Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

siêu lạm phát ở zimbawe và bài học cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (411.25 KB, 29 trang )

PHẦN I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm về lạm phát
Ban đầu chưa có một định nghĩa thống nhất về lạm phát, vì vậy đã có nhiều quan
điểm khác nhau của các nhà kinh tế học như:
- Theo Karl-Marx : “Lạm phát là sự phát hành tiền mặt quá mức cần thiết.”
- V.LLenine: “Lạm phát là sự thừa ứ tiền giấy trong lưu thông.”
- Miltan Friedman: “Lạm phát bao giờ ở đâu bao giờ cũng là một hiện tượng cửa
tiền tệ.”
- R.Dornbusch và Fisher: “Lạm phát là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế
tăng lên.”
Các khái niệm trên đều dựa trên đặc trưng :
- Lượng tiền lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết làm cho chúng bị mất giá.
- Mức giá cả chung tăng lên.
Vậy lạm phát: “Là một phạm trù kinh tế khách quan phát sinh từ chế độ lưu thông
tiền giấy. Là hiện tượng tiền trong lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết làm cho chúng bi
̣mất giá, giá cả của hầu hết các loại hàng hóa tăng lên đồng loạt”.
1.2. Phân loại lạm phát
1.2.1. Phân loại theo mức độ của tỷ lệ lạm phát hay dựa theo định lượng
Lạm phát vừa phải: loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng chậm ở dưới
mức mộ t con số hằng năm (dưới 10% một năm). Hiện ở phần lớn các nước Tư bản Chủ
nghĩa phát triển đang có lạm phát vừa phải.
Lạm phát phi mã: lạm phát phi mã xảy ra khi giả cả bắt đầu tăng với tỷ lệ hai hoặc
ba con số như 20%, 100% hoặc 200%... một năm.
Siêu lạm phát: Xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng gấp nhiều lần ở mức 3 con số hằng
năm trở lên.
Ví dụ về lạm phát ở Zimbabwe
Year
Inflation rate

2003
400%



2004
2005
2006
450%
700%
900%
Bảng 1: Zimbabwe Inflation rate

2007
7892%

2008
200000%

1


1.2.2. Căn cứ vào định tính
Lạm phát cân bằng: Tăng tương ứng với thu nhập thực tế của người lao động, tăng
phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, do đó không gây ảnh
hưởng đến đời sống hàng ngày của người lao động và đến nền kinh tế nói chung.
Lạm phát không cân bằng: Tăng không tương ứng với thu nhập của người lao động.
Trên thực tế loại lạm phát này thường hay xảy ra.
Lạm phát dự đoán trước: Là loại lạm phát xảy ra hàng năm trong một thời kì tương
đối dài và tỷ lệ lạm phát ổn định đều đặn. Loại lạm phát này có thể dự đoán trước được tỷ
lệ của nó trong các năm tiếp theo. Về mặt tâm lý, người dân đã quen với tình trạng lạm
phát đó và đã có sự chuẩn bị trước, do đó không gây ảnh hưởng đến đời sống, đến kinh
tế.
Lạm phát bất thường: Xảy ra đột biến mà có thể từ trước chưa từng xuất hiện. Loại

lạm phát này ảnh hưởng đến tâm lý, đời sống người dân vì họ chưa kịp thích nghi, từ đó
sẽ gây ra biến động đối với nền kinh tế và niềm tin của nhân dân vào chính quyền có phần
giảm sút.
1.2.3. Thiểu phát
Trong kinh tế học, thiểu phát là lạm phát ở tỉ lệ rất thấp, đây là một vấn nạn trong
quản lý kinh tế vĩ mô.
Ở Việt Nam, nhiều người thường nhầm lẫn thiểu phát với giảm phát (sự suy giảm
liên tục của mức giá chung của các hàng hóa và dịch vụ hay sự gia tăng sức mua trong
nước của đồng nội tệ). Không có tiêu chí chính xác tỷ lệ lạm phát bao nhiêu phần trăm trở
xuống thì được coi là thiểu phát. Một số tài liệu kinh tế học cho rằng tỷ lệ lạm phát ở mức
3-4% một năm trở xuống được coi là thiểu phát. Tuy nhiên, ở những nước mà cơ quan
quản lý tiền tệ (ngân hàng trung ương) rất không ưa lạm phát như Đức và Nhật Bản thì tỷ
lệ lạm phát 3-4% một năm được coi là trung bình, chứ chưa phải thấp đến mức được coi
là thiểu phát. Ở Việt Nam thời kỳ 2002-2003, tỷ lệ lạm phát ở mức 3-4% một năm, nhưng
nhiều nhà kinh tế học Việt Nam cho rằng đây là thiểu phát.
1.3. Đo lường lạm phát
Tỷ lệ lạm phát được tính bằng phần trăm thay đổi của mức giá chung.

= . 100%
2


Trong đó:
 : tỷ lệ lạm phát thời kỳ t
 : mức giá của thời kỳ t
 : mức giá của thời kỳ trước đó
Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất tỷ lệ lạm phát, vì giá trị của nó biểu
hiện qua các chỉ số phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ
số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện.
Các phép đo phổ biến của chỉ số lạm phát bao gồm:

1.3.1. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI-Consumer Price Index)
Chỉ số giá tiêu dùng là chỉ số đo lường thông dụng nhất, cơ bản nhất, đo giá cả của
một sự lựa chọn các hàng hóa hay được mua bởi người tiêu dùng thông thường.
Lưu ý: Trong khi tính toán thì phải chọn 1 số nhóm hàng tiêu dùng mang tính chất
đại diện từ đó khảo sát biến động giá.

= . 100%
Trong đó:
 là chỉ số giá tiêu dùng của năm t
 , lần lượt là mức giá của sản phẩm i trong năm gốc (năm 0) và năm t
 là sản lượng sản phẩm i trong năm gốc (năm 0)
1.3.2. Chỉ số giảm phát theo GDP (Id)
Chỉ số giảm phát theo GDP phản ánh sự thay đổi của mức giá trung bình của tất cả
hàng hóa và dịch vụ sản xuất ở năm hiện hành (năm t) so với năm gốc. Id của năm t được
tính theo công thức

Id = . 100% = . 100%
Trong đó:
 là GDP danh nghĩa năm t
 là GDP thực năm t
 , lần lượt là mức giá của sản phẩm i trong năm gốc (năm 0) và năm t
 là sản lượng sản phẩm i trong năm gốc (năm 0)
So sánh hai chỉ số CPI và Id, ta thấy có 3 điểm khác nhau:

3


- Thứ nhất, Id phản ánh mức giá trung bình của tất cả hàng hóa và dịch vụ được
sản xuất ra trong nền kinh tế; còn CPI phản ánh giá của những hàng hóa và dịch vụ mà
người tiêu dùng mua.

- Thứ hai, Id phản ánh giá của những hàng hóa sản xuất trong nước, do đó khi giá
hàng hóa nhập khẩu tăng lên, chỉ phản ánh trong CPI, không được tính trong Id.
- Thứ ba, CPI được tính bằng cách sử dụng giỏ hàng hóa cố định, trong khi Id
được tính bằng cách sử dụng giỏ hàng hóa thay đổi theo thời gian.
- Cả hai đều có nhược điểm là CPI có xu hướng đánh giá quá cao sự tăng giá sinh
hoạt trong khi Id lại có xu hướng đánh giá quá thấp sự tăng giá sinh hoạt.
1.3.3. Chỉ số giá sản xuất (PPI- Production Price Index)
Chỉ số giá sản xuất là chỉ số dùng để đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được
không tính đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó khác với CPI là sự trợ cấp
giá, lợi nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị nhận được bởi các nhà sản xuất là
không bằng với những gì người tiêu dùng đã thanh toán.
1.3.4. Chỉ số giá sinh hoạt (CLI- Cost of Living Index)
Chỉ số giá sinh hoạt là sự tăng trên lý thuyết trong giá cả sinh hoạt của một cá nhân,
trong đó các chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được giả định một cách xấp xỉ.
1.3.5. Chỉ số giá bán buôn (WPI - Wholesale Price Index)
Chỉ số giá bán buôn dùng để đo sự thay đổi trong giá cả của một sự lựa chọn các
hàng hóa bán buôn (thông thường là trước khi bán có thuế). Chỉ số này rất giống với PPI.
1.4. Các nguyên nhân gây ra lạm phát
1.4.1. Lạm phát do cầu kéo (Demand-Pull Inflation)

4


Diễn ra do tổng cầu AD tăng nhanh hơn tiềm năng sản xuất của một quốc gia, sẽ gây ra sự
tăng giá cả và lạm phát xảy ra
- Sản lượng tăng tới
- Giá tăng từ tới (từ đến là lạm phát)
- Lạm phát được coi là do sự tồn tại của mức cầu quá cao.

Hình 1: Lạm phát do cầu kéo


AD tăng có thể do:
- Khu vực tư nhân lạc quan về nền kinh tế, nên tiêu dùng tự định và đầu tư tự định
tăng lên.
- Chính phủ tăng chi tiêu.
- Ngân hàng Trung ương tăng lượng cung tiền.
- Tăng mua hàng hóa và dịch vụ trong nước.
- Kết quả đường tổng cầu AD sẽ dịch chuyển sang phải, trong ngắn hạn sẽ làm
cho sản lượng tăng lên, đồng thời mức giá chung tăng lên.
1.4.2. Lạm phát do chi phí đẩy (Cost- Pull Inflation)
Xuất phát từ sự sụt giảm trong tổng cung, mà nguyên nhân là do chi phí sản xuất của
nền kinh tế tăng lên.

5


2: Lạm
pháttrái
do từ
chi phí
đẩy. Kết quả sản lượng sụt giảm từ
Đường tổng cung dịchHình
chuyển
sang
sang

xuống , mức giá sẽ tăng từ lên , nền kinh tế vừa suy thoái vừa lạm phát (Hình 2).
Các nhân tố làm tăng chi phí:
- Chi phí tiền lương: Tiền lương gia tăng do áp lực từ công đoàn, từ chính sách
điều chỉnh lương của chính phủ làm tiền lương tăng lên vượt mức tăng năng suất lao động

là nguyên nhân đẩy chi phí tăng.
- Lợi nhuận: Nếu doanh nghiệp có quyền lưc thi ̣ trường (độc quyền, nhóm độc
quyền) có thể đẩy giá tăng lên để kiếm lợi nhuận cao hơn .
- Nhập khẩu lạm phát: Trong nền kinh tế toàn cầu, các doanh nghiệp phải nhập
mộ t lượng không nhỏ nguyên nhiên liệu (NVL) từ nước ngoài nếu chi phí NVL tăng do
nhiều nguyên nhân không thuộc sự kiểm soát trong nước khi đó doanh nghiệp phải chấp
nhân mua NVL với giá cao.
Chi phí NVL tăng cao có thể do các nguyên nhân sau:
- Tỉ giá hối đoái: Nếu đồng nộ i tệ bi ̣ mất giá thì hàng hóa trong nước sẽ rẻ hơn
so với ở nước ngoài. Khi đó, xuất khẩu sẽ có lợi hơn nhập khẩu vì thế làm chi phí nhập
khẩu nguyên vật liệu tăng cao.
- Thay đổi giá cả hàng hóa: Khi giá cả hàng hóa thế giới tăng thì các doanh
nghiệp trong nước phải đối mặt với chi phí cao hơn nếu sử dụng hàng hóa này làm NVL
để sản xuất kinh doanh.
- Những cú sốc từ bên ngoài: Các cuộc khủng hoảng về nguyên liệu, vậ t liệu
chính như dầu mỏ, sắt thép ,than đá,…làm chi phí sản xuất tăng.

6


- Sự thiếu hụt các nguồn tài nguyên cũng đẩy giá cả tăng khi bi ̣ khai thác cạn
kiệt.
1.4.3. Lạm phát theo thuyết số lượng tiền tệ (Monetary- Theory Inflation)
Những nhà kinh tế thuộc trường phái tiền tệ cho rằng lạm phát là do lượng cung
tiền thừa quá nhiều trong lưu thông gây ra và được giải thích bằng phương trình sau:
M.v = P.Y
Trong đó:
 M: lượng cung tiền danh nghĩa
 v: tốc độ lưu thông tiền tệ
 P: chỉ số giá

 Y: sản lượng thực
Với giả thiết v và Y không đổi nên chỉ số giá phụ thuộc vào lượng cung tiền danh
nghĩa, khi cung tiền tăng thì mức giá cũng tăng theo cùng tỉ lệ, lạm phát xảy ra.
Lưu ý: Thuyết này chỉ đúng khi v và Y không đổi.
1.5. Tác động của lạm phát
Lạm phát có sự ảnh hưởng ảnh hưởng lớn đến sự phát triển Kinh tế - Xã hội tùy theo
mức độ của nó.
Tác động tích cực: Khi lạm phát ở mức độ vừa phải có tác dụng thúc đẩy kinh tế.
Lạm phát ở mức này thường được chính phủ duy trì như một chất xúc tác cho nền kinh
tế.
Tác động tiêu cực:
- Phân phối lại thu nhập và của cải: Khi lạm phát xảy ra những người có tài sản,
vay nợ là có lợi vì giá của tài sản nói chung tăng lên còn giá tri ̣ đồng tiền bị giảm xuống.
Ngược lại những người làm công ăn lương, cho vay, gửi tiền bị thiệt hại.
- Tác động đến kinh tế và việc làm: Lạm phát ở mức cao làm nền kinh tế bị bất
ổn, hàng hóa chở nên đắt đỏ dãn đến tình trạng đầu cơ tích trữ tăng tỉ giá hối đoái, hoạt
động tín dụng rơi vào khủng hoảng nguồn tiền gửi sụt giảm nhanh chóng. Ngoài ra lạm
phát còn tác động đến tỉ lệ thất nghiệp: khi lạm phát tăng thì thất nghiệp giảm xuống và
ngược lại.

7


8


PHẦN II. SIÊU LẠM PHÁT Ở ZIMBABWE
Siêu lạm phát ở Zimbawe chỉ về một giai đoạn siêu lạm phát ở đất nước Zimbabwe
từ năm 2007 đến năm 2009 mà đỉnh điểm là vào năm 2009. Cuộc khủng hoảng lạm phát
của Zimbabwe cho đến nay là cuộc lạm phát tồi tệ thứ hai trong lịch sử, sau cuộc khủng

hoảng siêu lạm phát ở Hungary năm 1946.
2.1. Khái quát về Zimbabwe
2.1.1. Lịch sử và địa lý
Zimbabwe (tên chính thức là Cộng hòa Zimbabwe) là một quốc gia không giáp biển
nằm ở phía nam lục địa Phi, có diện tích 309.757 km² với dân số ước lượng năm 2012 là
12.973.8081 người . Đa phần nước này nằm ở trung tâm cao nguyên trung tâm (thảo
nguyên cao) trải dài từ Tây Nam tới Tây Bắc ở các cao độ trong khoảng giữa 1200m và
1600m. Khoảng 20% quốc gia là thảo nguyên thấp dưới 900m. Zimbabwe có khí hậu
nhiệt đới với một mùa mưa thường từ tháng 11 tới tháng 3. Khí hậu ôn hoà nhờ độ cao.
Zimbabwe từng là thuộc địa của Đế quốc Anh trong khoảng gần một thập kỷ và
dành lại được độc lập ngày 11 tháng 11 năm 1965.
2.1.2. Chính trị
Zimbabwe là một nước Cộng hoà theo hệ thống bán Tổng Thống, với một Chính
phủ Nghị viện. Theo những thay đổi hiến pháp năm 2005, một thượng viện đã được tái
lập2. Quốc hội Zimbabwe là Hạ viện của Nghị viện. Liên minh Quốc gia châu Phi
Zimbabwe – Mặt trận Yêu nước (thường viết tắt là ZANU-PF) của Robert Mugabe đã là
đảng chính trị chủ chốt của Zimbabwe từ khi độc lập3.
Là thành viên của 44 Tổ chức quốc tế lớn, đặc biệt là ONU, IMF, G15, G77,
WTO…, Zimbabwe có vai trò quan trọng trong quá trình đấu tranh bảo vệ quyền lợi của
các nước đang phát triển trong quá trình toàn cầu hoá. Năm 1986, với cương vị Chủ tịch
Phong trào không liên kết, Zimbabwe cố gắng góp phần tăng cường đoàn kết và duy trì
mục tiêu phong trào.
2.1.3. Kinh tế
1 “Census Results in Brief”. Zimbabwe National Statistical Agency. Lưu trữ ngày 3 tháng 9 năm 2013. Truy cập
ngày 25 tháng 8 năm 2013.
2 Constitution of Zimbabwe Amendment (No. 17) Act, 2005 NGO Network Alliance Project.
3 Mugabe, Robert. (2007). Encyclopædia Britannica. Encyclopædia Britannica 2007 Ultimate Reference Suite.
Chicago: Encyclopædia Britannica.

9



Zimbabwe là nước có tiềm năng kinh tế, giàu tài nguyên thiên nhiên với Crom và
vàng là khoáng sản chính của nước này. Thuốc lá, bông và đường là những mặt hàng xuất
khẩu hàng đầu của Zimbabwe.
Sau độc lập, chính quyền mới chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập, duy trì tốc
độ phát triển, tiến hành cấp ruộng đất cho người da đen, ban hành luật lao động, định cư,
nâng lương tối thiểu, xây dựng cơ sở y tế, giáo dục; thực hiện chính sách ôn hoà với
người da trắng, sử dụng tay nghề, vốn, kỹ thuật và cơ cấu kinh tế, tài chính của họ nhằm
duy trì sản xuất, tránh xáo trộn tình hình.
Zimbabwe tích cực tham gia đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế thế giới
mới, thúc đẩy hợp tác Nam - Nam, hợp tác khu vực. Xuất khẩu khoáng chất, nông nghiệp,
và du lịch là những nguồn thu ngoại tệ chính của Zimbabwe 4. Zimbabwe là đối tác thương
mại lớn nhất của Nam Phi trên lục địa châu Phi.
Zimbabwe vẫn duy trì được mức độ tăng trưởng kinh tế dương trong suốt những
năm 1980 (tăng trưởng 5.0% GDP hàng năm) và 1990 (tăng trưởng 4.3% GDP hàng
năm). Tuy nhiên, nền kinh tế đã suy giảm từ năm 2000: giảm 5% năm 2000, 8% năm
2001, 12% năm 2002 và 18% năm 20035. Chính phủ Zimbabwe phải đối mặt với nhiều
vấn đề kinh tế sau khi đã từ bỏ các nỗ lực trước kia nhằm phát triển một nền kinh tế theo
định hướng thị trường. Các vấn đề bao gồm thiếu hụt ngoại tệ, lạm phát tăng vọt, và thiếu
nguồn cung hàng hoá. Việc Zimbabwe tham gia vào cuộc chiến tranh tại Cộng hoà Dân
chủ Congo từ năm 1998 tới năm 2002 đã làm nền kinh tế nước này thiệt hại hàng trăm
triệu dollar6.
2.2. Diễn biến siêu lạm phát ở Zimbabwe qua các giai đoạn
Tháng 8 năm 2006, một đồng dollar Zimbabwe mới đã được đánh giá lại được phát
hành tương đương với 1.000 dollar trước kia. Tỷ lệ trao đổi đã giảm từ 24 dollar
Zimbabwe cũ trên U.S. dollar (USD) năm 1998 tới 250.000 dollar trước kia hay 250
dollar Zimbabwe mới trên 1 dollar Mỹ theo tỷ giá chính thức, và ước tính 120.000.000
dollar cũ hay 120.000 dollar Zimbabwe mới 1 dollar Mỹ trên chợ đen, tháng 6 năm 2007.


4 “Country Profile – Zimbabwe”. Foreign Affairs and International Trade Canada.
5 Richardson, C.J. 2005. ‘The loss of property rights and the collapse of Zimbabwe’. Cato Journal, 25, 541–565.
6 Organised Violence and Torture in Zimbabwe in 1999, 1999. Zimbabwe Human Rights NGO Forum.

10


Lạm phát đã tăng từ một tỷ lệ hàng năm 32% năm 1998, lên mức ước tính chính
thức cao tới 11.200.000.000% vào tháng 8 năm 2008 theo Văn phòng Thống kê Trung
ương7. Đây là một tình trạng siêu lạm phát, và ngân hàng trung ương đã đưa ra một đồng
tiền 100 tỷ dollar mới.
Ở thời điểm tháng 11 năm 2008, các con số không chính thức đưa ra tỷ lệ lạm phát
hàng năm của Zimbabwe là 516. phần trăm, với giá cả tăng gấp đôi sau mỗi 1,3 ngày. Tới
năm 2005, sức mua của người dân trung bình Zimbabwe đã giảm xuống mức thực tương
đương thời điểm năm 1953. Những người dân địa phương phần lớn phải mua những vật
dụng thiết yếu từ các quốc gia Botswana, Nam Phi và Zambia láng giềng.

Lạm phát ở Zimbabwe trong thời bình (số liệu chính thức trước tháng 7 năm 2008)8
Thời
gian

Lạm
phát

Thời
gian

Lạm
phát


Thời
gian

Lạm
phát

Thời
gian

Lạm
phát

Thời
gian

Lạm phát

1980

7%

1986

15%

1992

40%

1998


48%

2004

132,75%

1981

14%

1987

10%

1993

20%

1999

56,9%

2005

585,84%

1982

15%


1988

7,3%

1994

25%

2000

55,22%

2006

1.281,11%

1983

19%

1989

14%

1995

28%

2001


112,1%

2007

66.212,3%

1984

10%

1990

17%

1996

16%

2002

198,93%

7/2008

231.150.888,87%

1985

10%


1991

48%

1997

20%

2003

598,75%

11/ 2008

79.600.000.000%

Bảng 2: Lạm phát ở Zimbabwe trong thời bình
Tháng 1 năm 2009, Zimbabwe đưa ra đồng tiền giấy $100 nghìn tỷ. Ngày 29 tháng
1, trong một nỗ lực đối phó với tình trạng lạm phát của đất nước, quyền Bộ trưởng Tài
chính Patrick Chinamasa thông báo rằng người dân Zimbabwe sẽ được phép sử dụng các
đồng tiền tệ khác, ổn định hơn (ví dụ Sterling, Euro, Rand Nam Phi và Dollar Mỹ) trong
trao đổi, bên cạnh đồng dollar Zimbabwe.

7 “Zimbabwe inflation hits 11,200,000”. CNN.com.
/>8 Số liệu trên trang chủ của Ngân hàng Trung ương Zimbabwe
/>
11



Ngày 2 tháng 2 năm 2009, RBZ thông báo thêm 12 số không nữa sẽ bị bỏ khỏi đồng
tiền tệ, với 1.000.000.000.000 dollar (thế hệ ba) Zimbabwe đổi được một dollar mới. Các
đồng tiền mới (thế hệ bốn) được đưa ra với mệnh giá mới Z$1, Z$5, Z$10, Z$20, Z$50,
Z$100 và Z$500. Các đồng tiền thế hệ bốn được lưu hành cùng với các đồng thế hệ ba,
vẫn được sử dụng cho tới ngày 30 tháng 6 năm 2009.
Kể từ tháng 2 năm 2009, Chính phủ mới của Zimbabwe đã thiết lập hệ thống giao
thương đa tiền tệ trong đó đồng đô la Mỹ được sử dụng phổ biến nhất. Phân bổ ngân sách
quốc gia năm 2009, dự toán ngân sách 2010 đều sử dụng đô la Mỹ làm đơn vị tiền tệ. Với
việc đô la hóa toàn bộ nền kinh tế, Chính phủ Zimbabwe đã gắn chặt nền kinh tế của họ
với chính sách tiền tệ của Mỹ.
2.3. Nguyên nhân gây ra lạm phát ở Zimbabwe
Zimbabwe đầu những năm 1980 đã có những bước phát triển kinh tế đáng kể. Tuy
nhiên sang giai đoạn 1990, khi đà ảnh hưởng chính trị của Tống thống Robert Mugabe
(lãnh đạo Zimbabwe từ năm 1980) suy yếu, chính quyền của ông bị cáo buộc chìm trong
tiêu cực, lợi dụng tham nhũng để duy trì quyền lực.
Đầu những năm 2000, khoảng 4.000 chủ đồn điền da trắng bị tịch thu đất đai, nền
nông nghiệp Zimbabwe sụp đổ chỉ trong vòng một đêm. Hai năm sau đó, sản lượng nông
sản của quốc gia châu Phi này sụt giảm nghiêm trọng, dẫn tới nạn đói tồi tệ nhất trong
vòng 60 năm.
Hậu quả của cuộc cải cách ruộng đất, bắt nguồn từ chính sách cải tổ đất đai của
Chính phủ (theo sự chỉ đạo của Tổng thống Robert Mugabe), trong đó những thương gia
người da trắng - nguồn lực chính kinh tế của đất nước đã bị Chính phủ cướp đoạt ruộng
đất, xua đuổi, trong một cuộc cải cách điền địa, kéo theo đó là nguồn tài trợ của Mỹ và
phương Tây. Đất đai chia cho nhiều người nhưng họ không biết cách canh tác. Đất nước
lâm vào cảnh thiếu lương thực, siêu lạm phát, kinh tế suy yếu, các dịch vụ công sụp đổ9.
Sau cuộc cải cách ruộng đất vào năm 2005, theo sự hướng dẫn của thống đốc ngân
hàng trung ương Gideon Gono, đã bắt đầu những cuộc đàm phán để những người chủ trại
da trắng có thể quay lại. Họ chỉ còn khoảng 400 tới 500 người vẫn còn ở lại trong nước,
nhưng hầu hết đất đai đã bị tịch thu không còn có thể canh tác được nữa. Tháng 1 năm
9 Yến Chi (18/11/2008). “Cuộc sống ở Zimbabwe, đất nước lạm phát nhất thế giới”. Báo điện tử An ninh Thủ đô.

/>
12


2007, chính phủ thậm chí còn để một số chủ trang trại da trắng ký các hợp đồng thuê đất
dài hạn. Nhưng, chính phủ một lần nữa đảo ngược lại quá trình này và bắt đầu yêu cầu tất
cả những người chủ trại da trắng còn lại phải rời đất nước hoặc sẽ phải đối mặt với việc bị
bỏ tù.
Để khắc phục đói nghèo và nợ công, ông Mugabe yêu cầu ngân hàng trung ương
nước này in thêm tiền để phục vụ nhập khẩu nhu yếu phẩm, dẫn tới lạm phát trầm trọng.
Theo Financial Times, lạm phát tại Zimbabwe đạt đỉnh năm 2008, khi giá cả tăng gấp đôi
trong 24 giờ, và đồng tiền lạm phát tới 7,9 tỷ %. Tỷ lệ thất nghiệp tăng cao kỷ lục, dịch vụ
công đình trệ, nền kinh tế Zimbabwe suy giảm 18% trong năm 2008.
2.4. Hậu quả của lạm phát
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 đã ảnh hưởng rất nặng nề tới hầu hết
các nền kinh tế trên thế giới cộng với nền kinh tế quốc nội yếu kém cùng các khoản nợ
công chồng chất khiến Zimbabwe trở thành quốc gia đầu tiên trong thế kỷ 21 chịu siêu
lạm phát.
Chỉ trong một thời gian ngắn cơn siêu lạm phát đã biến quốc gia Nam Phi này trở
thành một trong những nước nghèo đói của châu lục mặc dù từng được coi là quốc gia
triển vọng nhất châu Phi với những tiềm năng kinh tế và các nguồn tài nguyên giàu có:
ước tính có đến 95% người lao động rơi vào cảnh thất nghiệp, hệ thống giáo dục và y tế
của nước này và các ngành khác bị sụp đổ, tình trạng thiếu hụt mỗi lúc thêm trầm trọng

Hình 3: Tốc độ tăng trưởng GDP của Zimbabwe giai đoạn 2000-2010
(Đơn vị: %)

13



các loại hàng hóa cơ bản, cùng với tình trạng bất ổn về kinh tế và chính trị xung quanh
cuộc bầu cử toàn quốc. Nhiều người lâm vào cảnh nghèo đói dù có nhiều tiền.
Theo số liệu thống kê của Ngân hàng Thế giới (World Bank), tốc độ tăng trưởng
GDP của Zimbabwe giai đoạn 2000 - 2010 không được ổn định. Tốc độ tăng trưởng thấp,
đỉnh điểm là vào thời kỳ siêu lạm phát 2008, tăng trưởng GDP ở mức khoảng -17,67%,
thấp kỷ lục kể từ khi nước này giành độc lập chính quyền từ năm 1980.
2.5. Những giải pháp điều hành của Zimbabwe nhằm giảm thiểu lạm phát
Chính phủ Zimbabwe đã đề xuất những giải pháp nhằm đưa nền kinh tế của nước
này ra khỏi khủng hoảng và nạn siêu lạm phát như: tìm cách giảm chi tiêu và thực hiện
thanh toán nợ nước ngoài thông qua việc tăng thuế, song đã thất bại do vấp phải các cuộc
đình công phản đối của người lao động do đó chính phủ buộc phải in thêm tiền để thanh
toán cho các chi phí cũng như trả nợ và hệ quả tất yếu là lạm phát ngày một nghiêm trọng
hơn.
Ngoài những nỗ lực của Chính phủ Zimbabwe trong việc cải thiện nền kinh tế như
tái cấu trúc nền kinh tế, chống tham nhũng... thì việc đô la hóa toàn bộ nền kinh tế đóng
vai trò quan trọng trong việc chống siêu lạm phát.
Để đối phó với lạm phát, tháng 1/2009, Chính phủ Zimbabwe phát hành đồng tiền
giấy 100 nghìn tỷ Zimbabwe, người dân được phép sử dụng các đồng tiền tệ khác như:
Euro, Rand Nam Phi và USD... trong mua bán trao đổi song song với đồng đô la
Zimbabwe. Đầu tháng 2/2009, Zimbabwe tiếp tục đổi tiền, tờ 1.000 tỷ đô la Zimbabwe
(thế hệ ba) đổi được 1 đô la Zimbabwe mới, các đồng tiền thế hệ ba vẫn được sử dụng
cho tới ngày 30/6/2009. Từ đây, Chính phủ Zimbabwe thiết lập hệ thống giao thương đa
tiền tệ, trong đó đồng USD được xem là chủ đạo, từ bỏ mọi nỗ lực cứu vớt đồng nội tệ
ZWL, hợp thức hóa việc sử dụng ngoại tệ, ngưng lưu hành đồng Zimbabwe. Bước đi này
về cơ bản là chấm dứt chính sách tiền tệ độc lập của ZWL, và công dân Zimbabwe có thể
duy trì tài sản của mình dưới bất cứ ngoại tệ đáng tin cậy nào. Phân bổ ngân sách quốc gia
năm 2009, dự toán ngân sách 2010 đều sử dụng đô la Mỹ làm đơn vị tiền tệ. Đối với các
giao dịch dân sự, theo ước tính của các ngân hàng, 4/5 các giao dịch kể cả các giao dịch
hàng hóa sản xuất trong nước hay việc trả lương cho công nhân và các giao dịch chứng
khoán đều sử dụng đồng đô la Mỹ.


14


Trên thị trường, tất cả các cửa hàng đều niêm yết giá cả hàng hóa của họ bằng đô la
Mỹ (trừ một số cửa hàng ở phía Nam nơi tiếp giáp với Nam Phi có niêm yết bằng đồng
Rand - đơn vị tiền tệ của Nam Phi), điều đó đã dẫn tới việc thiếu hụt các đồng xu Mỹ
trong thanh toán và Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã chính thức đồng ý cung cấp đồng
xu cho Zimbabwe để khắc phục sự thiếu hụt này.
Với việc đô la hóa toàn bộ nền kinh tế, Chính phủ Zimbabwe đã gắn chặt nền kinh
tế của họ với chính sách tiền tệ của Mỹ nên họ đang thu hút được sự quan tâm của rất
nhiều người, nhất là trong giới kinh tế học, trong việc xác định được ảnh hưởng của
chương trình nới lỏng định lượng lần 2 (QE2) vào nền kinh tế Zimbabwe.
Khi theo đuổi chính sách đô la hóa hoàn toàn, lượng ngoại hối Ngân hàng Trung
ương Zimbabwe cần nắm giữ phải bằng 100% lượng cung tiền trong nước được xác định
thông qua tỷ giá hối đoái cố định. Khi đó cung tiền và lãi suất huy động của Zimbabwe
hoàn toàn được xác định bởi áp lực thị trường.
Để thu hút thêm được nhiều ngoại tệ, chính phủ Zimbabwe đã thực thi chính sách
thặng dư thương mại vốn, được thuận lợi nhờ việc giá vàng và platinum là hai mặt hàng
xuất khẩu chủ lực của Zimbabwe, tuy nhiên, chính sách này không được đánh giá cao vì
giá cả của chúng có những biến động không đảm bảo chắc chắn.
Việc đô la hóa nền kinh tế có những ưu điểm như cắt siêu lạm phát ngay lập tức,
nhanh chóng giúp giảm lãi suất huy động, ổn định ngân sách quốc gia … tuy nhiên vẫn có
những hạn chế nhất định như không có đảm bảo cuối cùng cho sự ổn định của hệ thống
ngân hàng; hệ thống ngân hàng phụ thuộc vào chính sách kinh tế của Mỹ và qua đó không
có khả năng phản ứng lại các cú sốc của hệ thống tài chính; trong ngắn hạn không đảm
bảo được năng lực cạnh tranh quốc gia.
Nhiều người lo ngại rằng, hiện tượng có quá nhiều loại tiền thì việc giao dịch có thể
trở nên rắc rối hơn, kể cả trong giao dịch quốc tế lẫn giao dịch nội địa. Việc cho phép sử
dụng nhiều đồng tiền là giải pháp tình thế, không phải là giải pháp lâu dài cho vấn đề

khủng hoảng kinh tế của Zimbabwe - quốc gia có nguồn tài nguyên rất phong phú nhưng
tỷ lệ thất nghiệp kinh niên và năng suất lao động rất thấp. Nếu dùng quá nhiều loại tiền sẽ
không thay đổi được quỹ đạo của nền kinh tế, dẫn đến tình trạng ngày càng có nhiều
doanh nghiệp bị phá sản, tỷ lệ thất nghiệp sẽ tăng cao. Các ngân hàng gần như đóng băng

15


các khoản cho vay, khả năng thu hút đầu tư sẽ giảm mạnh. Trong khi người dân
Zimbabwe muốn có đồng tiền riêng, điều đáng tiếc là chính phủ lại cảnh báo sự trở lại của
đồng đô la Zimbabwe có thể dẫn đến siêu lạm phát, nên chỉ có đồng ngoại tệ mới có thể
hóa giải được chứng bệnh kinh niên này.
Qua kinh nghiệm đô la hóa nền kinh tế của các nước trước đó như Argentina,
Bolivia, Brazil, Peru, Ecuador và sự phân tích của các chuyên gia thì kinh tế Zimbabwe
vẫn còn nhiều vấn đề lớn cần cải cách, nhưng việc đô la hóa toàn bộ nền kinh tế cũng
đánh bại được siêu lạm phát, giúp cho nền kinh tế hoạt động tốt như đánh giá của
Kramarenko - trưởng đoàn công tác của IMF trong chuyến khảo sát hỗ trợ Chính phủ
Zimbabwe vào cuối tháng 3 năm 2011.

16


PHẦN III: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
3.1. Điểm tương đồng giữa Zimbabwe và Việt Nam
Trong thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, Việt Nam trải qua một nạn lạm phát
phi mã. Mức lạm phát gia tăng từ 125% vào năm 1980 lên đến 487% vào năm 1986. Sau
khi chính sách “đổi mới” và thả lỏng giá cả được thi hành vào năm 1986, mức lạm phát
giảm xuống 301.3% vào năm 1987, 67% vào năm 1990, và 4.2% vào năm 1999. Nạn lạm
phát phi mã trong gần hai thập niên gây ra bởi một lý do chính là nhà nước tài trợ ngân
sách thiếu hụt bằng cách in thêm tiền. Ngoài ra nhu cầu của dân chúng, nhất là về thực

phẩm thì nhiều mà hàng hoá sản xuất ra thì quá ít. Ngân sách thiếu hụt vì phải nuôi
khoảng 200,000 quân đóng ở Campuchia trong khi không nhận một đồng viện trợ nào của
phương Tây. Còn viện trợ của cựu Liên Bang Xô Viết và các nước Xã hội Chủ nghĩa
Đông Âu bị giảm nhanh chóng rồi chấm dứt vào cuối thập niên 1980.
Trong khoảng thời gian từ 1992 trở về sau lạm phát ở mức thấp dưới 10%. Các yếu
tố chính ảnh hưởng đến hiện tượng lạm phát trong giai đoạn này là mức sản xuất thực
phẩm nội địa và giá thực phẩm trên thị trường quốc tế đặc biệt là giá gạo. Yếu tố thứ ba là
giá xăng nhớt và ảnh hưởng của nó trên chi phí chuyên chở.
Những nguyên nhân gián tiếp của lạm phát:
- Khu vực quốc doanh là một gánh nặng về ngân sách quốc gia và cản trở cho sự
phát triển kinh tế: Vào cuối năm 2003, tổng số vốn của 4,800 xí nghiệp quốc doanh là
12.1 tỷ mỹ kim so với số nợ là 13.6 tỷ mỹ kim. Nhà nước có 4 ngân hàng thương mại
chính và 2 ngân hàng thương mại nhỏ. Vào cuối năm 2000, tổng số nợ xấu của các ngân
hàng này là 23 ngàn tỉ đồng, tương đương với 5% của tổng sản lượng nội địa (GDP). Tỷ
lệ vốn trên tài sản của các ngân hàng thương mại nhà nước là 3% so với chỉ tiêu quốc tế là
8%-12%. Ngân hàng Trung ương của nhà nước đã phải bơm vào các ngân hàng thương
mại nhà nước 9.25 ngàn tỉ đồng. Tỷ lệ tín dụng trên GDP tăng từ 19% trong năm 1995 lên
đến 45% trong năm 2002 do sự cho vay bừa bãi.
- Cán cân thương mại thiếu hụt: Con số cho năm 2003 là 5.1 tỷ mỹ kim kể cả chi
phí chuyên chở (fob-cif), tương đương với 13% của GDP. Lý do là Việt Nam nhập cảng
nhiều máy móc và nguyên liệu dùng trong kỹ nghệ chế biến. Khuynh hướng này sẽ tiếp
tục trong các năm tới.

17


- Ngân sách thâm hụt: Một mặt lợi tức thuế sẽ giảm vì nhiều thuế suất về xuất
nhập cảng giảm theo hiệp định thương mại AFTA và gia đoạn 2005 - 2007 theo BTA, và
việc hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Lợi tức về dầu thô và thu nhập của các xí nghiệp
quốc doanh sẽ giảm. Mặt khác nhà nước lại phải tiêu nhiều hơn vì chi phí cho việc cải tổ

các doanh nghiệp và ngân hàng thương mại nhà nước, tăng lương cho nhân viên chính
phủ và xây dựng hạ tầng cơ sở.
Theo hai kinh tế gia Loungani và Swagel, có bốn nguồn gốc ảnh hưởng đến hiện
tượng lạm phát tại các nước đang phát triển như Việt Nam và Zimbabwe. Thứ nhất ngân
sách thiếu hụt. Sự kiện này đưa đến việc in thêm tiền để tài trợ ngân sách hoặc khủng
hoảng cán cân vãng lai (balance of payments) và đồng tiền mất giá. Nguồn gốc thứ hai là
mức cung không đủ thỏa mãn mức cầu. Nguồn gốc thứ ba là chi phí sản xuất đột ngột gia
tăng. Nguồn gốc thứ tư làm trì hoãn lạm phát là khế ước lương bổng. Đối với Việt Nam,
nguồn gốc của tình trạng lạm phát hiện nay là ngân sách thiếu hụt và chi phí sản xuất đột
ngột gia tăng.
Khi giá cả tăng khoảng một vài phần trăm một năm, mức lạm phát này không đáng
ngại. Trái lại lạm phát giá cả ôn hòa còn kích thích nền kinh tế phát triển thêm vì làm cho
mức tiêu thụ gia tăng nhờ vào gia tăng lợi tức giả tạo, việc đầu tư vào nhà cửa cũng tăng
vì giá nhà sẽ tăng trong tương lai. Việc đầu tư vào máy móc và cơ sở thương mại sẽ bành
trướng giá thị trường tăng nhanh hơn chi phí sản xuất. Tuy nhiên mức lạm phát hàng năm
lến cao ở mức trên 5% là một điều đáng ngại vì nó sẽ làm xáo trộn các hoạt động kinh tế
và xã hội: những người nghèo hoặc người có lợi tức cố định bị thiệt thòi nhiều nhất, mức
tiết kiệm, việc mua bảo hiểm và trái phiếu dài hạn bị giảm mạnh, ngoài ra lạm phát còn
tạo ra nạn đầu cơ tích trữ.
Khu vực quốc doanh tiếp tục sử dụng hoang phí tài nguyên quốc gia. Cán cân
thương mại thiếu hụt và ngân sách nhà nước thâm thủng ngày càng lớn. Những điều kiện
kinh tế này có triển vọng đưa đến mức lạm phát đáng kể tại Việt Nam vào năm 2004 và
2005 trong lúc Việt Nam đang cố mở mang nền kinh tế và tranh thủ để xin vào Tổ Chức
Thương Mại Thế Giới (WTO).
Trước áp lực về giá cả gia tăng đột ngột, Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam cho rằng
giá cả gia tăng hiện nay không đồng nghĩa với mức lạm phát cao và không đồng ý gia

18



tăng lãi suất trong lúc này, có lẽ vì sợ làm cản trở đầu tư và phát triển kinh tế. Lý do này
hợp lý vì lạm phát ở 8.3% chưa phải là cao so với thập niên 1980 và ngay cả thập niên
1990. Thật vậy, mức lạm phát trung bình hàng năm của Việt Nam từ 1993 đến 2003 là
6%.

3.2. Thực trạng lạm phát Việt Nam trong những năm gần đây
3.2.1. Thực trạng lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 2012-2017
Theo các số liệu của Tổng cục Thống kê, tính trung bình, trong năm 2017, CPI tăng
3,53% so với năm 2016. Tuy nhiên, nếu tính lạm phát của tháng 12/2017 so với cùng kỳ
năm 2016, thì con số này chỉ là 2,6%. Ở một góc nhìn khác, lạm phát cơ bản của tháng
12/2017 so với cùng kỳ năm trước còn ở mức thấp hơn, chỉ 1,29%.
Nguyên nhân khiến lạm phát tổng thể cao hơn lạm phát cơ bản trong năm 2017 chủ
yếu là do việc tăng giá dịch vụ y tế gây nên. Với việc giá dịch vụ y tế tăng tới 37,3%
trong năm 2017 và nhóm hàng hóa này có tỷ trọng 3,87% trong rổ hàng hóa CPI, đóng
góp của giá dịch vụ y tế trong con số 2,6% nêu trên, nếu tính gần đúng khoảng 1,44%.
Nói cách khác, nếu không tính giá dịch vụ y tế, lạm phát của tháng 12/2017 so với cùng
kỳ năm trước chỉ khoảng 1,16%, tương đương với mức lạm phát cơ bản và là mức rất
Hình 4: Lạm phát GDP, lạm phát cơ bản và lạm phát giá sản xuất tại Việt Nam giai

thấp trong lịch sử. Trên thực tế, tình
trạng
lạm phát
đoạn
2012-2016
(%)thấp đã xuất hiện từ vài năm trở lại
đây. Nếu lấy lạm phát GDP, lạm phát cơ bản và lạm phát giá sản xuất làm thước đo, tình
Nguồn: ADB. Key Indicators for Asia and the Pacific, 2017

trạng lạm phát thấp (dưới 2%) đã xuất hiện từ năm 2015, trong đó lạm phát giá sản xuất
có 2 năm đạt giá trị âm liên tiếp (2015 và 2016).


19


Tình trạng lạm phát thấp hiện nay được lý giải là do tốc độ tăng chi tiêu ngân sách
và tốc độ tăng cung tiền trong giai đoạn 2012 - 2017 đã giảm đi nhiều so với giai đoạn
2007 - 2011. Cụ thể, tốc độ tăng chi ngân sách nhà nước (NSNN) đã giảm từ mức trung
bình 21,4% trong giai đoạn 2007 - 2011 xuống còn trung bình 13,2% trong giai đoạn
2012 - 2016, còn tốc độ tăng cung tiền M2 cũng giảm tương ứng từ mức 32,5% giai đoạn
2006 - 2010 xuống còn 16,9% giai đoạn 2011 - 2016.
Sự thắt chặt chính sách tài khóa và tiền tệ so với giai đoạn trước đã khiến tỷ lệ đầu
tư/GDP của Việt Nam giảm mạnh trong giai đoạn 2012-2016. Trong giai đoạn 2007 2011, tỷ trọng đầu tư toàn xã hội/GDP trung bình là 35,7% (trong đó năm 2007 đạt gần
40% GDP), sau đó đã giảm mạnh và trong giai đoạn 2012 - 2016 chỉ còn ở mức khoảng
27%.
Điều đáng chú ý là tỷ lệ đầu tư/GDP trong giai đoạn 2012 - 2016 thấp một cách bền
vững. Nguyên nhân là do nền kinh tế đã không còn nhiều nguồn lực cho phát triển. Cụ thể
như:
Thứ nhất, tình trạng nợ công duy trì ở mức cao, gần mức trần 65% GDP Quốc hội
cho phép, đã khiến Chính phủ không thể tăng mạnh thâm hụt ngân sách. Trong khi đó, do
chi thường xuyên và chi trả nợ tăng nhanh nên tỷ trọng chi đầu tư phát triển trong tổng chi
NSNN đã liên tục giảm từ mức 27,5% năm 2012 xuống còn 19,7% năm 2016.

Hình 5: Tốc độ tăng cung tiền M2 tại Việt Nam giai đoạn 2006 - 2016 (%)
Nguồn: ADB. Key Indicators for Asia and the Pacific 2017

20


Thứ hai, do quy mô nợ xấu ở mức cao, tương đương với quy mô vốn chủ sở hữu của
cả hệ thống ngân hàng, nên các ngân hàng thương mại (NHTM) cũng không muốn cho

vay, một mặt đảm bảo thanh khoản, mặt khác lo ngại nợ xấu gia tăng.
Thứ ba, do trước đây vay nợ quá nhiều, các doanh nghiệp ngày nay cũng phải lo trả
nợ, giảm tỷ lệ đòn bẩy.
Như vậy, có thể thấy, tình trạng cả nợ công và nợ xấu ở mức cao đang là nguyên
nhân sâu xa dẫn đến tình trạng đầu tư thấp, tăng trưởng thấp và lạm phát thấp bền vững
hiện nay.
3.2.2. Dự đoán lạm phát đến năm 2020
Về mặt định tính, có thể nhận định rằng, trong thời gian tới, về phía tổng cầu, chưa
có yếu tố nào đủ đột biến để đẩy lạm phát lên cao.
Đối với chính sách tài khóa, trong vài năm gần đây, thâm hụt NSNN ổn định ở mức
trên 4% GDP. Các kế hoạch về tài khóa trong những năm tới cho thấy, tỷ lệ nợ công vẫn
sẽ được duy trì ổn định trong khoảng 60-65% GDP nên đầu tư công sẽ khó có sự bứt phá,
mặc dù xu hướng tỷ trọng đầu tư công giảm có thể sẽ không tiếp diễn do Chính phủ đẩy
mạnh cổ phần hóa, mở rộng cơ sở thuế để ổn định nguồn thu ngân sách.
Trong thời gian qua, trước thực trạng khan hiếm vốn ngân sách cho phát triển cơ sở
hạ tầng, Chính phủ đã khuyến khích các thành phần kinh tế khác nhau tham gia đầu tư
vào các dự án giao thông dưới hình thức BOT… Mặc dù vậy, quá trình thực hiện các dự
án BOT cho thấy còn nhiều bất cập, vì vậy, việc phát triển các dự án hợp tác công tư sẽ
khó tăng mạnh trong những năm tới, thậm chí có thể giảm.
Về chính sách tiền tệ, các biện pháp giảm nợ xấu cho đến nay vẫn còn mang tính
hình thức, mà chưa có các biện pháp xử lý mang tính thực chất, tức là có sự chuyển đổi về
sở hữu đi kèm với dòng tiền thực. Trong khi đó, NHNN vẫn giữ lãi suất điều hành ở mức
cao, mặc dù mức lãi suất này chủ yếu chỉ ảnh hưởng đến lãi suất trên thị trường liên ngân
hàng.

21


Hình 6: Tỷ trọng đầu tư toàn xã hội so với GDP tại Việt Nam giai đoạn 2007-2016 (%)
Nguồn: ADB. Key Indicators for Asia and the Pacific 2017


Lãi suất cho vay trung bình của nền kinh tế giảm rất chậm (gần như không thay đổi)
trong năm 2016. Trong khi đó, lãi suất huy động trung bình của nền kinh tế năm 2016 lại
có xu hướng tăng nhẹ so với năm 2015. Trước sự thu hẹp khoảng cách giữa lãi suất huy
động và lãi suất cho vay nói trên, các NHTM trong thời gian tới sẽ khó giảm lãi suất cho
vay nếu không có sự hỗ trợ từ NHNN.
Với những xu hướng về tài khóa và tiền tệ nêu trên có thể nhận định rằng, lạm phát
trong thời gian tới sẽ tiếp tục được duy trì ở mức thấp như trong những năm gần đây và
chủ yếu phụ thuộc vào các cú sốc về cung như giá dầu, giá lương thực, giá dịch vụ y tế,
giáo dục… Việc lạm phát cơ bản, tính trung bình trong 3 tháng cuối năm 2017 đã hạ
xuống mức dưới 0,1%/tháng cho thấy, áp lực lạm phát từ phía tổng cầu hiện nay là rất
thấp.
Tuy nhiên, kể từ năm 2018, nhiều khả năng Chính phủ sẽ không điều chỉnh mạnh
giá các dịch vụ, do Nhà nước quản lý bằng biện pháp hành chính, vì lộ trình điều chỉnh
giá về cơ bản đã hoàn thành. Còn giá dầu cũng sẽ khó có thể tăng mạnh khi Cục Dự trữ
Liên bang Mỹ (Fed) tiếp tục tăng lãi suất và Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) cũng
có xu hướng giảm dần các biện pháp hỗ trợ nền kinh tế.

22


Hình 7: Lãi suất cho vay và lãi suất huy động trung bình tại Việt Nam giai đoạn 2012-2016 (%)
Nguồn: Ngân hàng Thế giới

Như vậy, trong những năm gần đây, nợ xấu và nợ công ở mức cao đang là nguyên
nhân dẫn đến đầu tư thấp, tăng trưởng thấp và lạm phát thấp tại Việt Nam.
Do triển vọng xử lý nợ xấu, giảm nợ công, hạ lãi suất hiện vẫn chưa rõ ràng, có thể
kỳ vọng, lạm phát trong thời gian tới sẽ tiếp tục thấp, xoay quanh mức khoảng 1%, nếu
không có các cú sốc lớn từ phía cung như giá dầu, giá lương thực, giá dịch vụ y tế và giáo
dục.

3.3. Kiến nghị về việc bình ổn lạm phát của Việt Nam
3.3.1. Thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt
Lạm phát xuất phát từ nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân chủ yếu thường đến
từ tiền tệ. Mức cung tiền trong lưu thông liên tục tăng trong nhiều năm nay là một trong
nguyên nhân quan trọng gây ra lạm phát. Để kiềm chế được lạm phát , cần thực hiện một
số giải pháp thắt chặt tiền tệ sau đây:
- Một là, rút tiền trực tiếp tại các định chế tài chính như việc Ngân hàng Nhà nước
phát hành trái phiếu bắt buộc đến các ngân hàng thương mại và các ngân hàng này phải
mua.
- Hai là, kiểm soát cho vay, tín dụng các loại, nhất là những khoản cho vay tiêu
dùng. Thậm chí cắt giảm cho vay tín dụng vì nó được thực hiện bằng tiền mặt và do đó
cũng làm giảm lượng tiền mặt trong lưu thông

23


- Ba là, giảm chi ngân sách: nhiều công trình, dự án không cấp bách, thiết yếu bị
đình hoãn, thậm chí hủy bỏ. Cắt giảm mọi khoản chi có thể cắt từ ngân sách như mua sắm
trang thiết bị công, giảm biên chế, cắt giảm hoặc hãm trả các chế độ phúc lợi xã hội... vì
những việc đó làm tăng lượng tiền đưa ra lưu thông.
- Bốn là, nhiều biện pháp cản trở việc tăng giá hàng hóa và dịch vụ để ngăn chặn
lạm phát. Điều cần nhấn mạnh là trong khi kiên quyết thắt chặt tiền tệ, cần bảo đảm tính
thanh khoản của nền kinh tế và hoạt động của các ngân hàng, tổ chức tín dụng, tạo điều
kiện cho sản xuất hàng hoá và xuất khẩu phát triển.
3.3.2. Cắt giảm đầu tư công và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng ngân
sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, cố gắng giảm tỷ lệ thâm
hụt ngân sách
Chính phủ cần quy định cụ thể tỷ lệ vốn đầu tư và chi phí hành chính phải cắt giảm
và yêu cầu các bộ, địa phương xác định các công trình kém hiệu quả, các công trình chưa
thực sự cần thiết để có sự điều chỉnh thích hợp. Điều này sẽ được thực hiện một cách kiên

quyết ngay trong việc phân bổ lại và cân đối nguồn vốn. Để xác định và rà xoát các dự án
đầu tư cần thực hiện:
- Một là, ban hành tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh tế đối với đầu tư nhà nước để
mức độ hiệu quả kinh tế đối với từng dự án phải đo lường được một cách cụ thể trong đề
xuất, thẩm định, quyết định, kiểm tra, giám sát và đánh giá đầu tư.Trên cơ sở đó, các dự
án đầu tư có hiệu quả cao nhất sẽ được lựa chọn, từ đó đầu tư sẽ được phân bổ và sử dụng
một cách tập trung hơn; kiểm tra và giám sát đầu tư cũng sẽ thuận lợi và hiệu quả hơn.
- Hai là, thay đổi cơ chế phân cấp quản lý đầu tư. Các địa phương, các bộ vẫn có
quyền chủ động xây dựng và đề xuất dự án đầu tư nhưng lựa chọn dự án đầu tư cần được
thực hiện theo nguyên tắc đấu thầu công khai theo cơ chế thị trường. Qua đó sẽ lựa chọn
được các dự án đầu tư có hiệu quả kinh tế cao nhất.
- Ba là, tăng cường thẩm quyền và năng lực của cơ quan chuyên trách quản lý đầu
tư nhà nước.
- Bốn là, thiết lập hệ thống thông tin toàn quốc về đầu tư nhà nước, trên cơ sở đó
thực hiện công khai hóa thông tin về toàn bộ đầu tư nhà nước nói chung và từng dự án

24


đầu tư nhà nước nói riêng. Về việc này, theo tôi các thông tin sau đây cần phải được công
khai hóa:
 Thông tin về dự án đầu tư như: tên dự án; mục tiêu dự án; quy mô; ngành
nghề; tổng vốn, tiến độ phân bổ vốn và tiến độ thực hiện, thời hạn bắt đầu và kết thúc...
 Đơn vị hoặc cá nhân đề xuất dự án, đơn vị và cá nhân xây dựng dự án, những
cơ quan và cá nhân tham gia thẩm định dự án, những lập luận ủng hộ và phản biện về dự
án, báo cáo đánh giá tác động kinh tế - xã hội của dự án.
 Chủ đầu tư thực hiện dự án, những lý do hay tiêu chuẩn lựa chọn chủ đầu tư.
 Danh sách ứng viên nhà thầu và đơn vị được chọn thực hiện dự án, những
tiêu chí đã được sử dụng để chọn nhà thầu thực hiện dự án.
 Tiến độ thực hiện dự án, những khó khăn mới phát sinh, chênh lệch (nếu có)

giữa tiến độ thực hiện và kế hoạch, nguyên nhân, cá nhân và cơ quan chịu trách nhiệm về
nhưng sai sót hay chênh lệch so với kế hoạch.
3.3.3. Tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, khắc phục nhanh
hậu quả của thời tiết và dịch bệnh để tăng sản lượng lương thực, thực phẩm
Hiện nay, tiềm năng tăng trưởng của nước ta còn rất lớn, nhất là khi Việt Nam đã là
thành viên đầy đủ của Tổ chức Thương mại thế giới, đầu tư nước ngoài và đầu tư tư nhân
tăng mạnh, thị trường xuất khẩu được mở rộng, vì vậy, phát triển sản xuất là giải pháp
gốc, tạo hiệu quả nhiều mặt, vừa tăng nguồn cung cho thị trường trong nước và xuất khẩu,
góp phần kiềm chế lạm phát, giảm nhập siêu, vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lại không
gây phản ứng phụ.
3.3.4. Bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hoá, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu
Cân đối cung cầu về hàng hoá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời
sống nhân dân là tiền đề quyết định để không gây ra đột biến về giá, ngăn chặn đầu cơ.
Cán cân thương mại là một chỉ tiêu vĩ mô rất quan trọng. Trong điều kiện tình hình
căng thẳng Mỹ- Trung gia tăng cùng những tác động khác từ nền kinh tế thế giới đã ảnh
hưởng không nhỏ đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam. Để đẩy mạnh xuất khẩu,
Chính phủ cần thực hiện nhiều giải pháp:

25


×