Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Sự gia tăng và vai trò của vùng văn học nam bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.62 KB, 28 trang )

Đề bài: Sự gia tăng về vị trí và vai trò văn học vùng Nam Bộ giai
đoạn nửa cuối thế kỉ XIX trong tiến trình văn học dân tộc.
BÀI LÀM
I.

Bối cảnh lịch sử
Giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX, về lịch sử bắt đầu bằng sự kiện thực dân
Pháp xâm lược nước ta và cuộc chiến đấu chống xâm lược của nhân dân ta.Đó là
sự kiện xuyên suốt toàn giai đoạn, chi phối mọi sự kiện khác và thu hút mối quan
tâm của tất cả mọi thành viên trong xã hội.
Thực dân Pháp đã lợi dụng lúc Nguyễn Ánh đang lúng túng trong việc
chống quân Tây Sơn vào cuối thế kỉ XVIII để thực hiện dã tâm xâm lược đất nước
ta nhưng trong quá trình đó đã xảy ra một số biến cố. Vì vậy đến giữa thế kỉ XIX,
con bạch tuộc chủ nghĩa thực dân mới lại thò vòi sang các nước phương Đông.
Ngày 1 tháng 9 năm 1858 quân Pháp nổ súng vào cửa bể Đà Nẵng, mở đầu
cuộc xâm lược chính thức nước ta.
Bước đầu thực dân Pháp đã đạt được những thắng lợi to lớn: chiếm ba tỉnh
Miền Đông Nam Kì , rồi ba tỉnh miền Tây, rồi đánh Trung Kì, có được những hằng
ước của triều đình Huế kí kết với chúng.
Trong sự xâm lược của thực dân Pháp , dân tộc ta đã tiến hành một cuộc
chiến đấu quyết liệt chống kẻ thù.Trong cuộc chiến đấu chống Pháp giai đoạn nửa
cuối thế kỉ XIX, giai cấp phong kiến lúc đầu còn chống đối một phần nào, nhưng
về sau dần từng bước đã thỏa hiệp, đầu hàng thực dân Pháp. Trong triều, bộ phận
đầu não của nhà nước phong kiến ngay từ đầu đã chia làm hai phái, chủ hòa và chủ
chiến. Nhìn chung giai đoạn đầu triều đình còn chống Pháp. Nhưng khi Nam Kì
dồn sức chống ngoại xâm, ở miền Trung và miền Bắc chưa có ngoại xâm,bọn
phong kiến tăng cường bóc lột nhân dân rất thậm tệ.Dẫn đến nhiều cuộc khởi nghĩa
nông dân bùng nổ,tiêu biểu là khởi nghĩa của Cai Vàng. Triều đình nhà Nguyễn đã
thỏa hiệp với bọn thực dân để quay lại đàn áp phong trào nông dân trong nước. Sau
1862, triều đình không còn vai trò gì trong cuộc kháng chiến chống Pháp nữa.Cuộc
chiến đấu chống Pháp sau 1862 không những tập trung mũi nhọn vào thực dân


Pháp mà bắt đầu đả kích cả triều đình phong kiến đầu hàng.Một số cuộc khởi nghĩa
tiêu biểu của Đoàn Hữu Trung, Đặng Thai Mai,.....


Cuộc kháng chiến chống Pháp trong phong trào Cần vương tiếp theo sau đó
vẫn chịu sự chi phối của ý thức hệ phong kiến, nhưng không phải do những người
đại diện cho nhà nước phong kiến cầm đầu , mà do các văn thân và sĩ phu yêu
nước chống Pháp lãnh đạo. Phong trào rầm rộ từ Bình Định, Quảng Bình ra đến
Hưng Yên,Thái Bình, Tây Bắc và kéo dài gần hết thế kỉ XIX.
Những diễn biến lịch sử trên đây có ảnh hưởng rõ rệt, trực tiếp đối với sự
phát triển của văn học giai đọc nửa cuối thế kỉ XIX. Mục tiêu đấu tranh của văn
học, cường độ của tính chiến đấu, sự phân hóa các lực lượng sáng tác văn học,.. rõ
ràng chịu sự chi phối của tình hình chính trị lúc bấy giờ.
II.
1.

Khái quát chung về văn học Việt Nam và văn học vùng Nam Bộ giai đoạn
trước nửa cuối thế kỉ XIX:
Văn học Việt Nam giai đoạn trước nửa cuối thế kỉ XIX
Giai đoạn nửa cuối thế kỷ 19 này với bối cảnh thực dân Pháp xâm lược nước
ta. Thực dân Pháp đã đặt ách thống trị lên đất nước ta gần 40 năm và chúng ta phải
sống dưới sự cai trị của chúng. Sự kiện này là một sự kiện quan trọng, làm thức
dậy trong lòng người dân Việt Nam lòng căm thù giặc sâu sắc, ảnh hưởng đến mọi
tầng lớp trong xã hội và nhân dân ta đã chống phá một cách quyết liệt. Qua đó, đây
là giai đoạn lịch sử nước ta chịu nhiều đau thương nhưng vô cùng hùng tráng, tự
hào và vĩ đại.
Trong bối cảnh lịch sử như vậy, văn học ra đời, nhà thơ dùng ngòi bút của
mình để nói hộ lòng người dân. Chính điều đó đã xuất hiện những khuynh hướng
văn học thể hiện qua tính chất “trữ tình” , tính chất thời sự. Trước hết, đối với nền
văn học mang tính thời sự được thể hiện qua việc văn học ra đời trong hoàn cảnh

lịch sử có nhiều biến động nên văn học gắn bó chặt chẽ với chính trị là chống Pháp
đây là chủ đề chính của văn học thời kỳ này. Đối với nội dung văn học mang tích
chất thời sự thể hiện qua việc văn học ra đời trong bối cảnh lịch sử có nhiều biến
động nên ta có thể nói đó là văn học gắn bó chặt chẽ với chính trị và phục vụ cho
chính trị. Nhiều tác phẩm yêu nước ra đời chính là để ghi lại những biến cố lịch sử
của đất nước.
Như ta thấy, vào giai đoạn trước chưa có sự chuyển biến về chủ đề một cách
nhanh chóng như thời kỳ này. Khi nói tới văn học giai đoạn này, chúng ta không


thể không nhắc đến các nhà thơ tiêu biểu như Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn
Khuyến, Tế Xương,... Như Nguyễn Đình Chiểu đã có nhiều tác phẩm yêu nước
chống Pháp, phản ánh nhiều tội ác của giặc và kêu gọi nhân dân Việt Nam ta đứng
lên chống Pháp. Tiếp đó là văn học mang tính chất “trữ tình”, do bị ảnh hưởng của
giai đoạn trước đó nên đã đi sâu vào hình ảnh con người nhưng trữ tình ở đây lại
khác, là trữ tình yêu nước, tinh thần yêu nước nồng nàn chống Pháp của nhân dân
ta, luôn gắn bó chặt chẽ với chính trị, với những biến cố của lịch sử. Như Nguyễn
Khuyến và Tế Xương đều là những nhà thơ hiện thực trào phúng nhưng cũng có
nhiều bài thơ trữ tình, độc đáo và sắc sảo. Chúng ta thấy rằng, nói đến văn học thì
không thể thiếu là ngôn ngữ, thể loại và nghệ thuật.
Văn học Việt Nam giai đoạn trước nửa cuối thế kỷ 19 này đầu tiên thể hiện
khuynh hướng yêu nước chống Pháp, là truyền thống lâu đời của dân tộc ta. Văn
học chống Pháp ra đời chính là để thể hiện lòng yêu nước và vạch trần những tội ác
của thực dân Pháp, những bọn vua quan vô trách nhiệm, bè lũ một cách sắc sảo.
Như tác phẩm Hà thành chính khí ca, Vè thất thủ kinh đô..., tác giả tiểu biểu như
Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Thông... Thứ hai là khuynh hướng hiện thực trào
phúng chính là các nhà thơ dùng ngòi bút của mình để nói tới những mặt trái của
xã hội nhưng qua lăng kính hài hước như Nguyễn Khuyến, Tế Xương.. Tiếp đó, là
khuynh hướng thoát ly hưởng lạc và thường viết về thiên nhiên, thời thế, có lòng
yêu nước thầm kín với cuộc sống ăn chơi, hưởng lạc của tầng lớp quan lại.

Chắc hẳn, văn học yêu nước giai đoạn 1858-1900 này đã thể hiện văn thơ
yêu nước và chính điều đó gắn liền với vận mệnh dân tộc qua các vấn đề chính trị
và nhân sinh quan. Đối với vấn đề chính trị diễn tả việc chống Pháp và chống thỏa
hiệp, đây là vấn đề quan trọng trong văn học yêu nước chống Pháp giai đoạn này.
Thể hiện rõ ràng nhất là tác giả Nguyễn Đình Chiểu qua tác phẩm “ Văn tế nghĩa sĩ
Cần Giuộc”:
“Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình
Chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.”
Đây chính là ca ngợi tinh thần chiến đấu của nhân dân ta với tinh thần yêu
nước. Thứ hai đó là vấn đề nhân sinh quan như: “ Thà chết vinh còn hơn sống
nhục” để thể hiện sống để đánh giặc, chết vì nước nhà nhưng theo giặc đầu hàng là
nhục. Hay như Nguyễn Đình Chiểu từng viết:


“ Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.”
Chưa dừng lại ở đó, văn học yêu nước giai đoạn trước nửa cuối thế kỷ 19
này nói tới văn thơ yêu nước luôn gắn bó với dân tộc, với con người. Nhờ có văn
thơ mà các tác giả đã ghi chép lại những biến cố của lịch sử dù đâu thương nhưng
vô cùng hùng tráng của dân tộc Việt Nam. Nhờ có văn thơ mà đã phản ánh những
mặt trái của xã hội, đó là những con người như bọn quan lại, bọn tay sai chèn ép
dân, hành hạ nhân dân được văn thơ tái hiện một cách chân thực. Qua đó, văn thơ
yêu nước còn là một bản hùng ca, cũng như con người, dù đau thương nhưng luôn
anh dũng, thể hiện một tinh thần yêu nước của dân tộc ta.
Thật vậy, văn học Việt Nam giai đoạn trước nửa cuối thế kỷ 19 đã thể hiện
một bức tranh về cuộc sống, về cuộc đấu tranh nhân dân chống Pháp một cách sinh
động, chân thât nhưng vô cùng sắc sảo. Chính điều đó vừa thể hiện các mặt như
tính chiến đấu, tính đại chúng và đặc biệt đó là tính dân tộc. Văn học giai đoạn này
đã khắc họa một cách chân thực cuộc sống của nhân dân ta đấu tranh chống Pháp,
ghi lại một giai đoạn lịch sử đau thương nhưng bền bỉ của nhân dân ta. Những tác

phẩm yêu nước đó để lại những bài học, những tư tưởng tình cảm và không chỉ giai
đoạn cuối thế kỷ 19 này mà còn đến ngày nay của lịch sử dân tộc Việt Nam ta.
2.

Văn học vùng Nam Bộ giai đoạn cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX.
Văn học Nam Bộ cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX bắt nguồn từ Văn học
Đàng Trong (1600 – 1777), nằm trong giai đoạn có nhiều biến động của lịch sử
khu vực cũng như của văn hóa Đại Việt. Tuy nhiên, xét trong quá trình phát triển
lâu dài, văn học Đàng Trong đã đi qua nhiều thế kỉ mà không để lại nhiều dấu ấn
sâu đậm. Nguyên nhân dẫn đến sự mờ nhạt ấy của văn học Đàng Trong gần như là
do sự thiếu vắng đến trống trải của đội ngũ sáng tác. Cho đến thế kỉ XVI, trong khi
Đàng Ngoài đang từng bước đặt vào trong lịch sử văn học dấu ấn sâu đậm của
riêng mình thì văn học Đàng Trong vẫn còn đang quẩn quanh ghi những nét vẽ sơ
sài vào bức tranh văn học. Viết về văn học Thuận Quảng trước thế kỉ XVIII, Lê
Quý Đôn viết: “đất Thuận Hóa ở thời Nhuận Hồ có cha con Đặng Tất vì tài tướng
văn tướng võ mà nổi danh. Ở Quốc triều vào khoảng Thuận Thiên Hồng Đức thì có
Nguyễn Tử Hoan làm quân sư, Bùi Dục Tài đỗ tiến sĩ, thời ngụy Mạc thì có Dương
Văn An đỗ cao”. Căn cứ vào ghi chép này có thể thấy còn số ít ỏi của những nhân


tài trên lĩnh vực văn chương ở một xứ rộng lớn như Thuận Hóa. Về sáng tác của
các tác giả trên đất Thuận Quảng, họa hoằn lắm mới có cơ hội ghi lại một vài tác
phẩm thành văn, một vài câu thơ của Dương Văn An trong “Ô Châu cận lục” nằm
trong số chứng tích còn được ghi lại. Theo “Ô Châu cận lục”, quyển 5, ghi lại đất
Ô Châu có lưu tên của 24 người tài. Những người này đêu được ghi là có sáng tác
thơ nhưng tác phẩm của họ không được lưu lại, dù chỉ ở dạng nhan đề tác phẩm.
Chỉ còn lại hai tác giả Trần Hoàng Củ và Phạm Thị Diệu là còn có thi phẩm được
ghi chép lại, tuy nhiên cũng chỉ được đôi cau và không rõ thời điểm sáng tác:
“Quận học sinh viên thiên hữu chí
Văn chương đức hạnh mạc gia chư

Thái bình tha nhật quan gia cảo
Độc hỉ tằng vô, ngụy hiệu thư”
(Dịch nghĩa:
Học trò, những người có học trong quận đến hơn nghìn người
Mà văn chương đức hạnh chẳng có ai ra gì
Sau này, khi đất nước thái bình mà giở sách vở của nhà ra xem
Mừng là riêng ta không có quyển sách nào để ngụy hiệu của giặc)
- Trần Hoàng Củ “Bàng chiếm dưỡng ngô mai bạch tuyết
Tâm lao lậu bỉ thảo huyền nhân…”
(Dịch nghĩa:
Đứng ngoài xem xét nuôi dưỡng khí tiết của ta
Lận đận nhọc lòng bỉ lậu thay lũ người kia đen tối như cỏ rác…)
- Phạm Thị Diệu –
Bằng việc xác định những vấn đề trên, chúng ta phải chấp nhận một thực tế
rằng, việc dựng lại bức tranh văn học Nam Bộ trước nửa cuối thế kỉ XIX là một


điều quá khó khăn khi ta phải đối diện với một hoàn cảnh hạn chế đến mức gần
như trống rỗng về tư liệu.
Không chỉ thiếu hụt trầm trọng đội ngũ sáng tác, văn học Nam Bộ trước nửa
cuối thế kỉ XIX còn tồn tại sự kém thịnh về giáo hóa. Đến tận năm 1471, hai xứ
Thuận Quảng mới thuộc về người Việt một cách tương đối chắc chắn. Tuy nhiên,
Thuận Quảng vẫn luôn trong thế của một vùng biên viễn, có lẽ vì vậy mà việc phát
triển giáo hóa cũng chưa được chú trọng một cách đúng mức. Lại thêm việc chọn
Ô Châu làm nơi lưu đày tội đồ của triều Lê lại càng đẩy trình độ học vấn chung của
vùng xuống thấp hơn. Bởi vậy mà mãi đến năm 1740, Đàng Trong mới có khoa thi
Hương đầu tiên. Sự kém thịnh về giáo hóa, những yếu tố đặc trưng của cư dân là
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự trống trải trong đội ngũ sáng tác, đặc biệt là đội
ngũ trí thức Nho học. Chế độ khoa cử còn sơ sài càng khiến cho quá trình phát
triển của văn học Nam Bộ thời kì đầu diễn ra hết sưc chậm chạp.

Tuy nhiên, những đặc điểm trên không phải không tạo ra cho văn học Đàng
Trong – văn học Nam Bộ những manh nha về ưu thế riêng của nó. Về điểm này,
Nguyễn Văn Xuân có nhận định: Các đặc điểm về tự nhiên và dân cư Đàng Trong
đã quy định cho những ưu thế phát triển vượt trội của các loại hình văn học dụng
về diễn đạt bằng hình thức dân gian. Vì rằng, cư dân lao động nghèo khổ, lính
tráng, tội đồ, hay dân anh chị… có thể phần nhiều kém khả năng về chữ nghĩa
nhưng lại rất xuất sắc trong ca hát và diễn trò. Hơn thế nữa, cuộc sống mưu sinh
vất vả trên vùng đất tuy màu mỡ nhưng còn nhiều hoang hóa buộc người dân phải
đổ vào đó sự lao động tận lực hơn là thời gian dành cho những suy tư và ngẫm
ngợi để sáng tạo thi ca. Chính vì thế mà sau này, khi văn học Đàng Trong đã đến
thời kì hưng thịnh hơn, chúng ta hầu như ghi nhận sự hiện hữu của những lời thơ,
những câu văn tràn đầy nhiệt huyết cuộc sống lao động chứ không thiên về ngâm
vịnh trầm buồn như văn chương Đàng Ngoài. Có lẽ chính vì thế mà những bài thơ,
vè, truyện kể, ca hát, ca kịch,… rất được ưa chuộng vì dễ hiểu, lại cụ thể, buồn vui
rõ rang. Những điều ấy cho thấy, các đặc điểm về xã hội và cư dân đã nuôi dưỡng
cho những tố chất khác biệt của văn học Đàng Trong so với Đàng Ngoài. Và sự
khác biệt ấy cũng tạo ra ưu thế cho văn học Đàng Trong, mà sau này chính là văn
học Nam Bộ.
Từ thế kỉ XVII trở đi, chúng ta thấy rõ sự manh nha của văn học Đàng
Trong. Năm 1558, Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa, đánh dấu bước ngoặt


quan trọng đối với văn học Đàng Trong bởi từ đây, vùng đất này được đặt trong thế
đối trọng với vùng đất của chính quyền Lê – Trịnh.
Như vậy, trong hoàn cảnh hiện nay, rất khó để có thể có được cái nhìn toàn
diện về Văn học Nam Bộ trước nửa cuối thế kỉ XIX. Tuy nhiên, trong khuôn khổ
những tài liệu đã được tham khảo và qua thảo luận, chúng em xin đưa ra một vài
nét phác thảo sơ qua về diện mạo văn học Nam Bộ trước nửa cuối thế kỉ XIX như
trên.
III.

1.

Sự gia tăng về vị trí và vai trò văn học vùng Nam Bộ giai đoạn nửa cuối thế kỉ
XIX trong tiến trình văn học dân tộc.
Lực lượng sáng tác
Mỗi giai đoạn trong phân kỳ lịch sử văn học đều được đánh dấu với lực
lượng sáng tác. Lực lượng sáng tác không hẳn quy định những đặc điểm hình
thành, phát triển hay suy tàn của giai đoạn văn học đó, mà nó giống như một đặc
điểm nhận biết của giai đoạn này, là minh chứng tiêu biểu cho việc thời đại xã hội
đã tác động như thế nào đến con người và đến văn học.
Trở lại giai đoạn trước nửa cuối thế kỷ XIX khá xa, có thể thấy, lực lượng
sáng tác của Văn học Việt Nam luôn có sự vận động, biến đổi. Nguyên nhân tác
động để dẫn tới sự thay đổi này có thể nói đó là sự xuất phát từ xã hội Việt Nam
đương thời. Những đặc trưng của xã hội chắc chắn sẽ có ảnh hưởng ít nhiều tới văn
học. Trước tiên, ta xét từ giai đoạn văn học Việt Nam dưới thời nhà Lý (1010 –
1225). Theo thống kê của Lý Thị Mai – Hội Khoa học Lịch sử TPHCM (2010), lực
lượng sáng tác văn học thời kỳ này có 37 tác giả là thiền sư, 9 tác giả là người tu
tại gia, 3 tác giả chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Phật giáo, 3 tác giả là ngưuời giàu
thiện cảm với Phật giáo (trên tổng số 52 tác giả có tác phẩm hiện vẫn được lưu giữ
lại). Dưới thời nhà Lý, các tác giả chịu ảnh hưởng của Nho giáo không phải là ít,
nhưng tại sao văn học thời nhà Lý vẫn được biết đến với tên gọi quen thuộc là văn
học Phật giáo? Bởi lẽ, khi đó, Phật giáo đã trở thành Quốc giáo, kéo theo đó, các
bậc thiền sư, phật tử cũng được nâng cao vị thế của mình trong xã hội. Họ truyền


vào văn học những giá trị của Phật giáo. Thời kỳ này, không ít nhà vua cũng là
những Phật tử trung thành, đắc đạo. Vì thế mà văn học thời kỳ này nhuốm đậm sắc
màu, tư tưởng của nhà Phật.
Tương tự như vậy, văn học Việt Nam giai đoạn nhà Lê, việc độc tôn Nho
giáo dần dà dẫn tới việc Nho giáo trở thành Quốc giáo, thế vị trí của Phật giáo sau

một thời gian dài. Nho giáo thống lĩnh, bao trùm lên toàn xã hội Việt Nam mãi cho
tới nửa cuối thế kỷ XIX, lực lượng sáng tác khi này vẫn là tầng lớp Nho sĩ chiếm
vai trò chủ đạo. Tuy nhiên, xét về bản chất của tầng lớp Nho sĩ nửa cuối thế kỷ
XIX sẽ có nhiều sự khác biệt so với những năm đầu tiên Nho giáo nắm quyền.
Xét về điều kiện hoàn cảnh lịch sử - xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX,
một cột mốc quan trọng đó là cuộc xâm lược của thực dân Pháp ở Việt Nam vào
năm 1858. Điều này dẫn tới nhiều biến động không chỉ tới những bình diện chính
của xã hội mà còn tác động không nhỏ tới bình diện văn học lúc bấy giờ.
Tầng lớp Nho sĩ thời kỳ này, trước hết, họ đang đứng trước những thay đổi
tự thân họ. Nếu nhà Nho trước kia tôn thờ lý tưởng củ mình thì giờ họ lại đang mắc
kẹt giữa lý tưởng và những yêu cầu thiết thực cho đời sống. Chính tầng lớp nhà
Nho cũng tự phân hóa thành nhiều xu thế khác nhau. Một phần họ ngập chìm cùng
với những lý tưởng lỗi thời của mình. Một bộ phận thì làm việc cho chính quyền
Pháp (tiêu biểu nhất là Tôn Thọ Tường *). Một bộ phận nhà Nho đi tìm một hướng
đi mới cho bản thân, cho xã hội, như những nhà cải cách chính trị, chúng ta biết
đến họ với tên gọi những nhà Nho “duy tân” hoặc họ làm những nghề “lao động
phi sản xuất”*, tiêu biểu như ông đồ Chiểu**. Bên cạnh đó, trong đội ngũ sáng tác
này cũng có rất nhiều tác giả được biết tới với một vai trò khác trong lịch sử như:
Tổng đốc Hoàng Diệu (1829 – 1882); Phụ chính đại thần nhà Nguyễn Tôn Thất
Thuyết (1835 – 1913); lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy trong phong trào Cần
Vương Nguyễn Thiện Thuật (1841 – 1926)…


Với một lực lượng sáng tác hùng hậu, văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ
XIX cũng đã có những sắc màu riêng trong toàn cảnh bức tranh văn học Việt Nam.
Kéo theo đó, một khối lượng tác phẩm của thời kỳ này cũng góp phần tạo nên
những giá trị riêng, tạo nên một đặc trưng riêng của văn học Việt Nam nửa cuối thế
kỷ XIX mà các nhà nghiên cứu vẫn gọi đó là văn học yêu nước Nam Bộ.
2.


Nội dung
2.1.
Khuynh hướng văn học yêu nước

Điểm nổi bật nhất trong nội dung của các tác phẩm giai đoạn này là tinh thần
yêu nước. Trong suốt mấy nghìn năm phát triển của dân tộc, tinh thần ấy luôn hiện
hữu, nó như một mạch nguồn không cạn chảy suốt chiều dài lịch sử. Tuy nhiên, sự
thể hiện lòng yêu nước trong văn học thì không phải giai đoạn nào cũng giống
nhau. Trong những khoảng thời gian đất nước hòa bình, nó được thể hiện ở những
áng thơ văn ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên, cảnh thái bình thịnh trị... Khi cả dân tộc
phải đối mặt với giặc ngoại xâm thì tinh thần ấy trỗi dậy mạnh mẽ với các tác
phẩm khích lệ lòng tự hào dân tộc, căm thù giặc sâu sắc. Nửa sau thế kỉ 19 là giai
đoạn ta phải đối mặt với sự xâm lược của thực dân Pháp. Nam Bộ- nơi tuyến đầu
của cuộc kháng chiến đã có những sáng tác mang tính chiến đấu sớm và mạnh mẽ
nhất, trở thành ngọn cờ đầu cho khuynh hướng văn học yêu nước lan ra khắp mọi
miền Tổ quốc. Các tác giả Nam Bộ với số lượng đông đảo đã xuất hiện ngay khi
Pháp bắt đầu tấn công vào Gia Định, sáng tác những tác phẩm kháng Pháp với lời
lẽ vô cùng đanh thép, hùng hồn. So với các thời kì trước thì tinh thần yêu nước
trong những tác phẩm đó đa dạng và có nhiều điểm mới mẻ hơn. Chúng phơi bày
những tội ác của thực dân Pháp, ca ngợi tinh thần chiến đấu của nhân dân dân ta,
đả kích những tư tưởng đầu hàng, thỏa hiệp của một số quan lại nhà Nguyễn...Các
tác giả tiêu biểu của văn học Nam Bộ như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị,
Nguyễn Xuân Ôn, Nguyễn Quang Bích...đã thể hiện nó rất rõ nét tinh thần đó trong
sáng tác của mình, đem đến những giá trị chiến đấu lớn lao trong giai đoạn đầu của
cuộc kháng chiến.
Văn thơ yêu nước nửa sau thế ki XIX là tiếng nói căm thù mạnh mẽ và sự
khinh bỉ vô cùng của ta đối với thực dân Pháp-kẻ xâm lược bạo tàn. Trong khi triều
đình nhà Nguyễn vẫn còn đang phân vân giữa việc chủ chiến hay chủ hòa thì cùng
với nhân dân, các tác giả Nam bộ đã xác định Pháp là kẻ thù lớn của dân tộc. Họ



dùng ngòi bút của mình để chiến đấu với chúng một cách quyết liệt nhất. Nội dung
vạch trần sự tàn ác của thực dân Pháp được thể hiện trong vô vàn các tác phẩm, tác
giả thuộc các thành phần khác nhau. Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ mù yêu nước đã
tố cáo bộ măt của chúng bằng lời lẽ rất hùng hồn. Bài thơ “Chạy giặc” của ông mở
đầu cho dòng văn thơ yêu nước của dân tộc ta trong thế kỉ XIX Trong tác phẩm,
nhà thơ đau cho nỗi đau của nhân dân lầm than khi “Tan chợ vừa nghe tiếng súng
Tây”; sôi sục căm thù tội ác tày trời của quân giặc cướp:
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ đàn chim dáo dát bay.
Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”
Lũ giặc Tây tiến vào nước ta đã gây ra bao cảnh đau thương cho nhân dân ta.
Chúng làm mất đi sự yên bình vốn có, đi đến đâu là cả một không gian tang tóc
bao trùm. Giá trị hiện thực trong đó đã được hiện lên mạnh mẽ, nó truyền tải lòng
căm phẫn mạnh mẽ của nhà thơ đối với quân giặc cướp nước. Trong những bài văn
tế các vị anh hùng đã có công diệt giặc, ông cũng không quên nhắc đến tội ác của
chúng:
“Súng giặc đất rền:
Lòng dân trời tỏ”
(Văn tế nghĩa sy Cần Giuộc)
Hay:
“Giặc cỏ bò lan
Tướng quân mắc hại
Ngọn khói Tây bang đóng đó, cõi biên còn trống đánh sơn lâm”
(Văn tế Trương Định)
Cũng có khi là:
“Phạt cho đến người hèn, kẻ khó, thân của quay treo;
Tội chẳng tha con nít, đàn bà, dối trá bắt vật



Kể mười mấy năm trời khốn khó,
Bị khảo, bị tù, bị đày, bị giết, trẻ già nghe nào xiết điểm tên;
Đem ba tấc hơi mỏn bỏ liều
Hoặc sông, hoặc biển, hoặc núi, hoặc rừng, quen lạ thảy đều rơi nước mắt”
( Văn tế nghĩa sỹ trận vong Lục tỉnh)
Những bài thơ ấy mang tinh thần trước sau như một, đả kích mạnh mẽ lũ
cướp nước và gieo vào lòng dân sự oán hận ngút trời.
Lãnh Cồ, người đứng đầu cuộc khởi nghĩa Sơn thì công kích tội ác và âm
mưu của chúng:
“Như tằm ăn lá, gớm mưu quân Phú-lãng-sa
...
Để cho quân giặc tung hoành, thừa thế ra tay tàn sát”
(Hịch Lãnh Cồ)
Nhiều bài vè của quần chúng cũng tố cáo sự bóc lột của lũ giặc nhân danh
bảo hộ:
“Từ ngày có mặt thằng Tây,
Phu phen tạp dịch hằng ngày khốn thân...
Chồng trốn bắt vợ
Con yếu cha đi
Tiếng khó như ri
Ruộng cày bỏ trắng”
(Vè đi phu Cửa Rào)


Những câu thơ ấy là những lỡi kẽ công kích mạnh mẽ nhất, trong đó vừa có
sự oán hờn, vừa mang những nỗi xót xa cho số phận của nhân dân trước tội ác tày
trời mà giặc Pháp gây ra.
Song song với khuynh hướng văn học thể hiện sự căm thù giặc sâu sắc,
vạch trần bộ mắt tàn ác của quân xâm lược thì những bản hùng ca ca ngợi nhân

dân, ca ngợi những tám gương anh dũng bất khuất, đả kích, phê phán tư tưởng đầu
hàng, bán nước cũng là một trong nhưng mũi giáo sắc nhọn của phong trào văn học
yêu nước, phóng thẳng vào quân giặc, đồng thời nâng cao ý chí quyết tâm, tình
thần chiến đấu của toàn dân. Văn thơ yêu nước Nam Bộ như một chương quan
trọng trong cuốn sử thi của thời đại đã ghi chép một cách cảm động, trung thành
cuộc đấu tranh của dân tộc. Ðó là lịch sử khổ nhục nhưng vĩ đại của dân tộc Việt
Nam trong giai đoạn này. Những câu chữ, những tiếng nói văn chương ấy luôn
chứng tỏ rằng dẫu đau đớn rằng nước đã mất nhưng dân vẫn còn, những con người
khao khát giải phóng dân tộc, sẵn sàng hi sinh vì non sông vẫn còn, những giá trị
tinh thần truyền thống vẫn còn rực cháy nơi mảnh đất đau thương mà anh dũng ấy,
cũng bởi vậy đông đảo nhân dân và các nhà thơ, nhà văn luôn tin tưởng vào thắng
lợi của dân tộc, quyết tâm giương cao ngọn cờ chính nghĩa, chiến đấu đến cùng vì
dân tộc.
Dù là những anh hùng, tướng lĩnh hay những sĩ phu, hay những người dân
chân lấm tay bùn, quanh năm suốt tháng làm bạn vơi đồng ruộng thì nay họ đều
vùng dậy đứng lên, đi theo tiếng gọi của Tổ Quốc, quyết tâm giữ nước, giữ mái
nhà, đồng ruộng, quyết tâm đánh đuổi bọn thực dân Pháp tàn bạo ra khỏi đất nước
ta, đặc biệt là Nam Kì lúc bấy giờ. Những trang thơ anh dũng, đau thương nhưng
cũng đầy hào hùng, khí phách đã khắc họa lên những con người như thê, đã tôn
vinh những chiến công, những bất khuất, hiên ngang của họ, và cũng đã rơi những
giọt nước mắt xót thương, cảm mến tiễn đưa họ. Và nhắc đến văn học thời kì này
người ta luôn nhớ về một nhà yêu nước vĩ đại là Nguyễn Đình Chiểu, không chỉ
thể hiện ngọn lửa căm thù giặc ngùn ngụt bốc cháy, tình yêu nước của ông còn thể
hiện qua tình yêu thương nhân dân tha thiết, luôn gần gũi, thấu hiểu dân chúng,
ông ca ngợi những “dân đen” nhưng quá đỗi anh dũng. “Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc” là một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của Đồ Chiểu. Trước đây vai trò
của người dân chưa được đề cao trong văn chương. người dân trước đó cũng giữ
vai trò quan trọng nhưng chưa phải là sự quyết định của các cuộc kháng chiên,
nhân dân chỉ là lực lượng phục tùng, số phận của họ được định đoạt dựa vào nhà



nước phong kiến, nhưng đến giai đoạn này vai trò người dân ngày càng nổi bật,
trở thành người dân mộ nghĩa, thành trang dẹp loạn. Trong số ấy có người là Dân
ấp, dân lân, những người nông dân Nam bộ cùng khổ lúc bấy giờ. Họ trở thành
nhân vật chính mà sử sách gọi là người nghĩa sĩ nông dân và Nguyễn Ðình Chiểu
đã viết về họ như những người anh hùng của thời đại. Nguyễn Ðình Chiểu đã khái
quát về thời cuộc và đánh giá khái quát về cuộc đời nhân vật, kể về cuộc đời nhân
vật là người nông dân nghèo khổ, chưa quen với việc cung kiếm binh đao bỗng
chốc trở thành người nông dân đánh Tây. Họ yêu nước, tự ý thức được nghĩa vụ
của mình nên chiến đấu rất dũng cảm kiên cường và lập nên những chiến công
hiển hách:
“Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;
chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”
Họ chỉ là những con người quanh năm khoác lên mình màu áo nâu của đất,
bình dị và lam lũ nhưng khi quân xâm lược đã xâm chiếm đất nước, chúng đang
giày xéo lên từng mảnh ruống, từng đám đất quê hương ruột thịt của họ, khi thấy
“mùi tinh chiên vấy vá” không thể chống mắt đứng nhìn, không thể ngồi yên mà
đợi, triều đình đã “bỏ rơi” họ, nhưng làm sao ngăn được tình yêu đất nước nồng
nàn ở họ. Lòng yêu Tổ quốc tha thiết xuất phát từ trái tim đã khiến họ trở nên đẹp
đẽ, lấp lánh… Dòng máu Lạc Hồng cuộn chảy trong người cùng với cơn giận của
lòng yêu nước mạnh hơn yếu hèn, mạnh hơn cái chết. Khát vọng đánh giặc, khát
vọng chiến đấu, khát vọng bảo vệ mảnh đất quê hương đã thôi thúc họ, mặc việc
“đợi tập rèn”, “ban võ nghệ”, “bày bố binh thư”, không màng tới trên mình chỉ có
“một manh áo vải”. Các chàng Gióng của thế kỉ XIX đã đến, “đạp rào lướt tới”, coi
giặc cũng như không.
“Khá khen thay! Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo vòng ở lính diễu binh,
chẳng qua là dân ấp, dân lân mến nghĩa làm quân chiêu mộ
Mười tám ban võ nghệ, nào nơi tập rèn, chín chục trận binh thư không chờ
bày bố.
Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi;

trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ.


Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi cũng đốt xonh nhà dạy đạo kia;
gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc
cũng như không; Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô của xông vào liều
mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược làm cho mã tà, ma ní hồn kinh;
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu chiếc, tàu đồng, súng nổ.”
Hỡi ôi, “một manh áo vải”, “một ngọn tầm vông”, chỉ có “lưỡi dao phay”,
“rơm con cúi”, liệu có thể thắng được “tàu chiến tàu đồng”,” đạn nhỏ đạn to”. Đó
là sự anh dũng, là tấm lòng kiên trinh những có lẽ đó cũng chính là bi kịch của
nghĩa sĩ Cần Giuộc, là tấn bi kịch của thời kì nghiệt ngã ấy. Họ là nông dân nhưng
lại làm kinh ngạc cả chiến trường. Phải chăng cũng vì lẽ đó mà bản hùng ca đã cất
lên trong tiếng nấc lòng. Có thể trận mạc đã vĩnh viễn cướp đi cuộc sống của họ,
nhưng tinh thần xả thân vì nghĩa đã bù đắp cho sự thiếu hụt về lực lường, chênh
lệch với kẻ thù:
“Chi nhọc quan quản Gióng trống kì trống giục…. súng nổ”
Họ đã luôn nuôi trong mình ý chí quyêt tâm “Thà thác mà đặng câu định
khái, về theo tổ phụ cũng vinh, hơn còn mà chịu chữ đầu Tây ở với man di rất
khổ”. Tinh thần ấy, ý đồng chí vẫn chói lòa trong mỗi người dân Cần Giuộc. Sống
để chịu nô lệ, tay sai của Tây thì thà một lần chiến đấu hết mình mà đem vinh
quang cho dân tộc.
“Ôi thôi thôi!”
Một tiếng khóc đầy ai oán, tiếng khóc đến quặn lòng, tiếng khóc để tiễn biệt
những người con Cần Giuộc mãi mãi nằm lại trên mảnh đất quê hương. Họ ngã
xuống nới chiến trường khói lửa. Vẫn còn đó nghiệp nước chưa thành, thấp thoáng
nơi đây bóng mẹ già với ngọn đèn le lói trong đêm:
“Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều! Vợ

yếu chạy tìm chống, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”


Người tử sĩ đã về chốn thiên cổ để lại giữa trần gian mẹ già, vợ yếu, con
thơ… Mai đây họ sẽ ra sao khi cái nghèo vẫn còn đeo đuổi, khi mà nợ nước trả
chưa xong. “Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo thương vì hai chữ thiên dân, cây
hương nghĩa sĩ thắp đèn thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ”. Nguyễn Đình
Chiểu đã bằng tấm lòng đồng cảm để nhìn thấy, nghe thấy và dựng nên một tượng
đài hoành tráng mà mộc mạc, yêu thương. Xuyên suốt trong nền văn học nước nhà
hình ảnh người nông dân đã được đề cập khá nhiều lần. Nhưng trước Đồ Chiều thì
chưa một ai công khai vẽ lên và ngợi ca hình ảnh người anh hùng “chẳng qua là
dân ấp dân lân mến nghĩa làm quân chiêu mộ”. Hơn thế nữa, việc thổi vào văn
chương chất dân gian đã khiến “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của cụ trở thành áng
văn vừa hào hùng, bi tráng mà cũng rất gần gũi, giản dị. Nguyễn Đình Chiểu cũng
đặc biệt cảm phục, ngợi ca những sĩ phu yêu nướcLà những lãnh tụ nghĩa binh
chống Pháp như Trương Ðịnh, Phan Tòng… Nhà thơ đã ca ngợi, nhắc nhở, ghi
công trạng của họ. Ca ngợi Trương Ðịnh, Phan Tòng Vì nước, giúp đời, xem
thường cái chết Anh hùng thà thác chẳng đầu Tây. Hình ảnh của họ rất hiên ngang,
đẹp đẽ, đi vào lịch sử và mang đậm nét bi hùng:
“Làm người trung người đáng bia son
Ðứng giữa càng khôn tiếng chẳng mòn
Cơm áo đền bồi ơn đất nước
Râu mày giữ vẹn phận tôi con
Tinh thần hai chữ phau sương tuyết
Khí phách nghìn thu rỡ núi non”
(Ðiếu Phan Tòng)
Có thể nói, qua nguyên mẫu một Trương Ðịnh, Phan Tòng, Nguyễn Ðình
Chiểu đã dựng lên hình tượng người sĩ phu tiêu biểu cho cả một tầng lớp kẻ sĩ ưu
tú nhất của thời đại lúc bấy giờ. Và còn có cả những trí thức yêu nước bất hợp tác
với kẻ thù, hình ảnh Kỳ Nhân Sư trong tác phẩm Ngư Tiều y thuật vấn đáp là tiêu

biểu cho điều đó, Nhân Sư đã tự xông mắt cho mù để khỏi làm sĩ liêu, làm thái y
cho giặc (Thà đui mà giữ đạo nhà). Ðây là hành động tự hủy để giữ thân, giữ đạo:
“Sự đời thà khuất đôi tròng thịt


Lòng đạo xin tròn một tấm gương.”
Nhưng Nhân Sư không hề bỏ rơi trách nhiệm của mình, luôn làm điều thiện
để thực hiện thiên chức cao cả: Làm thuốc, dạy thuốc chữa bệnh cho dân, tập hợp
và giác ngộ những người dân yêu nước, đợi thời cơ ra cứu nước:
“Hỡi bạn y lâm ai có hỏi
Ðò xưa bến cũ có ta đây”
Từ thái độ của Nhân Sư có thể thấy được thái độ của Nguyễn Ðình Chiểu:
Yêu nuớc nhưng bất lực đến dày vò tâm hồn:
“Ðã cam chút phận dở dang
Trí quân hai chữ mơ màng năm canh”
Mặc dù bất lực nhưng tác phẩm vẫn thể hiện được niềm tin tưởng lạc quan
vào tương lai dân tộc:
“Bao giờ nhật nguyệt dày gương sáng
Bốn bể câu ca hiệp một nhà”
Và điều cảm động là tấm lòng của nhà thơ trước sau cũng đều thuộc về dân,
về nước, thủy chung, son sắt:
“Mắt nhìn trong tiết thanh minh,
U Yên đất cũ cảnh tình trêu ngươi.
Trăm hoa nửa khóc nửa cười,
Như tuồng xiêu lạc gặp người cố hương.
Cỏ cây đưa nhánh đón đường,
Như tuồng nếu hỏi: Ðông hoàng ở đâu?
Bên non đá cụm cuối đầu,
Như tuồng oan khuất lạy cầu cứu sinh.



Líu lo chim nói trên cành,
Như tuồng kẻ mách tình hình dân đau.
Ngày xuân mà cảnh chẳng xuân,
Mưa sầu, gió tủi biết chừng nào thanh!”
Không chỉ vậy, bên cạnh những khúc ca, những áng thơ văn bi hùng ca
ngợi lòng yêu nước, tinh thần dũng cảm, bất khuất của nhân dân ta, cụ Đồ Chiểu
còn dùng ngòi bút sắc sảo tài năng của mình chĩa vào bọn Việt gian bán nước,
những kẻ có tư tưởng phản động, đầu hàng hèn hạ:
Mến nghĩa bao đành làm phản nước
Có nhân nào nỡ phụ tình nhà
hay:

Hễ làm người chớ ở hai lòng
Ðã vì nước phải theo một phía
Sau Nguyễn Đình Chiểu – ngôi sao sáng của nền văn học yêu nước dân tộc,
thì Phan Văn Trị là nhà thơ được nhắc đến khá nhiều, với tình yêu nước thương
dân nồng nàn, căm thù giặc sâu sắc, ông cũng đã tiếp bước anh cha làm nên những
áng thơ văn bùng cháy, bằng ngòi bút của mình, cụ đả phá, tiến công quyết liệt vào
lũ giặc cướp nước và bè lũ tay sai. Lòng yêu nước ấy chan chứa trong bài thơ tiêu
biểu sau:
“Thất tỉnh Vĩnh Long
Tò te kèn thổi tiếng năm ba,
Nghe lọt vào tai, dạ xót xa.
Uốn khúc sông rồng mù mịt khói,
Vắng hoe thành phụng ủ sầu hoa
Tan nhà cám nỗi câu ly hận,


Cắt đất thương thay cuộc giảng hòa

Gió bụi đòi cơn xiêu ngã cỏ,
Ngậm cười hết nói nỗi quan ta.”
Và khi quân Pháp đàn áp cuộc khởi nghĩa của Đinh Sâm nổ ra tại Láng
Hầm, cạnh Phong Điền. Để tỏ lòng tiếc thương những nghĩa sĩ đã bỏ mình, Phan
Văn Trị đã làm hai câu đối thật xúc động:
“Võ kiếm xung thiên, Ba Láng giang đầu lưu hận huyết.
Văn tinh lạc địa, Trà Niềng thôn lý đãi sầu nhan.”
Tạm dịch:
“Kiếm võ ngút trời, Ba láng sông sâu tràn hận huyết.
Sao văn sa đất, Trà Niềng thôn xóm thảy sầu mang”
Nhà thơ Bảo Định Giang đã từng nêu nhận xét: “Sau Nguyễn Đình Chiểu,
Phan Văn Trị xông xáo tiến lên đánh địch như một dũng sĩ. Ngòi bút trong tay ông
trở thành ngọn giáo, nhằm thẳng vào bọn bán nước, đánh rất đau, khiến đối
phương không cựa quậy được...”
Ông luôn ngợi ca, khâm phục những người tướng, người linh, người dân anh
hũng, sẵn sàng xả thân vì đất nước, xem đó là những bức tượng đài vĩ đại của đất
nước, và cũng chính vì vậy, ồng căm thù giặc và lũ bán nước vô cùng, ông thẳng
tay đả kích những tên vì sợ chết vì ham vinh hoa phú mà làm việc cho Pháp. Tôn
Thọ Trường là một trong những ví dụ điển hình của một tên phản quốc, nghịch
đạo, trở thành “chó săn” cho giặc mà Phan Văn Trị đã châm biếm, đả kích một
cách thẳng thắn, sâu sắc:
“...Mắc mưu đốt đít tơi bời chạy,
Làm lễ bôi chuông dớn dát sầu.
Nghé ngọ già đời quen nghé ngọ
Năm dây đàn khảy biết nghe đâu.”
(“Con trâu”)


Cụ Cử Trị dùng điển tích Trung Quốc “Mắc mưu đốt đít”: Điền Đan là tướng
nhà Tề đã dùng “hỏa ngưu trận” để đánh nước Yên đeo gươm vào sừng, buộc cỏ

khô vào đuôi trâu rồi đốt. Trâu bị nóng, lồng lộn xông vào trận chém, húc điên
cuồng. Cụ Cử cho rằng Tôn Thọ Tường cũng bị Pháp dùng như vậy. Bài thơ “Đá
cá thia thia” của ông cũng chất chưa bao nhiêu nỗi lòng của người con yêu nước
khi thấy cảnh đồng loại, người cùng một nước cắn xé, đấu đá nhau đầy phẫn uất
mà đau thương:
“Đồng loại sao ngươi chẳng
ngỡ ngàng,
Hay là một lứa phải nung gan!
Trương vi so đọ vài gang nước,
Đấu miệng hơn thua nửa tấc nhang...”
(“Đá cá thia thia” – bài I)
Và rồi cụ đưa ra “động cơ” mà chúng đá nhau:
“Đằm thắm mưa xuân trổ mấy màu,
Vài tài, vì sắc mới kình nhau.
Đua toan hai nước toan giành trước,
Lừng lẫy đôi hơi chẳng chịu sau...”
(“Đá cá thia thia” – bài II)
Nhà thơ đã mượn hình ảnh cá thia thia để chỉ trích bọn bán nước, bám gót
thực dân, quay lại tàn sát, mưu hại đồng bào, tàn phá quê hương xứ sở của mình để
trục lợi cá nhân, thật là lũ người hèn hạ, đáng bị băm ra trăm mảnh!
Như vậy, qua việc tìm hiểu về một số tác phẩm của 2 tác giả yêu nước lớn
của Nam Bộ giai đoạn cuối thế kỉ XIX, chúng ta đã thấy rõ rằng, tình yêu nước của
những nhân cách lớn ấy nói riêng, và rất nhiều những lực lượng sáng tác khác nói
chung của miền đất Nam Bộ đau thương, anh dũng không chỉ thể hiện qua lòng
căm thù giặc ngùn ngụt bốc cháy, mà còn được thể hiện sâu sắc qua tình yêu


thương nhân dân, ca ngợi nhân dân, sĩ phu, anh hùng yêu nước, đồng thời chĩa
thẳng ngòi bút sắc nhọn như giáo mác của mình vào lũ giặc tàn ác và bè lũ tay sai,
bè lũ bán nước. Đây thực sự là một giai đoạn mở đầu nhưng nở hoa của thơ văn

yêu nước chống Pháp mà văn học Nam Bọ là thành tố quan trọng trong những
bước tiến ấy của lịch sử văn học.
2.2.

Một số khuynh hướng khác

Bên cạnh nội dung yêu nước là nổi bật của nền văn học Việt Nam nói
chung và văn học miền Nam nói riêng thì văn hoc Việt Nam xuất hiện các nội dung
khác như : khuynh hướng văn học hiện thực phê phán, khuynh hướng văn học
thoát ly hưởng lạc.
Khuynh hướng văn học hiện thực phê phán không còn là một bộ phận của
văn học yêu nước mà thực sự trở thành một khuynh hướng độc lập . Tuy không
phát triển mạnh mẽ như khuynh hướng văn học yêu nước nhưng có sự phát triển
đều khắp cả trong Nam ngoài Bắc, khu vực miền Nam ta có thể kể đến các tác giả
như : Học Lạc, Nhiêu Tâm ,Học Quế…Họ đều là những nho sỹ sống gần gũi với
nhân dân, chán ghét cảnh cuộc sống suy đồi của triều đình , bất mãn với xã hội và
chỉ có tiếng nói nhỏ bé hay không can đảm để đứng lên chống đối nên làm thơ để
bộc bạch tấm lòng cuả mình. Mỗi nhà thơ một phong cách, một tính cách khác
nhau, nhưng đều không đả kích trực tiếp, mượn hình ảnh ẩn dụ, ám dụ để chỉ bọn
cường hào ác bá được nói tới …
“ Sống thời bắt thỏ, thỏ kêu rêu
Thác thả dòng sông xác nổi phều
Vằn vện xác còn phơi lẫn đẫn
Tới lui bịn rịn bầy tôm tép
Đưa đón lao xao lũ quạ diều..”
Thơ văn mộc mạc, chất phác cái nôm na của cả những con người Nam Bộ đi
vào thơ một cách rất tự nhiên. Về nghệ thuật, phần lớn lực lượng sáng tác vẫn là
các nhà nho cũ được tiếp nhận chữ quốc ngữ nên các tác phẩm hầu hết sáng tác
theo thể Đường luật biến thể, song lại ghi bằng chữ quốc ngữ, số ít bằng chữ hán,
chữ nôm. Có lẽ vì vậy mà khi đánh giá về khuynh hướng này, có ý kiến cho rằng :



Văn học hiện thực phê phán thế kỉ XIX đã đóng góp lớn cho sự phát triển ngôn
ngữ của dân tộc. Có thể nói văn học Miền Nam với khuynh hướng hiện thực phê
phán này đã góp phần không nhỏ vào diện mạo chung của nền văn học Việt Nam
cuối thể kỉ XIX.
Cuối thế kỉ XIX, với tình hình đất nước biến chuyển một cách mạnh mẽ,
khiến phần lớn con người trong xã hội đều bất mãn với xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh
những nhà văn yêu nước chủ nghĩa, những nhà nho thất thời kêu tiếng than nhỏ bé
với xã hội, xét đến cùng vẫn là tiếng nói phản kháng, lại có những nhà cầm bút đi
theo khuynh hướng thoát ly hưởng lạc. Có vẻ như, con người đã quá bế tắc, đến
bước đường cùng và cứ mặc trôi số phận ? thoát thai đến một cõi thiên thai đầy
màu sắc ước vọng và cảnh bình yên ? Hay sẵn trong con người là tâm lý TÙY
THỜI ?
Họ là những con người làm quan cho thực dân Pháp. Họ làm quan để có
điều kiện hưởng lạc, thỏa mãn cuộc sống cá nhân, cũng vì vậy mà hùa theo giặc
Pháp để đàn áp cách mạng. Trong thơ văn của họ, phần lớn nói về cuộc sống cuộc
sống ăn chơi ở các nơi thanh lâu, kĩ viện, hoặc xa gần theo đuổi một hình bóng giai
nhân.
Văn học nô dịch là một cái tên được nhắc đến trong nền văn học cuối thế kỉ
XIX. Đây là một khuynh hướng được coi là phản động của những phần tử tay sai
Pháp. Chúng ra sức ca ngợi thực dân Pháp và đả kích phong trào kháng chiến,
biện hộ cho những tên tay sai bán nước. Khuynh hướng văn học này dựa vào tình
hình chính trị, ban đầu còn khá dè dặt, song càng về sau càng bộc lộ một cách
trắng trợn hơn.
3.

Nghệ thuật

Dưới phương diện nghệ thuật, các tác phẩm được viết chủ yếu bằng chữ

Nôm, hoặc viết về thể thơ dân tộc là lục bát.. Với khuynh hướng văn học này có sự
phát triển hơi ít ỏi và có phần kém cạnh ở phía Nam, tuy nhiên cũng được đánh giá
có những đặc sắc đáng kể về nghệ thuật.
Văn học dân tộc phát triển rực rỡ cả về số lượng lẫn chất lượng, đặc biệt là
về chất lượng. Ở cả hai bộ phận văn học Hán và Nôm, đặc biệt là ở bộ phận văn
học Nôm có sự phát triển nhảy vọt, phồn vinh chưa từng thấy. Ðiều này chứng tỏ


sự trưởng thành đến mức thuần thục của văn học Nôm. Tại sao lại có sự phát triển
này? Có thể kể đến 3 nguyên nhân chính: Ðội ngũ sáng tác được tăng cường, đó là
kết quả của việc mở rộng việc học ở nông thôn; nhờ có sự thay đổi quan niệm sáng
tác do tác động của đời sống; lật cấm chữ Nôm không có tác dụng nữa.
3.1.

Thể loại

Những thể loại truyền thống vẫn tiếp tục phát triển và hoàn thiện hơn. Sự nở
rộ đáng chú ý là truyện thơ Nôm và khúc ngâm. Nó làm đậm thêm nét đặc sắc của
bộ mặt văn học giai đoạn này. Thể loại thể hiện tính đại chúng, tính nhân dân sâu
sắc.
Các thể loại dài như: Truyện thơ Lục vân Tiên , Dưong Từ Hà Mậu, Ngư
Tiều y thuật vấn đáp.
Các thể loại ngắn như: Sử ca, thơ Ðường, thơ lục bát, vè hịch, văn tế…
Trong đó hịch và văn tế là hai thể loại tiêu biểu vì nó thích hợp cho việc kêu gọi và
diễn đạt tình cảm lớn.
Các thể loại ngắn là thể loại thành công hơn cả vì nó sáng tác nhanh, mang
tính thời sự và phục vụ kịp thời đáp ứng được yêu cầu của cuộc chiế đấu và tình
cảm của nhân dân.
Các thể loại sân khấu: Tuồng, chèo cũng phát triển . Về nội dung chưa có gì
đổi mới đáng kể so với trước nhưng về hình thức thì có nhiều đóng góp

Thể ca trù là một thể thơ trữ tình ngắn, so với thể thơ Ðường luật thì nó có
dung lượng lớn hơn và cách luật cũng thoải mái hơn. Thể này xuất hiện từ thế kỷ
XVI với Lê Ðức Mao nhưng sau đó không được dùng. Ðến đầu thế kỷ XIX nó
được dùng lại với các nhà thơ Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Hàm
Ninh. Ca trù của Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát đạt đến trình độ mẫu mực.
3.2.

Phương pháp sáng tác

Văn học giai đoạn này vẫn chưa thoát khỏi chủ nghĩa quy phạm là phương
pháp lấy những chuẩn mực, tiêu chuẩn có sẵn để sáng tác dẫn đến công thức, ước
lệ. Phương pháp chính vẫn là phương pháp sáng tác truyền thống. Nhưng do yêu
cầu phản ánh trung thực và gần gũi để động viên chiến đấu nên văn học đã vận
dụng nhiều chất liệu hiện thực, mang sắc thái phê phán và ít nhiều đã phá vỡ những


khuôn khổ của phương pháp sáng tác truyền thống. Ðặc biệt là Trần Tế Xương, tác
giả có nhiều đóng góp trong việc sáng tác một phương pháp mang đậm tính hiện
thực. Bên cạnh đó khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa khá phát triển đặc biệt là ở
hai tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí và Truyện Kiều.
Ảnh hưởng qua lại giữa văn học dân gian và văn học viết trở nên sâu rộng,
đặc biệt là ảnh hưởng của văn học dân gian vào văn học viết ở cả hai bộ phận Hán
và Nôm rất rõ.
Trong bộ phận văn học chữ Hán, phong cách biểu hiện của thơ vẫn chưa có
gì đổi mới, vẫn chưa thoát khỏi biểu hiện có tính chất công thức, ước lệ của văn
học phong kiến. Riêng văn xuôi chữ Hán có phần khác trước, câu văn trong sáng,
giản dị hơn, lập luận cũng chặt chẽ, lô gích hơn.
Trong bộ phận văn học chữ Nôm, nghệ thuật biểu hiện một mặt kế thưà
truyền thống; mặt khác có sự đổi mới đáng kể. Văn học giai đoạn này bớt lối diễn
đạt chung chung, ước lệ, không cụ thể mà bám sát đời sống. Trong thơ hiện thực

trào phúng nổi bật lên tính cụ thể, cá thể rõ nét, các nhà thơ đã dùng tiếng cười để
xua tan mọi suy nghĩ siêu hình, tự biện, chất sống của nó rõ hơn trong thơ trữ tình.
Cùng với lối biểu hiện có tính chất cá thể, cụ thể lịch sử, thơ thời kỳ này
còn xuất hiện cái tôi trữ tình. Phong cách cá nhân rõ nét. Những đại từ ngôi thứ
nhất số ít như Tôi, tớ, anh, em, ông, mình… đã thay thế cho ta, hoặc một ẩn chủ
ngữ cùng loại. Ðiều này đã làm cho văn học giai đoạn này có tiếng nói riêng vừa
gần gũi vừa đại chúng.
3.3.

Văn học mang tính trữ tình:

Văn học giai đoạn này đã kế thừa tính trữ tình của văn học dân gian và văn
học bác học đồng thời có sự vươn một buớc theo hoàn cảnh mới của lịch sử. Vì
vậy nó chịu ảnh hưởng sâu sắc tính trữ tình của văn học giai đoạn trước, chủ yếu đi
sâu vào chủ đề con người nên chất trữ tình của nó rất phong phú và đa dạng.
Nhưng trữ tình ở đây là trữ tình yêu nước, phát triển trên cảm hứng mới của chủ đề
đó là lòng yêu nước gắn liền với những biến cố lớn lao của đất nước.
Văn học giai đoạn này đã thể hiện tình cảm yêu nước của nhân dân bằng
những lời lẽ thiết tha sâu nặng. Do đó yếu tố lãng mạn đã giữ vai trò không thể
thiếu được để đảm bảo cái nhìn vừa đúng hiện thực vừa vừa phù hợp với nguyện


vọng của nhân dân. Ngay Nguyễn Khuyến và Tú Xương là những nhà thơ hiện
thực trào phúng nhưng cũng có những bài thơ trữ tình độc đáo.
Có thể nói, văn thơ yêu nước phong phú về trữ tình nhưng không thiếu tự sự
kể cả trào phúng, tính trữ tình là yếu tố căn bản của văn học yêu nước chống Pháp.
3.4.

Ngôn ngữ


Ngôn ngữ thơ ca trong văn học Nôm có bước phát triển so với giai đoạn
trước, xu hướng trở về với dân tộc, với đời sống ngày càng tăng , các xu hướng này
đã có từ trước nhưng đến giai đoạn này phát triển mạnh hơn.
Vẫn tồn tại hai thành phần chữ Hán và chữ Nôm. Có tác giả viết hoàn toàn
bằng chữ Hán như Miên Thẩm, Nguyễn Thông, Nguyễn Quang Bích, Nguyễn
Xuân Ôn… Có tác giả viết bằng chữ Hán vừa bằng chữ Nôm như Nguyễn Khuyến.
Có tác giả viết chủ yếu bằng chữ Nôm như Nguyễn Ðình Chiểu, Trần Tế Xương…
Bên cạnh đó chữ quốc ngữ cũng được khích lệ dưới nhiều hình thức: Báo
chí, phiên âm, dịch thuật…. Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của đã cò nhiều hoạt
động rộng rãi nhằm phổ biến chữ quốc ngữ như phiên âm, dịch một số tác phẩm
chữ Nôm và chữ Hán ra chữ quốc ngữ, biên soạn truyện cổ tích bằng chữ quốc
ngữ, làm tự điển, ngữ pháp… Sự ra đời cuốn Ðại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh
Tịnh Của xuất bản năm 1895 và 1896 là một công trình biên soạn có giá trị.
Một loạt những ngôn gnữ hàng ngày rất mới, rất mộc mạc đã đi vào thơ văn
và có giá trị hiện thực đáng quý.
IV.

Đánh giá
Với cách phân kỳ lịch sử truyền thống, nửa sau thế kỷ XIX thường được tái
hiện bắt đầu từ mốc niên đại 1858, tức là từ thời điểm liên quân Pháp – Tây Ban
Nha nổ súng đánh vào bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), chính thức mở màn cho cuộc
xâm lược của thực dân Pháp ở Việt Nam nói riêng, Đông Dương nói chung. Song
cho đến những năm cuối cùng của thập kỷ 40 thế kỷ XIX, thực dân Pháp vẫn chưa
thực hiện được ý đồ xâm lược. Điều đó không phải do Pháp nản lòng mà do những
điều kiện khách quan quyết định. Dồn dập những sự kiện lớn xảy ra đã làm chậm
tham vọng của Pháp. Tháng 2 năm 1848 cuộc cách mạng tư sản Pháp nổ ra, lật đổ
Louis Philippe, lập chính thể cộng hòa. Tháng 12 năm 1848 Louis Bonaparte nắm


quyền, giải tán quốc hội, xưng (là) Napoléon III, lập Đế chế thứ hai (1852)…Thời

trị vì của Napoléon III là thời của “con ngựa thực dân”…Louis Bonaparte là một
con người đầy tham vọng cá nhân. Ông ta lên nắm quyền nhờ những lá phiếu của
Công giáo. Vì vậy, dưới chiêu bài “truyền bá Công giáo” Louis Bonaparte ra sức
mở rộng thuộc địa. Kể từ đây, mọi bước leo thang trong cuộc thuộc địa hóa ở Việt
Nam của quân đội Pháp đều gắn bó hết sức trực tiếp và mật thiết với các hoạt động
của giáo hội thừa sai và các giáo sĩ.
Chính bối cảnh lịch sử trên đã tác động không nhỏ đến tình hình kinh tế,
chính trị và văn hóa của nước ta, nhất là trong lĩnh vực văn học, mà trọng tâm là
vùng văn học Nam Bộ. Vùng văn học này tuy không phải là một vùng văn học quá
rộng nhưng nó cũng không dễ để tìm hiểu trong một sớm một chiều, trong giới hạn
về mặt thời gian và quy mô tìm hiểu, chúng tôi chỉ xin đề cập đến vùng văn học
này thông qua một tác gia tiêu biểu là Nguyễn Đình Chiểu.
Vùng văn học Nam Bộ là một vùng văn học mới song không phải vì thế mà
vị trí, vai trò của nó trở nên mờ nhạt trong toàn bộ tiến trình văn học dân tộc; trái
lại nó có một chỗ đứng quan trọng trong tiến trình chung của văn học dân tộc. Tuy
có độ dày truyền thống không bằng các vùng văn học khác, nhưng vùng văn học
này cũng có những ưu điểm riêng của nó. Văn học Hà Tiên và văn học của các tác
giả Sài Gòn Gia Định (Chiêu Anh các và Gia Định tam gia thi xã) là những mốc
lớn có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành vùng văn học này. Nhưng dưới
triều Nguyễn, những đại diện quan trọng nhất của văn học khu vực này cũng đồng
thời là quan lại của triều đình bị thu hút ra kinh đô và tham gia sinh hoạt văn học
với những vùng đất khác. Việc Nguyễn Đình Chiểu trở về sống và tạo dựng sự
nghiệp văn học ở khu vực này đặt ông vào tình thế trở thành người đại diện quan
trọng duy nhất của cả nền văn học “ngay tại chỗ!”. Ông trở thành người nối dài
mạch Nam tiến của truyện Nôm và cũng là người chấm dứt mạch Nam tiến đó.
Sống và sáng tác trong môi trường dồi dào sức sống của văn học, văn hoá dân gian
mà ảnh hưởng của văn học bác học còn mỏng mảnh, ông đã mở cửa cho văn học
dân gian ùa vào trong sáng tác của mình.
Như đã nói ở trên, Bonaparte lên nắm quyền là nhờ những lá phiếu của
những tín đồ công giáo, chính vì thế, khi tiến hành xâm lược thuộc địa trong đó có

Việt Nam, hắn đã dùng Thiên Chúa giáo như một công cụ hữu hiệu để tiến hành
đồng hóa văn hóa nước ta để tiện bề chiếm đánh và cai trị. Từ đây Thiên Chúa giáo


×