Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Tình trạng lobby ở mỹ và bài học cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.28 KB, 26 trang )

MỤC LỤC
A. Lời mở đầu.........................................................................................2
B. Nội dung chính...................................................................................4
I. Những lý luận cơ bản về lobby..........................................................4
1. Lịch sử hình thành và phát triển......................................................4
2. Khái niệm lobby..............................................................................6
3. Phân loại lobby.................................................................................6
4. Vai trò của vận động hành lang........................................................8
II. Hoạt động lobby tại Mỹ- nét đặc trung trong nền chính trị...............10
1. Khái niệm vận động hành lang ở Mỹ..............................................10
2. Nguồn luật điều chỉnh hoạt động lobby ở Mỹ.................................11
3. Cở chế điều hành hoạt động lobby..................................................12
4. Tình hình hoạt động lobby tại Mỹ...................................................13
5. Những phi vụ lobby nổi tiếng..........................................................14
III. Việt Nam và hoạt động lobby.........................................................19
1. Một số lưu ý cho Việt Nam khi buôn bán với Mỹ..........................19
2. Hoạt động lobby ở Việt Nam..........................................................22
C. Kết luận...............................................................................................25
D. Tài liệu tham khảo..............................................................................26

1


A.LỜI MỞ ĐẦU
Thế giới hiện đang đứng trước xu thế không thể đảo ngược, đó là các
nước ngày càng mở cửa nền kinh tế của nước mình trước các xu thế tự do
hóa. Và vấn đề buôn bán với các nước ngày càng tăng. Điều đó đòi hỏi môi
quốc gia đều phải có những chính sách phù hợp. Đặc biệt, sự hiểu biết về
hoạt động lobby là hết sức cần thiết trong thương mại quốc tế.
Toàn cầu hóa ngày càng sâu và rộng, cũng như vấn đề mà mỗi quốc
gia có thể gặp phải là rất lớn. Trong quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu,


không chỉ riêng các nước đang phát triển mà các nước phát triển đều phải có
những chính sách phù hợp. Từ đó tạo điều kiện cho đất nước mình hội nhập
nhanh hơn, hiệu quả hơn. Mỗi quốc gia đều mong muốn tìm kiếm thị trường
tốt để xuất khẩu, hay nhập khẩu được những sản phẩm vừa tốt lại vừa rẻ.
Nên những thị trường lớn như Mỹ là một thị trường không thể bỏ qua. Do đó
việc tiếp cận thị trường này là một điều cần thiết và mang lại lợi ích cho rất
nhiều nước. Nhưng con dao nào cũng có hai lưỡi. Thị trường Mỹ rất tiềm
năng, nhưng lại có thể khiến các nước buôn bán với họ bị thiệt hại về kinh tế
bởi việc đánh thế, cũng như các vấn đề về vệ sinh an toàn thực phẩm …hay
cũng có thể là nước đó sẽ bị Mỹ cấm vận. Do đó muốn buôn bán với nước
này phải có những chính sách phù hơp. Không những thế, các nước còn phải
có những hoạt động mang tính nghệ thuật mới có được những lợi thế nhất
định khi tiến hành các hoạt động thương mại với Mỹ nói riêng và các nước
khác trên thế giới nói chung.
Vì những vấn đề có thế gặp phải trong thương mại quốc tế, cũng như
xu thế toàn cầu hóa, do đó nghiên cứu những giải pháp để tạo thuận lợi trong
thương mại quốc tế là hết sức cần thiết. Mà thị trường đang quan tâm nhất
hiện nay là Mỹ - nước phát triển nhất thế giới. Vì thế, một hoạt động mà tất
2


cả các nước nên tìm hiểu chính là hoạt động lobby, và điển hình nhất là hoạt
động lobby ở Mỹ. Vì thế nhóm chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài tiểu
luận “Hoạt động vận động hành lang ở Mỹ và những bài học cho Việt
Nam”. Qua đây chúng ta sẽ hiểu hơn được về lobby một hiện tượng mà đã
xuất hiện và phổ biến từ lâu ở các nước phát triển; tuy nhiên nó cũng còn là
một khái niệm khá mới mẻ hay chưa được hiểu một cách đúng nghĩa ở Việt
Nam. Trên cơ sở đó chúng tôi cũng rút ra được một số bài học kinh nghiệm
với Việt Nam để hoàn thiện hơn thể chể pháp luật đối với hiện tượng này
cũng như là những điểm cần lưu ý việc vận dụng lobby của các doanh

nghiệp Việt Nam trong kinh doanh xuất nhập khẩu với Mỹ.

3


B. NỘI DUNG CHÍNH
I. Những lý luận cơ bản về lobby
1. Lịch sử hình thành và phát triển
- Vận động hành lang (lobby) được lấy theo tên của địa điểm mà hoạt
động này được diễn ra đầu tiên trong lịch sử, đó là hành lang của Nghị viện
Anh quốc. Đây là nơi mà trong giờ giải lao các Nghị sĩ thường trao đổi với
các đồng nghiệp hoặc với bất kỳ ai để bổ sung thêm thông tin về vấn đề
đang được thảo luận và quyết định tại Nghị viện.
- Lịch sử khái niệm “vận động hành lang” bắt nguồn từ bối cảnh ra
đời và hoạt động của Nghị viện Anh quốc. Bộ máy chính trị Anh quốc hoạt
động theo cơ chế hai viện là Thượng viện và Nghị viện. Trong đó thì
Thượng viện thường chủ yếu đại diện cho quyền lợi của lãnh chúa, rất gắn
bó với quyền lợi của hoàng tộc do vậy đại đa số nhân dân ít tiếp xúc được
với họ. Còn Nghị viện được lập ra với các thành viên do trực tiếp nhân dân
bầu, đại diện cho quyền lợi của nhân dân và việc họ có tái đắc cử hay không
là phụ thuộc vào sự tin cậy, ủng hộ của nhân dân. Vì vậy họ luôn quân tâm
đến những tâm tư, nguyện vọng và ý kiến của người dân và giữ mối liên hệ
chặ chẽ với cử tri. Theo quy định của pháp luật về Nghị viện, mỗi lần diễn ra
các kỳ họp thì các Nghị sĩ có thể ra ngoài phòng họp để trao đổi với nhau
hoặc tiếp xúc với bất kỳ ai để bổ sung thêm thông tin cho vấn đề đang được
bàn luận tại Nghị viện. Đồng thời pháp luật cũng cho phép công dân được có
mặt tại hành lang của tòa nhà Nghị viện để trình bày ý kiến với các vị đại
biểu của mình. Do vậy, cử tri thường có mặt tại hành lang này để gặp gỡ,
trình bày ý kiến, bổ sung thông tin cho các vị dân biểu thuyết phục họ ủng
hộ hay phản đối những dự luận đang được bàn đến. Từ đó, thuật ngữ vận

động hành lang đã ra đời.
4


- Cho đến đầu thế kỷ XIX, quốc hội Mỹ cho phép công dân tiếp xúc
với các Nghị sĩ để vận động họ ủng hộ hoặc không ủng hộ cho những chính
sách đang và sẽ được Nghị viện xem xét, thuật ngữ “vận động hành lang”
bắt đầu được thừa nhận rộng rãi. Cũng từ đây hoạt động này diễn ra vô cùng
phổ biến và sôi nổi trong tất cả các lĩnh vực từ đời sống kinh tế, văn hóa,
chính trị ở các quốc gia trên khắp thế giới.
- Từ đó lại xuất hiện những nhóm người hay tổ chức chuyên nghiệp
làm trung gian giữa các cử tri, nhóm lợi ích với nghị sĩ để tác động tới
những chính sách và dự luận đang xem xét tại Nghị viện. Những người này
được gọi là các “nhà vận động hành lang” (lobbylist). Và từ đó cũng xuất
hiện một nghề mới trong xã hội-nghề vận động hành lang. Những nhà vận
động hành lang sẽ vận động giúp cho khách hàng của họ. Và cách làm của
họ thường chuyên nghiệp, có tổ chức và hiệu quả hơn so với cách làm của tự
thân các nhóm lợi ích. Họ biết cần phải gặp ai?, vận động như thế nào?, sắp
xếp trình tự thời gian ra sao?,…theo một kế hoạch đã được lập trình từ trước
đó.
- Trên thế giới đã có rất nhiều quốc qia thừa nhận nghề vận động hành
lang cũng như hoạt động vận động hành lang nói chung và có những nguồn
luật chuyên ngành để điều chỉnh hoạt động này như ở Mỹ, châu Âu tuy
nhiên cũng có những nước không chấp nhận nghề này. Tuy vậy dù có thừa
nhận hay không thì vận động hành lang đã trở thành một phần không thể
thiếu trong cuộc chiến chính trị ở mọi quốc gia trên thế giới. Nó tồn tại và
phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của hệ thống chính trị mỗi quốc
gia và thậm chí vượt ra ngoài biên giới quốc gia trở thành vấn đề mang tính
quốc tế có tính thời sự.
5



2. Khái niệm lobby
Có nhiều cách để định nghĩa khái niệm này bằng cách đứng trên góc
độ của các chuyên gia vận động hành lang hay theo quy định pháp luật của
những nước chấp nhận hoạt động này là hợp pháp. Ở đây chúng ta đứng
dưới góc độ của những nhà nghiên cứu để bàn về vấn đề nay. Vậy vận động
hành lang là gì?
Vận động hành lang nghĩa là nỗ lực có chủ ý để gây ảnh hưởng đến
các quyết định chính trị thông qua nhiều hình thức vận động nhằm vào các
nhà hoạch định chính sách.
Đây chính là hoạt động thuyết phục người được vận động ban hành
những chính sách theo như mong muốn của người vận động.
3. Phân loại lobby
Lobby có thể được phân loại theo 2 cách là xét theo cách thức giao
tiếp và theo cách thức thể hiện.

 Xét theo cách thức giao tiếp thì lobby được chia làm 2 hình thức là vận
động trực tiếp và vận động gián tiếp.
 Vận động trực tiếp là hình thức vận động được tiến hành khi người
vận động có các cuộc gặp mặt trực tiếp hay các cuộc giao dịch trực
tiếp thông qua điện thoại, email,.. với người có thẩm quyền ra quyết
định để bày tỏ ý kiến, quan điểm của mình về dự luận hay chính sách
nào đó đồng thời cung cấp thêm thông tin, thuyết phục người ra quyết
định ủng hộ hay phản đối vấn đề đang được bàn luận theo mong muốn
của người vận động. Cần phải xác định được chính xác người ra quyết
định cũng như xác định thời gian, nội dung cuộc gặp gỡ để đạt hiệu
quả cao.

6



 Vận động gián tiếp là hình thức vận động được thực hiện thông qua
những người ảnh hưởng, có liên quan đến người ra quyết định hay gây
được ảnh hưởng tới quan điểm của người ra quyết định. Những người
này có thể là thư ký, trợ lý, cố vấn,…hay thậm chí là những người
thân trong gia đình của người ra quyết định. Người vận động cần phải
tìm hiểu, nghiên cứu kỹ các mối quan hệ trong gia đình cũng như
trong xã hội của người ra quyết định để tìm được người gây được ảnh
hưởng lớn và phù hợp với mục đích của mình.

 Xét theo hình thức thể hiện dù là mang tính chất chính thức hay không
thì thực tiễn cho thấy có 5 hình thức vận động phổ biến sau:
- Thứ nhất, gặp gỡ tại văn phòng làm việc của người có thẩm quyền
trong quá trình ra quyết định. Người vận động bằng các mối quen biết của
mình để có được buổi gặp gỡ với Nghị sĩ tại văn phòng làm việc của ông ta.
Trước khi đến gặp ông ta thì cần phải xác định rõ số lượng, đối tượng những
người tham gia, nội dung của buổi nói chuyện sao cho thật ngắn gọn, xúc
tích và có sức thuyết phục cao.
- Thứ hai, mời người có thẩm quyền tham gia hội thảo. Hội thảo này
do người vận động tổ chức với nội dung liên quan đến vấn đề đang cần vận
động. Tại buổi hội thảo sẽ có những bản tham luận, bài phát biểu phù hợp
đưa ra tác động đến quan điểm của người có thẩm quyền về vấn đề đó.
- Thứ ba, tổ chức tọa đàm để trao đổi thông tin. Cũng giống như buổi
hội thảo thì buổi tọa đàm cần xác định thời gian, địa điểm, đối tượng tham
gia kỹ càng và có phần gọn nhẹ, chọn lọc hơn so với hội thảo. Cần có những
chuyên gia có khả năng thuyết phục cao với những thông tin thu thập được
để thuyết phục Nghị sĩ.

7



- Thứ tư, tổ chức ăn tối với người có thẩm quyền ra quyết định. Có
thể nói đây là phương thức hay được sử dụng nhất trong vận động hành lang.
Trước khi tổ chức buổi ăn tối này người vận động cần tìm hiểu về sở thích,
thói quen của khách mời sau đó là tiến hành lựa chọn nhà hàng phù hợp và
tất nhiên là cả nội dung nói chuyện của bữa ăn cũng phải được lên kế hoạch
sẵn để tránh những câu chuyện lan man hay không liên quan đến vấn đề cần
đạt được. Một bữa ăn với những câu chuyện đúng mực, đi thẳng vào vấn đề
sẽ có hiệu quả cao trong vận động. Theo ông Samuel Ward người được
mệnh danh là “vua lobby” ở Quốc hội Mỹ thế kỷ XIX đã từng khẳng định
bữa tối là phương thức hiệu quả nhất để tiến hành vận động. Và đương nhiên
nó cũng phụ thuộc rất nhiều vào tài ăn nói và sự khéo léo của người vận
động.
- Thứ năm, tặng quà cho người có thẩm quyền quyết định. Quà tặng
có thể là những đồ vật có giá trị, tiền hay những món quà có giá trị tinh thần
như là những chuyến đi chơi xa với chi phí dịch vụ cao.
Người vận động sẽ tùy thuộc vào năng lực bản thân, tiềm lực tài
chính, mục đích, kết quả muốn đạt được để lựa chọn hình thức phù hợp.
Ngoài ra cũng phù thuộc vào hoàn cảnh thực tế của từng giai đoạn trong quá
trình vận động để lựa chọn hình thức và có thể kết hợp nhiều hình thức với
nhau để đạt được hiệu quả cao.
4. Vai trò của vận động hành lang
Vận động hành lang có 3 vai trò chính sau:
- Thứ nhất, vận động hành lang là một bộ phận hợp pháp, chính đáng
của thiết chế dân chủ. Điều này cỏ thể được thấy rõ trong quá trình lập pháp
của các nước phát triển như Anh, Mỹ (chúng ta sẽ tìm hiểu kỹ hơn ở các
8



phần sau), châu Âu hay ở những nước chấp nhận lobby là một hoạt động
hợp pháp khác. Hiện nay, xã hội ngày càng phát triển, các quyền về con
người ngày càng được coi trọng và có quy định rõ ràng trong Hiến pháp và
pháp luật của các quốc gia như quyền bình đẳng nam nữ, quyền tự do ngôn
luận,…Các nước mà chế độ dân chủ càng cao thì những quyền này càng
được quy định chi tiết và cụ thể. Do vậy, việc quyết định các vấn đề quan
trọng có liên quan trực tiếp đến người dân hay các chính sách liên quan đến
các doanh nghiệp ảnh hưởng tới quá trình quản lý kinh tế vĩ mô không phải
là việc của riêng Quốc hội hay các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Bởi
các quyết định này cần đạt được sự đồng thuận, nhất trí cao trong nhân dân
thì mới được coi là quyết định sáng suốt. Thông qua vận động, người dân
hay các nhóm lợi ích đã phát tín hiệu cho những người có thẩm quyền biết
được thái độ, quan điểm, tâm tư, nguyện vọng của họ đối với những vấn đề
đang được bàn luận. Từ đó đảm bảo được tính dân chủ trong xã hội.
- Thứ hai, vận động hành lang giúp cho ý nguyện của các cử tri đến
được với Quốc hội hay cơ quan có thẩm quyền một cách nhanh chóng, rõ
ràng và hiệu quả nhất. Trong xã hội có rất nhiều người, mỗi người lại có tính
cách khác nhau do vậy có cách nhìn nhận, quan điểm khác nhau đối với
cùng một vấn đề. Quốc hội không thể tổ chức gặp mặt trực tiếp từng người
một vì như thế rất tốn kém thời gian và chi phí. Do vậy, những người có
cùng ý kiến thường cùng nhau tập hợp lại thành một nhóm lợi ích để tự họ
tiến hành lobby hoặc cần đến những nhà vận động hành lang. Và thường thì
việc dùng lobbyist là có hiệu quả cao hơn vì cách làm việc chuyên nghiệp và
giàu kinh nghiệm của họ. Họ biết cách truyền đạt ý kiến của khách hàng một
cách ngắn gon nhưng có khả năng thuyết phục cao cũng như đường đi nước
bước cụ thể để đạt được mục đích.

9



- Thứ ba, vận động hành lang giúp mang những vấn đề quan trọng
đến bàn họp của Quốc hội hay cơ quan có thẩm quyền làm cho quá trình ra
quyết định thêm minh bạch dân chủ hơn. Như đã nói ở ý thứ hai thì khi mà
những ý kiến đề đạt của người dân được truyền đạt và gây ảnh hưởng đến
quan điểm của những người có thẩm quyền thì chắc chắn rằng những vấn đề
bức xúc đó của người dân sẽ được bàn đến trong các kỳ họp của các cơ quan
này. Và cũng như đã nói ở ý thứ nhất thì quá trình ra quyết định của các cơ
quan không thể theo ý một chiều, của riêng các cơ quan mà nó còn chịu sự
chi phối, điều tiết của người dân, những người mà lợi ích của họ gắn chặt
với việc ra các quyết định này. Vận động hành lang giúp cho cách quyết
định được đưa ra khách quan hơn. Điều này đảm bảo tính minh bạch, dân
chủ trong xã hội cao hơn.

II. Hoạt động lobby tại Mỹ – nét đặc trưng trong nền chính trị
1. Khái niệm vận động hành lang ở Mỹ
Theo luật pháp của bang Washington – Mỹ, vận động hành lang và
hành động vận động hành lang là “Cố gắng ảnh hưởng đến việc thông qua
hoặc bãi bỏ bất kỳ dự thảo luật nào của cơ quan lập pháp của Washington
hay sự chấp nhận hoặc chối bỏ bất kỳ luật lệ, tiêu chuẩn, thuế địa phương
hay văn bản của bất kỳ cơ quan chính quyền nào theo Đạo luật thủ tục hành
chính nhà nước, chương 34.05 RCW”. Cũng theo luật pháp của bang này, dự
thảo luật có nghĩa là các dự thảo luật, các nghị quyết, những bản kiến nghị,
những bản sửa đổi, những sự bổ nhiệm và những vấn đề khác chưa quyết
định hoặc được đề xuất trong cả hai viện của cơ quan lập pháp, bao gồm bất
kỳ vấn đề gì có thể là đối tượng hành động của cả hai viện hay bất kỳ ủy ban
nào của Nghị viện và tất cả các dự thảo luật và những nghị quyết đã được cả
hai viện thông qua, nhưng đang chờ Thống đốc bang phê chuẩn.
10



Dựa theo định nghĩa này, vận động hành lang bao gồm các nỗ lực để
ngăn chặn việc đưa ra Nghị viện những dự thảo luật làm ảnh hưởng không
tốt đến quyền lợi của thân chủ và nỗ lực nhằm gấy ảnh hưởng tới quyết định
của Tổng thống bang.
2. Nguồn luật điều chỉnh hoạt động lobby ở Mỹ
Từ hơn 100 năm nay, Mỹ đã có nhiều văn bản thừa nhận và quy định
hoạt động lobby. Đạo luật quan trọng nhất áp dụng cho hoạt động lobby ở
nước Mỹ là Luật Liên bang về hoạt động lobby ( The feredal regulation of
lobbying act) được quốc hội Mỹ thông qua nam 1946. Đạo luật này quy định
các hoạt động lobby phải:
1) Đăng ký với thư ký của Hạ viện và Thượng viện.
2) Thường xuyên giải trình chi tiết về vấn đề tài chính.
3) Hàng quý phải gửi báo cáo chi tiết về hoạt động lobby của mình cho
Thư ký của Hạ viện và Thượng viện.
Về đạo luật này, trên thực tế, các hoạt động lobby được công nhận là
hợp pháp. Còn đạo luật để điều chỉnh hoạt động hoạt động lobby nước ngoài
ở Mỹ là Luật đăng ký tác nhân nước ngoài ( The Foreign Agents
Registration Act) được ban hành năm 1938. Luật này quy định các cá nhân,
tổ chức đại diện cho chính phủ nước ngoài tham gia vào các hoạt động như
phổ biến, tuyên truyền chinh trị và bất cứ hoạt động nào tác động đến dư
luận Mỹ, đến các cơ quan, quan chức Mỹ liên quan đến việc thay đổi hoặc
hoạch định chính sách đối nội, đối ngoại thì đều phải đăng ký.
Ngày 19-12-1995, Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã ký ban hành việc
công khai hóa hoạt động lobby ( Lobbying Disclosure Act of 1995) điều
chỉnh các mối quan hệ trong và ngoài nước Mỹ và quy định: “ Bắt buộc
những người hoạt động lobby phải đăng ký phải công khai hóa các khách
11


hàng, các cuộc tiếp xúc, công khai hóa các vấn đề lobby và số tiền công

được chi trả…”.
Hiện nay, pháp luật Mỹ công nhận lobby là một hoạt động hợp pháp
được điều chỉnh bởi ba bộ luật: Luật công khai vận động hành lang ( the
Lobbying Disclosure Code); Luật về công khai ngân sách liên bang ( The
Internal Revenue Code); và Luật đăng ký đại diện cho nước ngoài ( The
Foreign Registration Act).
3. Cơ chế tiến hành hoạt động lobby
Về mặt lý thuyết và nguyên tắc, các hoạt động lobby là nhằm làm cho
hệ thống làm luật và thi hành luật đáp ứng lợi ích của người tiến hành hoạt
động hành lang. Các hoạt động hành lang được tiến hành theo quy trình:
• Các nhóm hoạt động hành lang phải đăng ký vào cơ sở dữ liệu trung
ương và những người làm lobby tham gia vào một phiên họp điều trần
của các nhà lập pháp để nghe báo cáo những chất vấn chính thức và
không chính thức với các quan chức nhà nước được bầu hay bổ
nhiệm.
• Các nhóm hoạt động hành lang gửi những báo cáo hay thông tin kỹ
thuật tới các quan chức có liên quan, tìm cách quảng bá một chủ đề,
soan thảo một dự luật có khả năng được đệ trình, tổ chức các chiến
dịch viết thư tới các nhà làm luật…
• Các Nghị sĩ quốc hội sau khi tiếp xúc với những người làm lobby có
thể đệ trình các dự luật theo yêu cầu của họ.
Để hoạt động lobby đạt được hiệu quả, một nhà vận động phải hiểu rõ
hệ thống chính trị Mỹ, có quan hệ tốt với các nhà làm luật và các nhà hoạch
định chính sách trong Chính phủ, các nhà tư vấn trong Quốc hội. Chính vì
vậy mà rất nhiều nhà vận động hành lang giỏi lại chính là các cựu quan chức
12


trong Chính phủ, các nhà tư vấn trong Quốc hội. Không ai khác, họ là những
người có nhiều kinh nghiệm và xây dựng được nhiều mối quan hệ sau nhiều

năm công tác. Ví dụ điển hình là cựu Nghị sĩ Bob Livingston đã trở thành
nhà lobbyist thành công sau khi rời khỏi chính trường. Chỉ trong vòng 6 năm
thành lập, nhóm lobby của ông đã phát triển thành 1 trong 12 công ty lobby
lớn nhất với doanh thu 40 triệu USD tính đến cuối năm 2004.
4. Tình hình lobby tại Mỹ
Tại thủ đô Washington D.C, lobby là một trong năm nghề đông đảo
nhất, bên cạnh các nghề: viên chức nhà nước, ấn loát, dịch vụ pháp luật và
dịch vụ du lịch. Hiện có hơn 22.000 nhóm lợi ích có tổ chức tại Mỹ và
khoản 50.000 người đăng ký chính thức hành nghề lobby. Những luật lệ
lobby ở Mỹ rất thoáng nên không thể liệt kê hết các phương thức hoạt động
của nó. Với khoản tiền hằng năm thu về lên tới 4 tỉ USD từ các khoản tiền
ủng hộ, tài trợ của các nhà đầu tư, có thể nói ưu thế về tài chính và những
vận động “ngoài lề” trong vận động hành lang đã và đang có ảnh hưởng to
lớn đến chính trường Mỹ và cụ thể là tới quá trình xây dựng chính sách và
pháp luật nói riêng. Điều nguy hiểm ở đây là sự nhập nhằng giữa sự đầu tư
ủng hộ cho các chiến dịch tranh cử và hối lộ, giữa nhận tiền tài trợ cho quỹ
bầu cử và tham nhũng.
Ở Mỹ, những nhóm lobby mạnh nhất là những nhóm đại diện cho
những lợi ích kinh doanh của các tập đoàn tư bản (chiếm tới 72%) : Lobby
công nghiệp quốc phòng, lobby dầu khí, lobby phục vụ nước ngoài. Chỉ có
8% đại diện cho các tổ chức xã hội nghề nghiệp, 5% đại diện cho các nhóm
bảo vệ dân quyền, phúc lợi xã hội, 2% đại diện cho người nghèo và 1% đại
diện cho những nhóm yếu thế trong xã hội như người già, người tàn tật. Như
vậy số người hành nghề vận động hành lang đại diện cho quyền lợi giới kinh
doanh và doanh nghiệp chiếm số lượng áp đảo. Các nhóm lobby này có sức
13


mạnh đáng kể trong quá trình xây dựng chính sách và pháp luật ở Mỹ. Mặc
dù các nghị sĩ phải chịu sự chỉ đạo của các nhóm đảng phái trong Hạ viện và

Thượng viện khi bỏ phiếu, song họ vẫn phải dành sự quan tâm đáng kể đến
ý kiến của công luận và cử tri tại các quận hay bang của mình. Nếu một nghị
sĩ nhận được yêu cầu của một số lượng đáng kể cử tri về một vấn đề nào đó,
trong lúc ban lãnh đạo đảng yêu cầu vị này phải bỏ phiếu khác đi, thì tiếng
nói của cử tri mới là nhân tố chi phối kết quả cuối cùng. Khi các nhóm lợi
ích kết hợp thành một hiệp hội, có sự liên kết lớn hơn, họ sẽ hình thành một
tổ chức vận động hành lang có tính chất chuyên nghiệp. Với các chuyên gia
vận động hành lang dựa vào mối quan hệ tương hỗ giữa các nghị sĩ, tiếng
nói của họ sẽ được chú ý hơn trong Quốc hội, khiến cho Quốc hội khó có thể
bỏ qua ý kiến của các liên minh trước những vấn đề chính sách lớn. Hoặc có
trường hợp các nghị sĩ phe thiểu số khi cần có tiếng nói ủng hộ thì tiếng nói
của liên minh là bằng chứng cho việc ủng hộ rộng rãi đối với quan điểm,
chính sách đó.
Như vậy, trên thực tế, hoạt động lobby ở Mỹ đã và đang tồng tại mang
màu sắc chính trị - pháp lý – xã hội, có tác động mạnh mẽ đến Quốc hội và
Chính phủ Mỹ trong tất cả các công đoạn của quá trình xây dựng pháp luật
và hình thành chính sách đối nội, đối ngoại. Ví dụ như, do đặc thù của việc
bầu cử rất tốn kém nên hệ thống chính trị cần nhiều tiền để hoạt động. Vì
thế, khi các công ty, công đoàn và tổ chức đóng góp tiền bạc cho các Đảng
và các nhà chính trị thì đồng thời họ đóng vai trò quan trọng trong việc định
đoạt chương trình chính trị nhà nước. Mỹ có một hệ thống chính trị và pháp
luật rất phức tạp và trong đó vận động hành lang là hoạt động liên quan trực
tiếp đến cả hệ thống chính trị và pháp luật, nên chính bản thân nó cũng hết
sức phức tạp.

14


Hoạt động lobby ở Mỹ đồng thời còn là sự phản ánh, giám sát, kiềm
chế, đối trọng của các nhóm lợi ích và nhân dân Mỹ đối với các cơ quan

công quyền. Thêm nữa, đây là một cơ chế quan trọng thể hiện được tính dân
chủ rất lớn mà qua đó nhân dân Mỹ có thể phản ánh được trực tiếp ý tưởng,
nguyện vọng, nhu cầu, quan điểm của mình tới các vị quan chức được bầu.
Lobby không phải là một ngành quyền pháp lý, mà mang đậm tính chất xã
hội, nhưng về bản chất, nó là sự chia sẻ quyền lực và xã hội. Bản chất của
vận động hành lang không phải là xấu, tuy nhiên với muôn màu muôn vẻ
của các kiểu vận động mà không có sự kiểm soát chặt chẽ, nó cũng không
tránh khỏi việc lạm dụng, gây nhiều tệ nạn và tai tiếng.
5. Những phi vụ lobby nổi tiếng
5.1. Thỏa thuận hạt nhân Mỹ - Ấn.
Đây là vụ vận động nổi tiếng và khó khăn nhất - nỗ lực thúc đẩy Quốc
hội Mỹ thông qua thỏa thuận hạt nhân Mỹ - Ấn được Tổng thống Mỹ Bush
và Thủ tướng Ấn Độ Singh ký tháng 7/2005 kêu gọi chuyển công nghệ và
nguyên liệu hạt nhân do Mỹ sản xuất cho Ấn Độ. Khi đó, nhiều người trong
Hội đồng kiểm soát vũ khí phản đối, cho rằng văn bản này sẽ làm Ấn Độ
củng cố chương trình hạt nhân và từ chối tham gia hiệp ước NPT. Một số
nhà phân tích còn nói rằng, chính trị mới là động cơ thực sự của sự thỏa
thuận này, khi ông Bush muốn thâm nhập vào một nền kinh tế đang lên của
Ấn Độ, tìm sự cân bằng chiến lược với Trung Quốc trong khu vực và tìm
kiếm di sản của mình trước khi rời nhiệm sở. Những gì mà chính quyền Mỹ
đưa ra theo thỏa thuận cũng đi ngược với các điều khoản của Đạo luật Năng
lượng Mỹ, văn bản đòi hỏi bảo vệ toàn diện việc xuất khẩu công nghệ và
nguyên liệu hạt nhân.

15


Các nhóm lobby bắt đầu chạy đua nước rút. Để thỏa thuận được tiến
triển, cả hai viện của Quốc hội trước tiên phải đưa Ấn Độ ra khỏi đạo luật
nói trên.

Hội đồng doanh nghiệp Mỹ- Ấn thuê công ty luật Patton Boggs ở
Washington và sứ quán Ấn Độ thuê Venable, một công ty luật đã tuyển dung
Birch Bayh, cựu nghị sĩ Mỹ và cha đẻ của TNS Evan Bayh hiện nay và một
số nhân vật tiếng tăm khác.
Ngoài việc tuyên bố quan hệ Mỹ - Ấn sẽ “ định hình thế kỷ 21”, các
nhà lobbyist sẽ cho rằng sẽ tốt cho môi trường vì Ấn Độ đang cần năng
lượng mới thay thế cho than, vốn đang phải lệ thuộc vào Trung Quốc.
Những nhà lobbyist cũng tốn nhiều thời gian và tiền bạc để cuối cùng, hai
viện cũng thông qua thỏa thuận vào tháng 11/2006 với chênh lệch quá cao.
Vụ lobby này cho thấy: ngay cả cơ quan công quyền cũng xoay chuyển kết
quả có lợi cho khách hàng. Do đó, một thỏa thuận chưa chắc đã là một thỏa
thuận khi có người có khả năng và muốn thay đổi nó.
5.2. Việc trao quy chế Tối huệ quốc (MFN) cho Trung Quốc
Một ví dụ điển hình của hoạt động lobby từ nước khác vào Mỹ là năm
1994, khi Tổng thống Clinton trao quyền Tối huệ quốc ( MFN) cho Trung
Quốc, đồng thời tuyên bố từ nay không gắn vấn đề nhân quyền với việc xét
MFN với Trung Quốc hằng năm.
Số là đầu thập niên 1990, Trung Quốc bắt đầu nổi lên tại châu Á –
Thái Bình Dương, Mỹ tỏ ra lo ngại trước “mối đe dọa từ Trung Quốc”.
Trong quan hệ với Trung Quốc, Mỹ luôn dùng chiêu “nhân quyền” để gây
sức ép về thương mại, cụ thể là đe dọa miễn áp dụng quy chế MFN. Thời
hạn áp dụng MFN chỉ trong vòng một năm, nên cứ sau 12 tháng, Quốc hội
Mỹ sẽ lại bỏ phiếu để quyết định xem có nên trao quy chế MFN cho các
16


nước hay không. Nếu Quốc hội bỏ phiếu trống, điều này không những gây
bất lợi cho các doanh nghiệp Trung Quốc khi muốn thâm nhập vào thị
trường Mỹ, mà đặc biệt cản trở các doanh nghiệp ở Mỹ làm ăn ở Trung
Quốc. Vì vậy mà mục tiêu lobby của Trung Quốc tại Mỹ là “ làm sao gây

ảnh hưởng để Trung Quốc được hưởng MFN tại cuộc bỏ phiếu hằng năm tại
quốc hội” và trước tiên “ tập trung nhằm thuyết phục Quốc hội và chính
quyền Mỹ tách vấn đề nhân quyền khỏi việc áp dụng MFN.
Chẳng phải ngẫu nhiên mà cùng lúc các nhà lãnh đạo Boeing lên tiếng
yêu cầu chính quyền Mỹ dành cho Trung Quốc quy chế MFN ( tờ Wall
Street Jounal trước đó đã đưa tin hãng Boeing đang hoàn tất hợp đồng bán
máy bay trở khách trị giá 5 tỉ USD cho Trung Quốc), còn chủ tịch Hạ viện
Tom Folley công khai “đối đầu” với các thành viên Đảng Dân chủ tại Nhà
trắng khi tuyên bố rằng “Tổng thống không nên gắn vấn đề nhân quyền với
thương mại”. Thực chất, Hạ nghị sĩ Foley đại diện cho vùng Spokane, bang
Washington – quê hương của hãng Boeing. Với sự vận động hành lang tích
ở Mỹ như vậy, Trung Quốc đã dành được quy chế MFN năm 1994 với lời
đảm bảo của Tổng thống Clinton “ sẽ không gắn vấn đề nhân quyền với việc
xét quy chế MFN cho Trung Quốc hằng năm”.
5.3. Vụ nổ dàn khoan dầu Deepwater Horizon ở Mỹ
Ngày 20/4/2010, dàn khoan dầu Deepwater Horizon của hãng BP
(Anh) bị phát nổ ở Mỹ, làm 11 công nhân tử nạn và 3 người khác bị thương
nặng, đồng thời gây thiệt hại môi trường nghiêm trọng hơn hẳn vụ tràn 11
triệu gallon dầu từ tàu Exxon Valdez năm 1989. Chỉ tính riêng chi phí khắc
phục sự cố, BP đã tốn đến 930 triệu USD.
Một trong những bằng chứng cho thấy sự “dễ dãi” của Mỹ khi tập báo
cáo phản ứng khẩn cấp dày cộp 538 trang mà BP soạn theo yêu cầu luật liên
17


bang Hoa Kỳ gần như không bàn đến cách làm thế nào để chặn đứng một vụ
tràn dầu ở độ sâu. Mỉa mai thay, báo cáo xử lý tình huống khẩn cấp của BP
lại có không ít phần đề cập đến sự cần thiết bảo vệ hải sư, rái cá biển trong
khi các loài này không có mặt tại vịnh Mexico. Tất cả cho thấy những báo
cáo của BP dường như chỉ thực hiện chiếu lệ, theo yêu cầu của Luật Liên

bang Hoa Kỳ, chứ không là bản kế hoạch tác chiến thực sự nhằm xử lý hậu
quả xảy ra sự cố…
Theo Newsweek, BP đã sử dụng chiêu vận động hành lang để Mỹ bớt
săm soi hoạt động kinh doanh của họ. Với tài ngoại giao và quen biết rộng
của Tổng giám đốc điều hành Tony Hayward, hãng dầu lớn thứ tư thế giới
này đang cố làm sao 15,9 triệu USD mà họ chi cho các chiến dịch lobby đạt
hiệu quả. Một trong những nỗ lực của Hayward là làm dịu bớt sự nghiêm
khắc của các điều luật mới liên quan phòng chống ô nhiễm dầu ban hành
năm 2009. Theo CBS news, kết quả “nhẹ nhàng” này còn nhờ vào khoản chi
lobby từ 2 năm trước khi xảy ra vụ Deepwater Horizon. BP đã thuê 12 công
ty lobby và chi ra 32 triệu USD để gây ảnh hưởng tốt cho kinh doanh của họ
tại Quốc hội, Nhà trắng và ít nhất 14 công ty cơ quan liên quan.
Đây là một ví dụ đáng chú ý, minh chứng cho việc “đồng tiền đi trước
là đồng tiền khôn”.
5.4. Vụ kiện chống bán phá giá đối với sản phẩm da giày, dệt may của
Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ
Ví dụ một số trường hợp các doanh nghiệp Việt Nam đã có các hoạt
động lobby trong các vụ kiện với Mỹ: trong vụ kiện chống bán phá giá đối
với sản phẩm da giày của Việt Nam được xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Trong khi
cơ quan điều tra chọn Brazil để làm thị trường tham chiếu khi đề nghị mức
thuế phá giá. Chúng ta đã làm những cuộc vận động hành lang và kết quả là
18


thay vì chọn mức giá của Brazil, cơ quan điều tra lại chọn Thái Lan. Chúng
ta cũng đã làm những cuộc lobby với nhiều tổ chức kể cả các hiệp hội Thái
Lan để họ chấp nhận và ủng hộ chúng ta. Đối với doanh nghiệp Thái Lan
chấp nhận giúp đỡ Việt Nam không phải vì doanh nghiệp Việt Nam mà cũng
vì lợi ích quốc gia. Và kết quả là thuế suất chống bán phá giá đối với Việt
Nam thấp hơn so với Trung Quốc. Thêm vào đó thời gian áp dụng của Việt

Nam chỉ 2 năm thay vì 5 năm, điều mà từ trước đến giờ chưa có tiền lệ. Đó
là thắng lợi của hoạt động lobby mà doanh nghiệp da giày Việt Nam đạt
được.
Đối với ngành dệt may cũng vậy. Trước đây xuất khẩu của Việt Nam
sang Mỹ chỉ có 900 triệu USD nhưng nay đã trên 2,7 tỷ USD mặc dù có
quota. Việt Nam đã có cuộc vận động để được kết quả đó. Đó là một kết quả
đáng khích lệ vì tổng lượng quota xuất khẩu được cấp phép của Trung Quốc
chỉ hơn gấp 5 lần Việt Nam trong khi khả năng xuất khẩu của Trung Quốc
nhiều gấp 20-25 lần Việt Nam. Mỹ là một quốc gia đa sắc tộc, suy nghĩ
phong phú đa dạng hơn. Mỹ có rất nhiều gu. Chính vì vậy mà cần phải có
những cuộc lobby để hiểu và đáp ứng những gu rất riêng đó của người Mỹ.
Thực sự ngành dệt may chưa có chương trình lobby thường xuyên lâu dài
mà mỗi doanh nghiệp có chương trình hành động riêng của mình.
Từ một vài câu chuyện điển hình trên, có thể thấy rằng các mối quan
hệ, những vụ mua bán lớn ở Mỹ, kể cả các vấn đề liên quan đến chính trị
đều không thể thiếu hoạt động lobby – “ bàn tay vô hình” thực sự trên chính
trường.

III. Việt Nam và hoạt động lobby.
19


1. Một số điểm lưu ý cho Việt Nam khi buôn bán với Mỹ
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, quá trình giao tiếp buôn bán
xuất nhập khẩu với các nước ngày càng tăng. Mỹ lại là một thị trường nhập
khẩu lớn của Việt Nam, nên chúng ta cần có các hoạt động lobby để tạo điều
kiện thuận lợi cho việc tiến hành xuất khẩu sang Mỹ cùng với việc giải
quyết các vấn đề tranh chấp phát sinh nếu có. Những điểm cần lưu ý khi tiến
hành lobby tại Mỹ:
• Thứ nhất, công bằng đối với người Mỹ có nghĩa “sòng phẳng” nhiều

hơn là “đúng” theo nghĩa đạo đức. Khi chính quyền Mỹ có áp lực từ
Hiệp hội Thuỷ sản Mỹ (trực tiếp hay gián tiếp qua các dân biểu của
họ) và lấy lý do nào đó để ngăn chặn một nước đưa tôm, cá vào Mỹ,
mà nước xuất khẩu không có tiếng nói và một phần lực mạnh mẽ thì
phải chấp nhận thiệt thòi. Nguyên tắc này áp dụng cho cả người Mỹ
với nhau.
• Thứ hai, hoạt động lobby ở Mỹ tuy là công khai nhưng giá trị chính
lại nằm ở những hoạt động “hậu trường”, vì các cuộc gặp gỡ giữa
chính phủ và chính phủ thường có giá trị rất giới hạn. Các chính
khách khi gặp nhau thường phải giữ kẽ, phải theo bài và không quan
chức nào muốn xem là vì áp lực trực tiếp của một chính phủ khác mà
phải thay đổi chính sách. Cho nên những nước khôn khéo biết làm
việc với Mỹ thường thương lượng, dàn xếp mọi vấn đề trước khi gặp
nhau để chính thức hoá.
• Thứ ba, phải tìm hiểu thấu đáo hệ thống quyền lực chính trị ở Mỹ.
Chúng ta đều biết rằng cơ quan quyền lực cao nhất và mạnh nhất ở
Mỹ là Quốc hội – gồm Hạ viện với 435 dân biểu có nhiệm kỳ 2 năm
và Thượng viện với 100 thượng nghị sĩ có nhiệm kỳ 6 năm. Hiến pháp
Mỹ quy định nhiệm kỳ 2 năm cho dân biểu là để các vị này luôn bị áp
20


lực phải phục vụ dân vì phải đi vận động dân bầu lại cho mình 2 năm
một lần. Vai trò của thượng nghị sĩ là để cân bằng những đòi hỏi quá
đáng từ Hạ viện vì các thượng nghị sĩ không bị áp lực tranh cử nặng
nề như các dân biểu. Quyền lực của Quốc hội phần lớn dựa trên vai
trò làm luật theo nhu cầu, nguyện vọng của dân và chuẩn chi ngân
sách nhà nước. Do Quốc hội Mỹ nắm hầu bao nên cơ quan này có
quyền chi phối mọi hoạt động của cơ quan hành pháp. Tổng thống có
ký hiệp định với quốc gia nào mà Quốc hội không duyệt thì hiệp định

đó sẽ không có hiệu lực. Quốc hội muốn gì, nếu không ảnh hưởng lớn
đến an ninh, quyền lợi, chiến lược của quốc gia thì thông thường phía
hành pháp đều xuôi theo. Ở Mỹ, Quốc hội thực sự là cánh cửa để
doanh nghiệp, tập thể, hội đoàn tác động trực tiếp nhằm cải thiện
quyền lợi của họ.
• Thứ tư, chính trường Mỹ tương đối minh bạch nhưng hệ thống vận
hành lại chằng chịt, phức tạp, không phải lúc nào cũng công bằng.
Trong lĩnh vực chính trị ngay cả nhuwgnx nước thân thiện với Mỹ và
có văn hóa gần gũi với Mỹ như Anh, Pháp, Đức, Úc… cũng phải cần
đến chuyên gia lobby để vận động thường xuyên với chính khách Mỹ.
Kinh nghiệm của các nước làm lobby hữu hiệu với Mỹ là dùng các
chuyên gia lobby có kinh nghiệm và có thế lực ở Mỹ. Người nước
ngoài khó có kiến thức, quan hệ, tư cách và pháp nhân cần thiết để
tiếp cận dễ dàng với chính giới Mỹ. Những chuyên gia này đã chi trả
những phí lót đường hợp pháp để khi gõ cửa thì được người ta mời
vào. Và họ cũng là người có phương tiện và khả năng “có qua có lại”
để có được ảnh hưởng với các dân biểu.
• Thứ năm, tại Mỹ, khi có xung đột quyền lợi thì một trong những
nguyên tắc chính để tạo cân bằng là thương lượng. Khi hai bên không
21


thể tự giải quyết ổn thoả thì mới đem nhau ra toà hay để cho phía thứ
ba đứng ra giải quyết. Đây là giải pháp cuối cùng vì rất tốn chi phí và
thời gian. Trong suốt quá trình này thì việc lobby là không thể không
sử dụng, nó có vai trò rất quan trọng. Làm lobby không chỉ kêu gọi sự
ủng hộ của doanh nghiệp trong nước mà kéo theo các doanh nghiệp ở
Hoa Kỳ nhất là những doanh nghiệp lớn có có quyền lợi liên quan, và
có tiếng nói, tầm ảnh hưởng đến cả xã hội Hoa Kỳ. Tạo dư luận đối
với báo chí cũng được xem là một vận động hành lang cần thiết để đạt

được mục tiêu. Chúng ta cũng lôi kéo nhiều tổ chức, đoàn thể khác
của thế giới để tham gia bênh vực chúng ta. Như các vụ kiện chúng tôi
đã làm có sự tham gia của tổ chức Action Aid. Đây là tổ chức phi
chính phủ, họ nói lên tiếng nói của người lao động.
Đầu tư vào các hoạt động lobby khá tốn kém. Nhưng đây là phương pháp
ngừa bệnh cho nên thực ra còn rẻ hơn nhiều so với chi phí chữa bệnh. Kinh
nghiệm của các nước làm lobby hữu hiệu với Mỹ là dùng các chuyên gia
lobby có thế lực ở Mỹ. Người nước ngoài khó có kiến thức, quan hệ, tư cách
pháp nhân cần thiết để tiếp cận dễ dàng với chính giới Mỹ. Trong phạm trù
kinh tế, thương mại, nếu muốn làm ăn trên quy mô lớn và lâu dài với Mỹ thì
cần phải có một chiến lược, chương trình lobby cụ thể.
2. Hoạt động lobby ở Việt Nam
Nhiều người Việt Nam suy nghĩ rằng lobby là chuyện đi đêm, bôi
trơn, là phi pháp …nhưng một số người khác lại cho rằng đố là một nghệ
thuất trong kinh doanh hay là sách lược của quôc gia. Hoạt động lobby đã

22


xuất hiện rất lâu, và phổ biến nhất vẫn là ở Mỹ. Nhưng ở Việt Nam thì hoạt
động này được nhìn nhận như thế nào?

2.1. Tình trạng hoạt động lobby ở Việt Nam
- Hiện nay Việt Nam vẫn chưa có hoạt động lobby chính thức. Hoạt
động này vẫn diễn ra, nhưng rất nhiều người vẫn chưa hiểu đúng về nó.
Nhiều người cho rằng đó là hoạt động lén lút, không công khai và phạm
pháp. Có một số người tự nhận mình có thể làm lobby, là đầu mối hay đại
diện.. nhưng thực chất chỉ là đút lót phong bì. Có những phi vụ họ có thể
làm nhưng về lâu về dài điều đó lại ảnh hưởng đến đất nước. Do đó nhiều
nhà đầu tư nước ngoài nhận định đó là những hình ảnh xuất, từ đó ảnh

hưởng đến số lượng, cũng như hiệu quả của các nguồn vốn đầu tư vào Việt
Nam.
- Việt Nam hiện nay chưa có hoạt động lobby tử tế vì:
 Lobby chưa được công nhận. Theo cảm nhận của xã hội và chính
quền thì hoạt động này bị bóp méo không đúng nhưu bản chất của nó.
 Hệ thống pháp chế còn chưa hiệu quả va không rỏ ràng vì thế việc
phân tích đủ và đúng lợi ích của các bên liên quan cũng gặp nhiều khó
khăn, và không rạch ròi.
2.2. Việt Nam nên làm gì để có hoạt động lobby lành mạnh và hiệu quả?
Lobby là động tác nhằm dễ dàng hóa và thuận lợi hóa mối quan hệ
giữa chính quyền là những người có thẩm quyền ra quyết định nào đó. Nếu
hoạt động này hiệu quả sẽ tạo ra một sự đồng cảm giữa chính quyền và
doanh nghiệp và từ đó tạo điều kiện cho sự phát triển của nền kinh tế. Việt
23


Nam cần có quy định cụ thể về hoạt động lobby và công khai hóa hoạt động
này. Nên quy định cụ thể trong hiến pháp và pháp luật như ở Mỹ.
Muốn có được hệ thống lobby tốt, thì phải có một hệ thống pháp chế
tốt. Và hệ thống pháp chế tốt khi có trách nhiệm và đáng tin cậy, đồng thời
cũng phải công khai và minh bạch trong hoạt động.

24


C. KẾT LUẬN
Trong quá trình toàn cầu hóa ngày càng sâu và rộng thì việc Việt Nam
giao lưu buôn bán quốc tế với các nước ngày càng tăng. Trong đó, Mỹ là
một thì trường lớn và đầy tiềm năng cho các doanh nghiệp Việt Nam để tiến
hành xuất nhập khẩu. Do đó việc tìm hiểu hoạt động lobby ở Mỹ sẽ mang lại

hiệu quả cho nước ta.
Mỹ là một thị trường với diện tích đứng thứ 5 thế giới và dân số lại
đứng thứ tư, đây lại là nền kinh tế lớn nhất thế giới nên việc tìm hiểu các
hoạt động lobby ở Mỹ sẽ giúp rất nhiều cho chúng ta. Từ đó doanh nghiệp
Việt Nam có thể xâm nhập thị trường một cách dễ dàng bằng việc bôi trơn
bộ máy của Mỹ. Đồng thời, lobby tại Mỹ đã giảm thiệt hại trong các vụ kiện
của Việt Nam mắc phải, hưởng được một số ưu đãi nhất định. Ngoài ra viêc
nghiên cứu đã cho chung ta những bài học đáng quý về việc lobby ở Mỹ,
cũng như chính thức hóa hoạt động này ở Việt Nam. Bên cạnh đó, khi buôn
bán kinh doanh với các bạn hàng khác thì chúng ta cũng có thể sử dụng các
hình thức lobby để thuận lợi hơn. Ngoài Mỹ ra thì trên thế giới có rất nhiều
nước có hình thức lobby, vì thế chúng ta không những vận dụng hoạt động
lobby với Mỹ mà các thị trường khác cũng có thể.
Xã hội ngày càng phát triển, đi cùng với nó là nghệ thuật lobby cũng
hết sức cần thiết. Mỗi doanh nghiệp, mỗi quốc gia đều nên nghiên cứu nó,
hiểu biết về nó, và vận dụng nó một cách hiệu quả nhất. Hoạt động lobby sẽ
giúp doanh nghiệp đó, đất nước đó có lợi trên trường quốc tế, trong các xung
đột, và được giải quyết xung đột đó một cách thuận lợi. Từ đó lợi ích có
được là một điều chắc chắn.

25


×