đồng, Hoàng Tuân Hiến, Đường Tài Thường, Uông
Khang Niên ra tờ Thời vụ báo (Báo thời sự) ở Thượng Hải và tờ Tương học
báo tại Hồ Nam...
Trên tờ Thời vụ báo, ông lần lượt cho đăng bài Luận báo quán hữu ích vu
quốc sự (Bàn về báo quán có ích lợi cho quốc sự) và Biến pháp thông nghĩa
(Nghĩa chung của biến pháp), gây được tiếng vang trong và ngoài nước.
Trong thời gian này, ông còn soạn bảng Tây học thư mục biểu, liệt kê ra 300
loại sách đã phiên dịch từ tiếng Âu Mỹ ra tiếng Trung Quốc trong hơn 20
năm, để mọi người biết mà tìm đọc.
Phái thủ cựu lo sợ trước ảnh hưởng của của tư tưởng duy tân do hội này đề
ra, nên ra lệnh cấm vào tháng 1 năm 1897. Thế nhưng, các hội vẫn hoạt

động được bằng những tên gọi khác.
Ngày 11 tháng 6 năm 1898 (Mậu Tuất), công cuộc biến pháp bắt đầu bằng
hàng loạt các sắc lệnh của Hoàng đế, như mở trường học, làm đường sắt, cải
cách chế độ thi cử, giảm biên chế các tổ chức hành chính, luyện tập quân đội
theo lối mới, v.v...Trong khoảng chưa đầy ba tháng, hơn một trăm đạo chiếu
được ban ra, làm cho cả trong triều lẫn ngoài tỉnh xôn xao. Đúng là "toàn
biến" và "tốc biến" như khẩu hiệu đã đề ra. Lúc này Khang Hữu Vi và
Lương Khải Siêu đều được Hoàng đế phong chức Kinh khanh để có điều
kiện lo cho công việc.
Cuộc biến pháp đang tiến hành, thì vấp phải sự chống đối mạnh mẽ của phái
thủ cựu (sử gọi là Hậu đảng), mà người đứng đầu là Thái hậu Từ Hi.
Đàm Tự Đồng, một thành viên của phái duy tân, thấy Thái hậu Từ Hi cản trở
công cuộc đổi mới, bèn khuyên Hoàng đế Quang Tự đoạt lấy chính quyền.
Hoàng đế nghe lời bèn triệu Viên Thế Khải lúc đó đang thống lĩnh 7.000
quân về Bắc Kinh bàn việc, có ý dùng quân của Viên để bao vây Di Hòa
Viên.
Chẳng may việc đó bị tiết lộ (chính Viên phản Hoàng đế Quang Tự, vì thấy
Từ Hi và phe cánh của bà hãy còn mạnh)[8]. Thái hậu Từ Hi vội vàng trở về
Bắc Kinh, họp Hoàng đế Quang Tự và các đại thần lại. Quát mắng tất cả một
hồi, bà tuyên bố rằng Hoàng đế đau, bà phải thính chính trở lại, và sai quân
đem giam Hoàng đế Quang Tự ở Doanh Đài, trong hồ Tây Uyển.
Sau đó, bà ban lệnh cấm sĩ dân dâng thư, phế bỏ cục Quan báo, đình chỉ việc
lập học hiệu, dùng lại lối văn tám vế để chọn kẻ sĩ, bỏ khoa thi đặc biệt về
kinh tế, bỏ các tổng cục nông công thương, cấm hội họp, cấm báo quán và
cho truy nã các Chủ bút...Tóm lại là chỉ trong một hai tuần, bà đã làm cuộc
“toàn hủy” và “tốc hủy” các cải cách của Hoàng đế Quang Tự. Sử gọi vụ
đấy là Chính biến Mậu Tuất (1898), là Bách nhật duy tân (Cuộc cải cách
trăm ngày)[2].
1.3 Chạy thoát sang Nhật Bản:
Cuộc biến pháp bị hủy bỏ, những người đề xướng đều bị quan quân đi lùng

bắt. Nhờ hay trước, Khang Hữu Vi trốn vào sứ quán Anh ở Thượng Hải, rồi
sang Nhật. Lương Khải Siêu, sau khi việc xảy ra mới trốn qua đấy. Đàm Tự
Đồng không chịu trốn nên bị giết cùng với năm người nữa, được người đời
gọi tôn là "Lục quân tử" (trong đó có em của Khang Hữu Vi là Khang
Quảng Nhân).
Ở Nhật, Khang Hữu Vi lập đảng Bảo hoàng mong lật đổ Thái hậu Từ Hi,
phò trợ Hoàng đế Quang Tự lên nắm lại vương quyền. Lương Khai Siêu
xuất bản báo Thanh Nghị để ủng hộ Hoàng đế Quang Tự và công kích Từ
Hi. Tức giận, Từ Hi yêu cầu Anh, Nhật giao cả hai cho bà, nhưng không
thành công vì họ coi hai ông là phạm nhân chính trị.
Nhưng không lâu sau, vì thấy cuộc cách mạng Pháp (1789-1799) và sự tranh
giành chính quyền ở các nước thuộc Trung Mỹ, Nam Mỹ gây nhiều chết
chóc và hỗn loạn quá; Khang Hữu Vi bèn đòi Thanh đình phải cải cách quốc
gia theo quân chủ lập hiến. Lương Khải Siêu theo thầy, cho ra tờ Tân Dân
tùng báo để cổ súy cho chính thể này.
Từ đó cho tới năm 1901, Lương Khải Siêu lúc thì ở Nhật, lúc thì ở Hạ Uy Di
(Hawaii), Nam Dương, châu Úc,...viết báo để cảnh tỉnh đồng bào ông.
Việc làm này của hai ông có ít nhiều tác dụng, bởi sau liên quân tám nước
kéo vào Bắc Kinh, dẫn đến hòa ước Tân Sửu (1901), thì Thái hậu Từ Hi
buộc phải cho khôi phục lại những sắc lịnh mà cuộc biến pháp đã đề ra để
mua chuộc lại lòng dân lúc bấy giờ đang oán hận.
Tuy nhiên, việc ban bố Hiến pháp thì mãi đến năm 1908, Thanh đình mới
thực hiện, nhưng liền bị là lập hiến hình thức, bởi quyền vua vẫn còn rất lớn,
mà quyền dân thì rất ít.
Nói gọn, trong 13 năm sống lưu vong, Lương Khải Siêu lập đảng Tiến bộ,
làm báo (làm Chủ bút cho các báo Thanh Nghị báo, Tân Dân tùng báo, Tân
tiểu thuyết) và viết sách cổ vũ cho công cuộc cải cách chính trị ở Trung
Quốc.
Trong khoảng thời gian ở Nhật, Phan Bội Châu (nhà cách mạng Việt Nam)
có đến gặp ông (1905). Nghe lời khuyên của ông, Phan Bội Châu biên soạn

quyển Việt Nam vong quốc sử (Lịch sử mất nước của Việt Nam) nhằm lên
án chế độ thực dân, tuyên truyền cách mạng...và phát động phong trào Đông
Du, tức đưa thanh niên sang Nhật học tập để sau này trở về cứu nước.
1.4 Trở về Trung Quốc:
Năm 1911, cách mạng Tân Hợi thành công tại Trung Quốc. Năm sau, Lương
Khải Siêu trở về nước được nhiều giới hoan nghênh. Ngay trong năm đó,
ông ra tờ Dung Ngôn báo (Tờ báo nói lời tầm thường). Lúc này, Khang Hữu
Vi cũng đã về nước, lại đề xướng chủ trương bảo hoàng (định khôi phục
ngôi vua cho phế đế Phổ Nghi. Sử gọi đây là cuộc vận động phục tịch) có lẽ
vì ông thấy những vụ tranh giành, rối loạn trong những năm đầu Dân quốc
mà thất vọng về chế độ dân chủ [3].
Phần Lương Khải Siêu, bởi tin tưởng Lâm thời đại Tổng thống Viên Thế
Khải, và muốn qua ông này để thực hiện những tư tưởng chính trị của mình,
nên ông đã nhận lời làm Tổng trưởng Tư pháp, chủ trì việc biên soạn hiến
pháp (1913).
Năm sau, ông làm Tổng tài Tệ chế cục. Thấy Viên Thế Khải âm mưu xây
dựng lại nền đế chế, ông phản đối quyết liệt mà không được. Buồn chán, ông
xin từ chức, rồi đem đảng của mình (Tiến bộ đảng) hiệp với Đảng Cách
mạng Trung Hoa (lập năm 1914) của Tôn Dật Tiên để chống lại Viên.
Tháng 6 năm 1916, Viên Thế Khải mất. Lê Nguyên Hồng lên làm Đại tổng
thống. Năm 1917, Lương Khải Siêu được mời làm Bộ trưởng bộ Tài chính
trong nội các của Đoàn Kỳ Thụy.
1.5 Rời bỏ chính trường rồi mất:
Thấy cũng không thực hiện được gì, năm sau ông quyết định rời bỏ chính
trường, qua châu Âu xem xét tình hình thế giới. Năm 1919, ông về nước
chuyên tâm dạy học ở Viện nghiên cứu Thanh Hoa và viết sách.
Ngày 31 tháng 3 năm 1927, Khang Hữu Vi mất. Hai năm sau, ngày 19 tháng
1 năm 1929, Lương Khải Siêu cũng qua đời tại Bắc Kinh ở tuổi 56.
II. Tác phẩm:
Theo thống kê chưa đầy đủ, tác phẩm của Lương Khải Siêu có:

2.1 Triết học, tôn giáo:
-Mặc kinh hiệu thích (Giải thích và hiệu đính kinh điển Mặc Tử)
-Mặc tử học án
-Đại thừa khởi tín luận khảo chứng (Khảo chứng Đại thừa khởi tín luận)
Phật giáo chi sơ thâu nhập
2.2 Sử học:
-Tân sử học
-Trung Quốc sử tự luận
-Trung Quốc chuyên chế chính trị tiến hóa sử luận
-Tiên Tần chính trị tư tưởng sử (Lịch sử tư tưởng chính trị thời Tiên Tần)

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×