Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Bàn về vấn đề kế toán cổ phiếu ngân quĩ tại các công ty cổ phần ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.59 KB, 14 trang )

Bàn về vấn đề kế toán cổ phiếu ngân quĩ tại các
công ty cổ phần ở Việt Nam
Tùy theo tình hình phát triển, nhu cầu về vốn
cũng như yêu cầu quản lý mà công ty cổ phần có
thể mua lại các lọai cổ phiếu do mình đã phát
hành. Các cổ phiếu đã phát hành được công ty cổ phần mua lại
được gọi là cổ phiếu ngân quĩ.
Sự khác biệt
Tuy nhiên việc nhìn nhận về cổ phiếu ngân quĩ ở Việt Nam cũng
còn nhiều điều chưa rõ ràng. Các công ty cổ phần khác nhau có
cách hạch toán khác nhau về việc thu hồi và tái phát hành cổ
phiếu ngân quĩ. Sau đây sẽ nêu sự khác biệt giữa kế toán Việt
Nam và những qui định của chuẩn mực quốc tế về cổ phiếu ngân
quĩ.
Theo chuẩn mực quốc tế về kế toán , “tài sản” của công ty phải là
nguồn lợi kinh tế sẽ mang lại lợi nhuận cho công ty và việc mua
lại cổ phiếu ngân quĩ này là luồng đi ra của tài sản doanh nghiệp.
Trong khi đó theo kế toán Việt Nam, khi công ty cổ phần mua lại
những cổ phiếu do họ phát hành thì những cổ phiếu này nay trở
thành tài sản đầu tư của doanh nghiệp. Cụ thể là cổ phiếu quĩ sẽ
được phản ảnh vào tài khoản 121 “đầu tư chứng khoán ngắn
hạn”, chi tiết 1211 – cổ phiếu. Việc hạch toán như vậy cũng có
nghĩa là công ty cổ phần chuyển đổi từ vốn bằng tiền sang thành
một khoản đầu tư tài chính. Khoản “đầu tư chứng khoán 121” của
Việt Nam cũng được hiểu là những hoạt động đầu tư ra bên
ngoài doanh nghiệp với mục đích kiếm lời. Trong khi đó cổ phiếu
ngân quĩ mà công ty đang nắm giữ là những cổ phiếu hiện đang
không còn lưu hành nữa, cổ tức của những cổ phiếu này cũng
không phải trả, nghĩa là chẳng có khoản lợi nào được tạo ra khi
công ty đang nắm giữ những cổ phiếu này. Vậy thì cổ phiếu ngân
quĩ có nên xem là tài sản của doanh nghiệp hay không?


Ngoài ra cũng theo qui định của kế toán Việt Nam, số dư tài
khoản 121, phần giá trị cổ phiếu ngân quĩ được ghi bằng số âm
dưới hình thức ghi trong ngoặc đơn (***) đặt dưới chỉ tiêu nguồn
vốn kinh doanh của mục B – nguồn vốn chủ sở hữu, bên nguồn
vốn của bảng cân đối kế toán. Việc phản ánh như vậy cũng chưa
thật rõ ràng, vì một khoản được xem là tài sản, nhưng khi trình
bày trên bảng cân đối kế toán lại phản ánh bên nguồn vốn.
Tại một doanh nghiệp khác, hội đồng quản trị quyết định dùng
các quĩ doanh nghiệp để mua lại các cổ phiếu làm cổ phiếu ngân
quĩ như quĩ đầu tư phát triển, quĩ khấu hao...cách hạch toán như
vậy sẽ trực tiếp thay đổi vốn chủ sở hữu (vốn chủ sở hữu giảm).
Ví dụ sau đây sẽ cho thấy việc hạch toán cổ phiếu ngân quỹ làm
giảm vốn chủ sở hữu: công ty cổ phần B có bảng cân đối kế toán
trước khi mua lại cổ phiếu làm cổ phiếu quĩ như sau: (trích)
Nguồn vốn chủ sở hữu: 10.140.000.000
Nguôn vốn kinh doanh: 10.000.000.000
(cổ phiếu thường 1.000.000 cổ phiếu, mệnh giá 10.000 đ/cổ
phiếu)
Quĩ đầu tư phát triển: 20.000.000
Lợi nhuận chưa phân phối: 120.000.000
Giả sử công ty B dùng quĩ đầu tư phát triển mua lại 2.000 cổ
phiếu để làm cổ phiếu ngân quĩ, giá mua đúng bằng mệnh giá
10.000 đ/ cổ phiếu. Vậy bảng cân đối kế toán sau khi mua lại sẽ
là:
Nguồn vốn chủ sở hữu 10.120.000.000
Nguồn vốn kinh doanh 10.000.000.000
(cổ phiếu thường 1.000.000 cổ phiếu, mệnh giá 10.000 đồng/cổ
phiếu
Lợi nhuận thực hiện 120.000.000
Vậy tổng vốn sở hữu có giảm đi, tuy nhiên giá trị phần vốn điều lệ

không thay đổi, phần mô tả cổ phiếu trên nếu mô tả là 998.000
cổ phiếu thì cũng không chính xác (vì nếu lấy vốn kinh doanh là
10.000.000.000 chia cho số cổ phiếu thì mệnh giá bây giờ tăng

×