Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

sang tao trong ccah mang thang tam 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.75 KB, 12 trang )

NHỮNG SÁNG TẠO CỦA ĐẢNG
VỀ CHIẾN LƯỢC CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
TRONG THỜI KỲ ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
PGS, TS Vũ Quang Hiển
*
Để giải quyết những vấn đề bức thiết của cách mạng thuộc địa, Đảng và Hồ Chí Minh
đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, xác định chiến lược giải phóng dân
tộc đúng đắn, đưa sự nghiệp cứu nước đến thành công.
Sáng tạo, đổi mới thường phải vượt qua những khuôn mẫu giáo điều, đòi hỏi sự dũng
cảm và quyết tâm vượt lên, thậm chí phải trải qua cuộc đấu tranh nội bộ về quan điểm vận dụng
lý luận và nhận thức thực tiễn, có lúc rất gay gắt. Điều đó thể hiện tính chiến đấu và bản lĩnh
chính trị của một chính đảng cách mạng tiên phong.
Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, bằng việc hoạch định và lãnh
đạo thực thi chiến lược giải phóng dân tộc, ngay trong quá trình đấu tranh giành chính quyền,
“Đảng ta đã tiêu biểu cả tinh thần cách mạng của giai cấp và dân tộc, đủ lý thuyết, lãnh đạo
năng lực của toàn dân đánh Pháp, đuổi Nhật, đi đến thực hiện chủ nghĩa cộng sản”
1
.
1. Vận dụng sáng tạo phép biện chứng duy vật để phân tích thực tiễn, xác định
thái độ chính trị của các giai cấp và tính chất xã hội Việt Nam dưới ách thống trị của chủ
nghĩa thực dân
Để xác định đường lối cách mạng Việt Nam, Đảng và Hồ Chí Minh đã tiếp thu bản
chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, sử dụng phép biện chứng duy vật để
phân tích thực tiễn, phân tích các quan hệ giai cấp, xác định mâu thuẫn chủ yếu và tính chất cơ
bản của xã hội Việt Nam dưới ách thống trị của chủ nghĩa thực dân. Tuy nhiên, nhận thức là
một quá trình, có thể phải trải qua những bước quanh co, phụ thuộc vào những điều kiện chủ
quan và khách quan, nhất là khả năng vận dụng và phát triển học thuyết về đấu tranh giai cấp ở
thuộc địa.
Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Bên cạnh các hình thức bóc lột
thực dân, đế quốc Pháp vẫn duy trì hình thức bóc lột theo lối phong kiến, vì thế những quan hệ
kinh tế phong kiến vẫn tồn tại. Đó là điều khác hẳn với các cuộc cách mạng tư sản ở phương


Tây. Xã hội Việt Nam từ một xã hội phong kiến chuyển thành xã hội thuộc địa với những tàn
tích phong kiến nặng nề.
Những chính sách của chủ nghĩa thực dân làm cho cấu trúc của xã hội thuộc địa hoàn
toàn khác xã hội châu Âu tư bản chủ nghĩa. Nếu như ở các nước tư bản, sự phân hóa xã hội đã
đạt tới mức độ cao, với hai giai cấp vô sản và tư sản, thì ở thuộc địa Đông Dương, do kinh tế
chưa phát triển, nên sự phân hóa giai cấp chưa triệt để. "Những địa chủ hạng trung và hạng nhỏ
và những kẻ mà ở đó được coi là đại địa chủ thì chỉ là những tên lùn tịt bên cạnh những người
trùng tên với họ ở châu Âu và châu Mỹ". "Nếu nông dân gần như chẳng có gì thì địa chủ cũng
không có vốn liếng gì lớn..., nếu thợ thuyền không biết mình bị bóc lột bao nhiêu thì chủ lại
*
Đại học Quốc gia Hà Nội
1
không hề biết công cụ để bóc lột của họ là máy móc; người thì chẳng có công đoàn, kẻ thì
chẳng có tơ rớt... Sự xung đột về quyền lợi của họ được giảm thiểu. Điều đó, không thể chối cãi
được". Trái lại, giữa họ vẫn có sự tương đồng lớn: dù là địa chủ hay nông dân, họ đều chịu
chung số phận là người nô lệ mất nước. Vì thế "Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống
như ở phương Tây"
2
.
Giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam rất khác giai cấp tư sản ở các nước tư bản chủ nghĩa.
Họ bị tư bản Pháp chèn ép, cạnh tranh rất gay gắt, nên số lượng không nhiều, thế lực kinh tế
nhỏ bé, thế lực chính trị yếu đuối. Đó là giai cấp bóc lột, song không phải là giai cấp nắm
quyền thống trị xã hội. Là người Việt Nam mất nước, họ có mâu thuẫn với đế quốc về quyền
lợi dân tộc.
Chánh cương vắn tắt của Đảng chỉ rõ: “vì tư bản Pháp hết sức ngăn trở sức sinh sản
làm cho công nghệ bản xứ không thể mở mang được”, “tư bản bản xứ không có thế lực gì”, nên
“không nên nói cho họ đi về phe đế quốc được”
3
. Sự áp bức của chủ nghĩa đế quốc càng nặng
nề thì mâu thuẫn dân tộc càng gay gắt, phản ứng dân tộc càng quyết liệt. Ngay từ khi mới ra

đời, Đảng đã nhìn rõ mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp xâm lược đang phát
triển gay gắt, trở thành mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu. Trừ bộ phận đại địa chủ phong kiến và tư
sản mại bản phản động làm tay sai cho đế quốc, còn mọi giai cấp và tầng lớp trong xã hội Việt
Nam đều có khả năng tham gia phong trào yêu nước chống Pháp.
Tuy nhiên, do nhận thức giáo điều và máy móc về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và
giai cấp trong xã hội thuộc địa, tại Hội nghị tháng 10-1930, Ban chấp hành Trung ương Đảng
quá nhấn mạnh mặt tiêu cực của các tầng lớp trên: tư sản thương mại “đứng về một phe với đế
quốc chủ nghĩa và địa chủ mà chống cách mạng”; tư sản công nghiệp “vẫn có quyền lợi trái với
đế quốc”, nhưng vì sức lực kém, có dính dáng đến địa chủ, sợ phong trào vô sản, cho nên
“không thể đứng về quốc gia cách mạng, mà chỉ đứng về mặt quốc gia cải lương” và “khi
phong trào quần chúng nổi lên, cách mạng vô sản đến trước mắt” thì sẽ “theo phe đế quốc chủ
nghĩa”; trong giai cấp tiểu tư sản, thì bộ phận làm thủ công nghiệp “có ác cảm” với cách mạng;
tiểu thương “không tán thành cách mạng”; tiểu tư sản trí thức có “xu hướng quốc gia chủ
nghĩa”, “đại biểu quyền lợi cho tất cả giai cấp tư bổn bổn xứ”
4
. Ban chấp hành Trung ương
chưa thấy được mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam thuộc địa là mâu thuẫn giữa dân tộc
Việt Nam bị nô dịch với thực dân Pháp xâm lược và tay sai của chúng, quá nhấn mạnh mâu
thuẫn giai cấp và cuộc đấu tranh giai cấp. Đó là điều không phù hợp với tình hình thực tế của
xã hội thuộc địa.
Tháng 11-1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng nhận thấy mâu thuẫn chủ yếu ở
Đông Dương là mâu thuẫn giữa dân tộc bị áp bức với đế quốc xâm lược. Bản Chỉ thị Về vấn đề
thành lập Hội phản đế đồng minh (18-11-1930) nêu rõ: “Trong cách mạng phản đế và điền địa
ở Đông Dương thì dân tộc Việt Nam là một dân tộc có lịch sử đấu tranh bất diệt với giặc Pháp
từ ngày Pháp chiếm đến nay, nên dân tộc phản đế trong nhân dân rất mạnh”. Ở Trung Kỳ, có
những kẻ phản bội cách mạng nhưng không nhiều, “mà ngược lại, các tầng lớp trí thức và một
số sĩ phu, một số trung tiểu địa chủ lại có xu hướng cách mạng rõ ràng”. “Qua khủng bố trắng
dữ dội, họ vẫn cố gắng bám lấy cách mạng và âm thầm ủng hộ cách mạng nhất là tiểu địa chủ
2
và phú nông, trung nông hạng trên”. Ở Nghệ Tĩnh “địa chủ và phú nông cùng một số quan lại

nhỏ trong nông thôn đã phân hóa, và một số lớn đã nghiêng về cách mạng”, giai cấp tư sản nhỏ
“đều có ý thức xu hướng cách mạng”
5
. Đây là một nhận thức đúng tình hình thực tế, phù hợp
với quan điểm trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Nhưng, sau đó không lâu, trong Thư của Trung ương gửi các cấp đảng bộ (12-1930),
Ban Thường vụ Trung ương lại cho rằng không thể chia địa chủ thành các hạng đại, tiểu, trung;
hạng thì phản cách mạng, hạng thì theo cách mạng, mà phải xét địa chủ “về phương diện giai
cấp”. Đó là một giai cấp tuy sở hữu ruộng đất không đều nhau, nhưng đều “dùng cái quyền có
đất để bóc lột dân nghèo, hãm hại kinh tế dân cày” và ngăn trở sức sản xuất. Địa chủ là “thù
địch của dân cày không kém gì đế quốc chủ nghĩa”, “có quan hệ mật thiết với quyền lợi của đế
quốc chủ nghĩa”, “liên kết với đế quốc mà bóc lột dân cày”. Giai cấp tư sản “có một bộ phận
đã ra mặt phản cách mạng”, một bộ phận khác “kiếm cách hòa hiệp với đế quốc”, một bộ phận
“ra mặt chống đế quốc”, nhưng đến khi cách mạng phát triển “cũng sẽ theo phe đế quốc mà
chống cách mạng”
6
. Nhận thức này trở lại với cách đánh giá thái độ các giai cấp như trong
Luận cương chính trị tháng 10-1930, và còn tiếp tục kéo dài trong một thời gian sau.
Tháng 9-1939, cuộc Chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ và ngày càng lan rộng, tác động
mạnh mẽ đến Đông Dương. Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng (11-1939)
phân tích tình hình, đánh giá thái độ các giai cấp xã hội, các đảng phái và xu hướng chính trị ở
Đông Dương, chỉ rõ tất cả các dân tộc, các giai cấp, trừ một số phản động làm tay sai đế quốc,
“đều phải gánh những tai hại ghê gớm của đế quốc chiến tranh, đều căm tức kẻ thù chung là đế
quốc chủ nghĩa”. Với quan điểm toàn diện, Trung ương Đảng đã chỉ rõ những hạn chế của các
giai cấp địa chủ và tư sản, đồng thời cũng khẳng định mặt tích cực của họ: “Đám đông trung
tiểu địa chủ và tư sản bổn xứ cũng căm tức đế quốc”
7
[tr. 538-539]. Hội nghị lần thứ bảy Ban
chấp hành Trung ương Đảng (11-1940) phân tích tình cảnh của các giai cấp, tầng lớp xã hội
dưới hai tầng áp bức Nhật – Pháp, vạch rõ sự đối kháng về quyền lợi giữa mọi tầng lớp xã hội

với chủ nghĩa đế quốc thực dân: “chính sách bòn vét của đế quốc Pháp làm cho nhân dân Đông
Dương từ giàu đến nghèo đều cảm thấy sự thiệt thòi vô kể”, vì thế, “trừ một số ít bọn phong
kiến bản xứ, một phần đại tư bản, đại địa chủ và một nhóm tiểu tư sản nhát gan đi theo Pháp
hay Nhật, còn hầu hết các tầng lớp nhân dân hiện nay đương căm tức với đế quốc Pháp, hoặc ít
nhiều căn ghét chúng”
8
.
Tại Hội nghị lần thứ tám (5-1941) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng hết sức nhấn mạnh mâu thuẫn dân tộc đang phát triển gay gắt dưới hai tầng áp bức
Nhật, Pháp. Hội nghị phân tích: “Đế quốc Pháp - Nhật chẳng những áp bức các giai cấp thợ
thuyền, dân cày, mà chúng nó áp bức, bóc lột cả các dân tộc không chừa một hạng nào. Dẫu là
anh tư bản, anh địa chủ, một anh thợ hay một anh dân cày đều cảm thấy cái ách nặng nề của đế
quốc là không thể nào sống được. Quyền lợi tất cả các giai cấp đều bị cướp giật, vận mạng dân
tộc nguy vong không lúc nào bằng”. “Pháp - Nhật ngày nay không phải chỉ là kẻ thù của công
nông, mà là kẻ thù của cả dân tộc Đông Dương”. Không chỉ quần chúng lao khổ, mà cả “các
tầng lớp tiểu tư sản, phú nông, địa chủ, viên chức thảy đều bị phá sản và khánh kiệt dưới sự bóc
lột của Pháp - Nhật”. Về thái độ chính trị của các giai cấp, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
3
nhận xét: giai cấp vô sản và dân cày nghèo nàn “đã hăng hái chống đế quốc quyết liệt hơn”.
Giai cấp tiểu tư sản “đều hăng hái tham gia hoặc cảm tình với cách mạng”. Giai cấp địa chủ,
phú nông và một phần tư bản bản xứ, chỉ trừ một số ít làm tay sai cho đế quốc, còn “phần đông
có cảm tình với cách mạng hoặc giữ thái độ trung lập”
9
.
Như vậy, trải qua một quá trình phân tích thực tiễn, bằng quan điểm toàn diện và lịch sử
cụ thể, vượt qua được quan điểm giáo điều, Đảng đã nhận thức rõ mâu thuẫn chủ yếu trong xã
hội Việt Nam là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc xâm lược và tay sai của
chúng. Mâu thuẫn chủ yếu đó quy định tính chất bao trùm của xã hội Việt Nam là một xã hội
thuộc địa. Tuy nhiên, do tàn tích phong kiến nặng nề, mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ
phong kiến vẫn chưa được giải quyết, song không phải là mâu thuẫn chủ yếu. Để xóa bỏ chế độ

thuộc địa, phải tập trung giải quyết mâu thuẫn chủ yếu. Đó là yêu cầu khách quan của lịch sử.
Đánh giá đúng mâu thuẫn chủ yếu cũng như thái độ chính trị và khả năng cách mạng
của các giai cấp xã hội là cơ sở thực tiễn để Đảng xác định một chiến lược cách mạng giải
phóng dân tộc đúng đắn.
2. Phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin để xác định tính chất và nhiệm vụ
hàng đầu của cuộc cách mạng ở thuộc địa
Chủ nghĩa đế quốc xâm lược nước ta, áp bức bóc lột nhân dân ta, thì chủ yếu là áp bức
bóc lột nông dân (chiếm hơn 90% dân số). Do các chính sách khai thác thuộc địa, bóc lột tô
thuế và cướp đoạt ruộng đất của thực dân Pháp, giai cấp nông dân trở thành nạn nhân chủ yếu
của chế độ thuộc địa và “lâm vào cảnh tuyệt vọng”
10
. Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam, mà
chủ yếu là nông dân với đế quốc xâm lược và tay sai phát triển vô cùng gay gắt. Yêu cầu trước
hết của dân tộc Việt Nam nói chung, giai cấp nông dân nói riêng là tiến hành cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa thực dân và tay sai phản động, giành độc lập dân tộc. Xét về tính chất, cuộc
đấu tranh ở thuộc địa là một cuộc đấu tranh dân tộc, chứ chưa phải là cuộc đấu tranh giai cấp
như ở các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây.
Lênin từng nói: các nhiệm vụ chính trị cụ thể phải được đặt đúng vào một hoàn cảnh cụ
thể. Ra đời trong điều kiện lịch sử của xã hội châu Âu, mà chủ yếu là Tây Âu, nơi có mâu thuẫn
gay gắt giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, nên học thuyết của Mác bàn nhiều về đấu tranh
giai cấp, về cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản. Học thuyết đó có thể áp dụng nguyên
vẹn ở thuộc địa hay không? Đó là câu hỏi lớn được đặt ra trong hoàn cảnh lịch sử Việt Nam
dưới ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc.
Từ năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đã đề nghị “xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử
của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông”. Trong điều kiện lịch sử cụ thể ở thuộc địa,
Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh không giáo điều, tuyệt đối hóa cuộc đấu tranh giai
cấp, mà có sự xem xét quan hệ giai cấp trong các mối liên hệ phổ biến, không chỉ đơn thuần là
quan hệ giữa giai cấp bóc lột với giai cấp bị bóc lột, mà cả quan hệ của mỗi giai cấp với thực
dân Pháp xâm lược và thống trị dân tộc, kết hợp hài hòa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, giải
quyết vấn đề dân tộc trên quan điểm giai cấp và giải quyết vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc.

4
Trong tác phẩm Đường Kách mệnh (1927), Nguyễn Ái Quốc phân biệt ba loại cách
mạng: “Tư bản cách mệnh”, “Dân tộc cách mệnh” và “Giai cấp cách mệnh”, đồng thời xác định
tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc. Người phân tích:
“Một nước cậy có sức mạnh đến cướp một nước yếu, lấy võ lực cai trị dân nước ấy, và
giành hết cả quyền kinh tế và chính trị. Dân nước ấy đã mất cả tự do độc lập, lại làm ra được
bao nhiêu thì bị cường quyền vơ vét bấy nhiêu... Nói tóm lại là bọn cường quyền này bắt dân
tộc kia làm nô lệ, như Pháp với An Nam. Đến khi dân nô lệ ấy chịu không nổi nữa, tỉnh ngộ
lên, đoàn kết lại, biết rằng thà chết được tự do hơn sống làm nô lệ, đồng tâm hiệp lực đánh đuổi
tụi áp bức mình đi; ấy là dân tộc cách mệnh”
11
.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng xác định phương hướng chiến lược của cách
mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản”. Đó là một quá trình phát triển lâu dài, phải trải qua những giai đoạn chiến lược khác nhau,
mà trước tiên là giành độc lập dân tộc. Nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai được hết sức nhấn
mạnh trên cả hai phương diện chính trị và kinh tế: về chính trị, đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp
và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập, dựng ra Chính phủ công nông
binh và tổ chức ra quân đội công nông; về kinh tế, tịch thu hết các sản nghiệp lớn (như công
nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v.) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ
công nông binh quản lý; tịch thu hết ruộng đất của bọn đế quốc chủ nghĩa làm của công và chia
cho dân cày nghèo... Nhiệm vụ cách mạng ruộng đất chưa phải là mục tiêu trực tiếp trước mắt,
mà sẽ là một nhiệm vụ kế tiếp. Trong khi chủ trương tịch thu ruộng đất đang nằm trong tay kẻ
thù dân tộc, Đảng đặt vấn đề “chuẩn bị cách mạng thổ địa và lật đổ bọn địa chủ phong kiến”
12
.
Tuy nhiên, do hiểu không đầy đủ về đặc điểm giai cấp và dân tộc ở Đông Dương, đồng
thời chịu ảnh hưởng trực tiếp của khuynh hướng "tả" của Quốc tế Cộng sản và một số Đảng
Cộng sản anh em, Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (10-1930) lại nhấn
mạnh chiến lược đấu tranh giai cấp và cách mạng ruộng đất. Luận cương cho rằng nhiệm vụ cốt

yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải "tranh đấu để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh
đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư bổn và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để" và
"đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập". Hai nhiệm vụ đó
phải được đặt ngang hàng nhau và tiến hành đồng thời với nhau: "…có đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa mới phá được cái giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi; mà có phá
tan chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa". Luận cương khẳng định: "Vấn
đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền", là cơ sở để Đảng giành quyền lãnh đạo
dân cày. Như vậy, chiến lược đấu tranh dân tộc trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã được
thay bằng chiến lược đấu tranh giai cấp.
Tháng 10-1936, trong văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới, Trung ương Đảng
đã dũng cảm phê phán Luận cương chính trị tháng 10-1930: "Cuộc dân tộc giải phóng không
nhất định phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa. Nghĩa là không thể nói rằng: muốn đánh
đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa, muốn giải quyết vấn đề điền địa cần phải
đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng (TG nhấn mạnh)... nếu phát triển cuộc
tranh đấu chia đất mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng
5

×