Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Cây trồng biến đổi gen triển vọng, thách thức và cơ hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.92 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
1. Phân tích một số lí do chọn tình huống 2
2. Một số khái niệm, định nghĩa liên quan đến cây trồng biến đổi
gen hoặc sinh vật biến đổi gen
3
3. Phát triển cây trồng biến đổi gen trên thế giới và triển vọng 3
4. Định hướng nghiên cứu và phát triển cây trồng biến đổi gen tại
Việt Nam
6
5. Những lợi ích của sinh vật biến đổi gen nói chung 7
6. Một số nguy cơ rủi ro có thể xảy ra do sinh vật biến đổi gen 8
7. Vấn đề an toàn sinh học và quản lí đánh giá rủi ro 9
8. Cây trồng biến đổi gen và tương lai phát triển ở Việt Nam 10
9. Việt Nam nên phát triển cây trồng biến đổi gen 13
KẾT LUẬN 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH 16
1
MỞ ĐẦU
Vào năm 1973 sinh vật biến đổi gen đầu tiên được tạo ra trên thế giới là
vi khuẩn Escherichia Coli biểu hiện gen của vi khuẩn Salmonella. Năm
1996, lần đầu tiên cây trồng biến đổi gen được phép trồng tại Hoa Kỳ. Trong
vòng 15 năm từ 1996 đến 2010, diện tích cây trồng biến đổi gen lên tới
148 triệu hec-ta tại 29 quốc gia với các loại cây trồng chính là ngô, bông,
đậu tương, cải dầu ...
Tuy nhiên, việc nghiên cứu và phát triển sinh vật biến đổi gen cũng gắn
liền với những rủi ro tiềm ẩn có thể gây ra bởi sinh vật biến đổi gen đến môi
trường, đa dạng sinh học và sức khỏe con người. Nhằm đảm bảo việc
phát triển và ứng dụng sinh vật biến đổi gen một cách an toàn, các quốc gia
trên thế giới đã và đang thực hiện nhiều biện pháp nhằm quản lý an toàn sinh


học đối với các sinh vật biến đổi gen bao gồm việc đánh giá rủi ro kỹ lưỡng
trước khi cho phép thương mại hóa cũng như thực hiện quản lý rủi ro trong
suốt quá trình nghiên cứu, khảo nghiệm và thương mại hóa sinh vật biến đổi
gen.
Việt Nam là một trong các quốc gia trên thế giới rất chú trọng vấn đề quản lý
an toàn sinh học đối với sinh vật biến đổi gen. Từ năm 2004, sau khi gia nhập
Nghị định thư Cartagena về An toàn sinh học, Việt Nam đã ban hành một
loạt các văn bản pháp lý cũng như chính sách về vấn đề quản lý sinh học tại
Việt Nam.
Năm 2010 đã có một số giống cây trồng biến đổi gen lần đầu tiên được trồng
thử nghiệm tại Việt Nam (cây ngô và cây bông vải chuyển gen). Việt Nam
nên phát triển cây trồng chuyển gen hay không? Nếu có thì chúng ta phải có
những giải pháp nào.
2
1. Phân tích một số lí do chọn tình huống:
Những nghiên cứu và ứng dụng về lĩnh vực công nghệ sinh học trong nông
nghiệp đang phát triển nhanh và mang lại hiệu quả rất to lớn.
Cây trồng biến đổi gen là một trong những thành tựu quan trọng của công nghệ
sinh học nông nghiệp, vì nó mang lại nhiều lợi ích cho người nông dân như:
năng suất cao, chất lượng tốt, kháng được sâu bệnh, kháng thuốc diệt cỏ….
Sau hơn 10 năm ứng dụng phát triển cây trồng biến đổi gen ở nhiều nước trên
thế giới, đã chứng minh rằng cây trồng biến đổi gen đã mang lại hiệu quả
kinh tế rõ rệt, việc triển khai ứng dụng cây trồng biến đổi gen tăng liên tục về
số lượng các nước tham gia, về diện tích tăng hàng năm…
Ở Việt Nam, đã nghiên cứu về sinh vật biến đổi gen nói chung và cây trồng
biến đổi gen nói riêng từ trước những năm 1990, đến nay đã và đang có một
số dòng (chưa phải là giống) cây biến đổi gen ở mức độ thử nghiệm cấp độ
nhà kính nhà lưới. Nhưng từ năm 2010, Việt Nam đã trồng thử nghiệm cây
trồng biến đổi gen (cụ thể là cây ngô và cây bông vải) ở một số địa bàn (Vĩnh
Phúc, Bà Rịa – Vũng Tàu, Kontum), các kết quả thử nghiệm được đánh giá là

rất khả quan.
Vấn đề đặt ra là: Vì cây trồng biến đổi gen là dạng cây trồng đã được chuyển
gen ngoại lai (ADN, vật chất di truyền) từ sinh vật khác. Nên có thể xảy ra
những rủi do mà con người chưa thể biết trước được: như sự không kiểm soát
được gen ngoại lai được chuyển, sự phát tán gen, phá vỡ cân bằng sinh thái,
gây ngộ độc, dị ứng…
Vì vậy: Việt Nam nên phát triển cây trồng biến đổi gen hay không, nếu
không thì tại sao? Nếu có thì bao giờ? Cần phải giải quyết những vấn đề gì?...
Tình huống này cần giải thích, chứng minh, phân tích một số nội dung sau:
một số khái niệm, thuật ngữ liên quan đến cây trồng biến đổi gen hay sinh vật
biến đổi gen, những lợi ích của trồng biến đổi gen hoặc sinh vật biến đổi
gen, những nguy cơ rủi ro có thể xảy ra, tại sao phải quan tâm đến vấn đề an
toàn sinh học, sự cần thiết phải đánh giá và quản lí rủi ro, một số kiến hay
3
quan niệm của các chuyên gia của Việt Nam về cây trồng biến đổi gen hay
sinh vật biến đổi gen.
2. Một số khái niệm, định nghĩa liên quan đến cây trồng biến đổi gen
hoặc sinh vật biến đổi gen
- Sinh vật biến đổi gen là sinh vật có cấu trúc di truyền bị thay đổi bằng công
nghệ chuyển gen.
Cây trồng biến đổi gen là thực vật mang một hoặc nhiều gen được đưa vào
không thông qua lai tạo. Những gen được đưa vào (gen chuyển) có thể
được phân lập từ những loài thực vật có quan hệ họ hàng hoặc từ những
loài khác biệt hoàn toàn. Thực vật tạo ra được gọi là “thực vật biến đổi gen”
mặc dù trên thực tế tất cả thực vật đều được “chuyển gen” từ tổ tiên hoang
dại của chúng bởi quá trình thuần hoá, chọn lọc và lai giống có kiểm
soát trong một thời gian dài.
3. Phát triển cây trồng biến đổi gen trên thế giới và triển vọng
Vào đầu thế kỷ 21, dân số thế giới đạt 6,1 tỷ vào năm 2000 và tiến tới 9,2 tỷ
vào năm 2050 nên thách thức cho việc nhân đôi sản lượng lương thực trong

vòng 50 năm là rất lớn. Hiện tại, hơn 1 tỷ người trên thế giới đang phải đối
mặt với nạn đói và suy dinh dưỡng. Công nghệ hứa hẹn nhất trong tăng sản
lượng thực phẩm, thức ăn chăn nuôi và bông sợi là việc tạo ra những giống
cây trồng với các tính trạng mới. Do đó, cây trồng biến đổi gen hiện đang
được nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi tại nhiều quốc gia trên thế giới.
Năm 2010 kỷ niệm 15 năm thương mại hóa cây trồng biến đổi gen,
1996-2010. Diện tích cây trồng biến đổi gen (tính theo luỹ kế) giai đoạn
1996-2010 vượt 1 tỷ ha (tương đương với tổng diện tích rộng lớn của Mỹ
hoặc Trung Quốc), điều đó cho thấy rõ ràng rằng cây trồng biến đổi gen đang
tồn tại và phát triển.
Theo tính toán, giai đoạn 1996-2010 diện tích cây trồng biến đổi gen đã tăng
87 lần, điều này cho thấy công nghệ về cây trồng này là loại công nghệ được
chấp nhận nhanh nhất trong lịch sử nông nghiệp hiện đại.
4
Diện tích cây trồng biến đổi gen đạt 148.000.000 ha trong năm 2010, đáng
chú ý nhất là riêng năm 2010 diện tích cây trồng biến đổi gen đã trồng là 14
triệu ha, đây là sự gia tăng lớn thứ hai trong vòng 15 năm.
Số lượng các nước trồng cây biến đổi gen đã tăng đến mức kỷ lục là 29 nước,
tăng từ 25 nước trong năm 2009, 10 nước đứng đầu, diện tích cây trồng biến
đổi gen của mỗi nước lớn hơn 1 triệu ha. Hơn một nửa dân số thế giới, 59%,
hay gần 4 tỷ người, sống ở 29 quốc gia trồng cây biến đổi gen.
Ba quốc gia mới, Pakistan, Myanmar và Thụy Điển, lần đầu tiên đã công bố
chính thức trồng cây biến đổi gen trong năm 2010, và Đức cũng tiếp tục
trồng. Trong số 29 nước trồng cây biến đổi gen trong năm 2010, có 19 nước
là nước đang phát triển và chỉ có 10 nước là nước công nghiệp, ngoài ra 30
nước nhập khẩu các sản phẩm cây trồng biến đổi gen với tổng số 59 quốc gia
phê duyệt sử dụng các loại cây trồng biến đổi gen, hoặc là để trồng, hoặc
nhập khẩu; 75% dân số thế giới sống ở 59 quốc gia này.
Trong năm 2010, đã có 15.400.000 nông dân trồng cây biến đổi gen - đặc biệt
là trên 90% là các hộ nông dân nhỏ và nghèo tài nguyên ở các nước đang

phát triển, số nông dân hưởng lợi còn thấp do đánh mất lợi nhuận từ cây
trồng biến đổi gen chuyển sang cây trồng truyền thống. Đáng chú ý, từ năm
1996, nông dân trên toàn thế giới đã biểu quyết và đưa ra khoảng
100.000.000 quyết định độc lập để trồng và tiếp tục trồng nhiều loại cây
trồng biến đổi gen hàng năm, vì những lợi ích đáng kể mà họ thu được.
Tại các nước đang phát triển diện tích cây trồng biến đổi gen tăng 48% trong
năm 2010 và sẽ vượt quá diện tích cây trồng biến đổi gen tại các nước công
nghiệp trước năm 2015. Tốc độ tăng trưởng của cây trồng biến đổi gen đã
tăng nhanh hơn ở các nước đang phát triển, 17% hay 10,2 triệu ha, so với 5%
hay 3,8 triệu ha ở các nước công nghiệp.
Năm nước đang phát triển, dẫn đầu là Trung Quốc và Ấn Độ ở châu Á, Brazil
và Argentina ở Mỹ Latinh, và Nam Phi trên lục địa châu Phi là các nước dẫn
đầu về diện tích cây trồng biến đổi gen.
5
Brazil là quốc gia được coi là động cơ của sự tăng trưởng ở châu Mỹ Latinh,
đã tăng diện tích cây trồng biến đổi gen nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác
trên toàn thế giới - một mức tăng kỷ lục là 4 triệu ha.
Tại Úc, cây trồng biến đổi gen đã được phục hồi sau một đợt hạn hán nhiều
năm với sự gia tăng lớn nhất tương ứng năm trên năm là 184% và đạt
653.000 ha.
Burkina Faso là nước có diện tích cây trồng biến đổi gen tăng lớn thứ hai với
tỷ lệ 126%, 80.000 nông dân trồng trên diện tích 260.000 ha, tương đương
với một tỷ lệ chấp thuận 65%.
Tại Myanmar, 375.000 hộ nông dân nhỏ đã trồng thành công 270.000 ha
bông Bt, tương đương với 75% chấp thuận cây trồng biến đổi gen trên tổng
số hộ trồng bông trên cả nước. Tại Ấn Độ, sự tăng trưởng tiếp tục cho năm
thứ chín, 6,3 triệu nông dân trồng cây biến đổi gen với 9.400.000 ha bông Bt,
tương đương với tỷ lệ chấp thuận là 86%.
Mê-hi-cô đã triển khai thành công một loạt khảo nghiệm đồng ruộng đối với
ngô biến đổi gen.

Tám nước cộng đồng chung Châu Âu đã trồng ngô chuyển gen Bt kháng sâu,
hoặc khoai tây tinh bột "Amflora", vừa được EU phê duyệt - sự phê duyệt
đầu tiên cho phép trồng trong vòng 13 năm ở Châu Âu.
Lần đầu tiên, cây trồng biến đổi gen chiếm một tỷ lệ đáng kể, 10% của gần
1,5 tỷ ha đất canh tác toàn cầu; lớn hơn 50% tổng diện tích đất canh tác của
29 quốc gia trồng cây biến đổi gen vào năm 2010.
Trong năm 2010, sự kết hợp nhiều tính trạng là một đặc tính quan trọng của
cây trồng biến đổi gen - 11 nước trồng cây biến đổi gen với 2 hoặc nhiều tính
trạng kết hợp, và 8 quốc gia đang phát triển – 32,2 triệu ha hay 22% trong số
148 triệu ha là diện tích trồng cây biến đổi gen mang nhiều tính trạng kết
hợp.
Từ năm 1996 đến năm 2010, cây trồng biến đổi gen đã góp phần vào tính bền
vững và sự biến đổi khí hậu bằng cách: sản lượng cây trồng ngày càng tăng
và trị giá 65 tỷ đô la Mỹ, tạo một môi trường tốt hơn, bằng cách tiết kiệm 393
triệu thuốc trừ sâu; chỉ tính trong năm 2009 giảm phát thải 18 tỷ kg khí CO
2
,
6
tương đương với việc giảm gần 8 triệu chiếc xe hơi trên đường, bảo tồn đa
dạng sinh học bằng cách tiết kiệm 75 triệu ha đất; và giúp giảm nghèo bằng
cách giúp 14,4 triệu hộ nông dân nhỏ, trong số đó có những hộ là những
người nghèo nhất trên thế giới.
Vấn đề cấp thiết hiện nay đối với các hệ thống quản lý phù hợp, có hiệu quả
về thời gian/chi phí là trách nhiệm, sự nghiêm túc nhưng không nặng nề cho
các nước đang phát triển nhỏ và nghèo. Giá trị toàn cầu của riêng hạt giống
cây biến đổi gen đạt 11,2 tỷ đô la Mỹ trong năm 2010, và gần 150 tỷ đôla Mỹ
/năm cho ngô, đậu tương và bông nói chung.
Có thể thấy triển vọng tương lai đáng khích lệ trong năm năm tiếp theo: ngô
chịu hạn vào năm 2012; gạo vàng vào năm 2013; và lúa Bt trước mục tiêu
phát triển Thiên niên kỷ năm 2015, 1 tỷ người nghèo ở các hộ trồng lúa ở

châu Á có khả năng hưởng lợi. Cây trồng biến đổi gen có thể đóng góp to lớn
cho các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ 2015 về cắt giảm một nửa đói
nghèo bằng cách tối ưu hóa năng suất cây trồng.
4. Định hướng nghiên cứu và phát triển cây trồng biến đổi gen tại Việt Nam
Hiện nay, việc nghiên cứu và phát triển cây trồng biến đổi gen tại Việt Nam
đã và đang nhận được sự quan tâm ủng hộ của Chính phủ.
Việc nghiên cứu sinh vật biến đổi gen ở Việt Nam tập trung vào phân lập,
tuyển chọn các gen quý có giá trị ứng dụng cao tiến tới sử dụng để chuyển
vào sinh vật nhận nhằm tạo nên những giống lý tưởng. Một số gen có giá trị
nông nghiệp đã được tuyển chọn bao gồm gen chịu hạn, lạnh, kháng bệnh ở
lúa; gen cry và vip mã hóa các protein độc tố có hoạt tính diệt côn trùng của
vi khuẩn Bacillus thuringiensis (Bt), gen mã hoá protein bất hoạt hoá
ribosome ở cây mướp đắng và gen mã hoá α-amylase của cây đậu cô ve
có hoạt tính diệt côn trùng; gen mã hóa protein vỏ của virus gây bệnh đốm
vòng ở cây đu đủ; gen mã hóa kháng nguyên vỏ của các chủng virus dại...
Trên cơ sở đó, các nghiên cứu chuyển gen có giá trị vào sinh vật nói chung
và cây trồng nói riêng đã và đang được tiến hành trên nhiều đối tượng với
nhiều nguồn gen khác nhau. Đối với thực vật, gen Xa21 kháng bệnh bạc lá do
7

×