Một số giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng huy động vốn trung và
dài hạn tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
I- ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA BIDV ( 2000-2005) VÀ ĐỊNH HƯỚNG HUY ĐỘNG
VỐN TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA BIDV TRONG THỜI GIAN TỚI.
1- Định hướng phát triển của BIDV ( 2000-2005):
Toàn cầu hoá, tự do hoá đang là xu thế phát tiển tất yếu của nền kinh tế
thế giới trong giai đoạn hiện nay, trong đó có nền kinh tế Việt Nam.Trước bối
cảnh đó, hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam sẽ có những thời cơ
mới song cũng phải đối phó với những thách thức mới. BIDV nhận thấy để đáp
ứng CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, Ngân hàng đang đứng trước một
số khó khăn lớn
- Nguồn vốn còn nhỏ bé, cơ cấu chưa hợp lý.
- Công nghệ còn nghèo nàn, lạc hậu.
- Khả năng cạnh tranh và hội nhập quốc tế còn thấp.
- Tụt hậu luôn là nguy cơ nếu BIDV không có bước đi đúng hướng và sự
phấn đấu nỗ lực liên tục.
Để nâng cao sức mạnh cạnh tranh, làm tốt vai trò chủ đạo trên thị trường
vốn đầu tư và phát triển, để hội nhập, phát triển và để trở thành Tập đoàn Tài
chính- Tín dụng mạnh ở Việt Nam trong thời gian tới, BIDV đã rà soát đánh giá
lại thực trạng hoạt động, xây dựng chiến lược phát triển bền vững; hoàn thiện
giai đoạn 1 đề án củng cố BIDV, và tiếp tục hoàn chỉnh voà thangs 6 năm 2001,
trong đó xác định rõ hướng đi như sau:
* Định hướng chung:
Giai đoạn từ năm 2001-2005 có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh
tế xã hội đất nước nói chung cũng như hệ thống NHTM Việt Nam nói riêng.Đối
với hệ thống BIDV, định hướng phát triển trong giai đoạn này là:
+Tiếp tục đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động Ngân hàng phù hợp với
luật pháp và thông lệ quốc tế.
+Xây dựng Ngân hàng theo hướng phát triển bền vững, phát huy vai trò
chủ đạo của NHTMQD.
+Kinh doanh đa năng tổng hợp, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm,
dịch vụ và hiệu quả kinh doanh Ngân hàng nhằm góp phần phát huy nội lực
nền kinh tế, phục vụ đắc lực cho CNH, HĐH đất nước, chủ động hội nhập với
các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới.
* CÁC QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN CƠ BẢN:
a- Xây dựng BIDV thành một Tập đoàn tài chính- Tín dụng ( đa khách
hàng, đa thị phần, đa thị trường, đa sở hữu trong đó sở hữu Nhà nước là chủ
đạo). Với mô hình tổ chức phù hợp, có Trung tâm điều hành và các đơn vị
thành viên hợp lý- tổ chức theo nhóm khách hàng lớn, theo nhóm sản phẩm ở
những địa bàn cần thiết.
b- Quản trị điều hành hoạt động Ngân hàng đúng pháp luật, từng bước
theo thông lệ ( theo các nguyên lý quản lý Ngân hàng trong nền kinh tế thị
trường)
c- Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, không ngừng nâng cao chất lượng và
hiệu quả kinh doanh, tăng trưởng liên tục phi hợp với tốc độ phải kinh tế đất
nước, có cơ cấu hợp lý và bảo đảm an toàn hệ thống.
d- Tiếp tục phát huy kinh nghiệm, Ngân hàng truyền thống theo đòi hỏi
của cơ chế thị trường, phục vụ đắc lực cho đầu tư phát triển.
e- Phát huy nội lực và truyền thống; tranh thủ sự hợp tác chặt chẽ toàn
diện, cùng phát triển và hội nhập của hệ thống Ngân hàng trong và ngoài
nước, đổi mới mạnh mẽ để hội nhập.
* MỤC TIÊU CỤ THỂ:
- Cơ cấu lại mô hình tổ chức và mô hình quản lý theo hướng Tập đoàn.
Trong giai đoạn 2000-2001 củng cố mô hình tổ chức Tổng công ty đầy đủ ( tập
đoàn) với cơ cấu tổ chức hợp lý. Cấu trúc Tập đoàn phù hợp với ý tưởng của
Chính phủ đó là hình thành các tập đoàn kinh tế mạnh làm đối tượng ,đối tác
hợp tác quốc tế và có khả năng cạnh tranh, đứng vững trong thương trường.
-Các chỉ tiêu chủ yếu được xác định như sau: Phấn đấu đến 2010 xây dựng
được BIDV trở thành một tập đoàn Tài chính- Ngân hàng, có các chỉ số hoạt
động chuẩn mực, với các chỉ tiêu chủ yếu:
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu Năm 2010
Trong đó: Đến
năm 2005
Tốc độ tăng trưởng tổng tài
sản BQ từ năm 2000 đến …
20%-22%/năm 23%-25%/năm
Tổng tài sản dự kiến 3000.000-320.000 140.000-150.000
Vốn tự có 16.000 10.000
Một số chỉ tiêu tài chính:
ROA
ROE
0,95%
18%
0,5%
11%
Nguồn: Phòng KHPT, BIDV
2- Định hướng huy động vốn trung và dài hạn của BIDV:
Trên cơ sở định hướng phát triển chung của toàn hệ thống, công tác huy
động vốn trung và dài hạn của BIDV cũng hướng tới một tầm cao mới nhằm
tạo ra một cơ cấu vốn hợp lý và đảm bảo cho sự phát triển bền vững. BIDV chủ
trương coi khâu vốn là khâu mở đường, tạo ra nguồn vốn vững chắc, ngày
càng tăng trưởng cả VND và ngoại tệ. Đa dạng các hình thức, biện pháp, các
kênh huy động từ mọi nguồn, xác định “ vốn trong nước là quyết định, vốn
ngước ngoài là quan trọng”. Với định hướng không ngừng tăng tỷ trọng
nguồn vốn trung và dài hạn thông qua huy động dưới các hình thức phát hành
kỳ phiếu, trái phiếu và tiết kiệm có thời hạn dài; đề nghị Nhà nước cấp bổ sung
vốn điều lệ,... Mặt khác, tiếp tục tăng trưởng nguồn tiền gửi có kỳ hạn của tổ
chức kinh tế, khai thác triệt để, nguồn vốn nước ngoài thông qua vai trò Ngân
hàng đại lý, Ngân hàng phục vụ để tiếp nhận ngày càng nhiều vốn trung và dài
hạn từ các nguồn tài trợ, uỷ thác đầu tư các quỹ các tổ chức quốc tế, các Chính
phủ và phi Chính phủ cho đầu tư phát triển.
Trong thời gian tới, BIDV vẫn xác định phát hành trái phiếu là một
nghiệp vụ huy động vốn trung và dài hạn có hiệu quả và đã chuẩn bị phát hành
hai đợt trái phiếu qua TTGDCK, dự kiến khoảng 1000 tỷ đồng trong năm 2001.
Bên cạnh đó, các nghiệp vụ huy động vốn trung và dài hạn khác cũng được
BIDV chú trọng và từng bước hoàn thiện, phấn đấu mức tăng trưởng vốn
trung và dài hạn trong giai đoạn 2001-2010 đạt 20%- 25%/năm. Qua đó nhằm
nâng cao một bước tiềm lực tài chính của Ngân hàng, góp phần thực hiện
chính sách tiền tệ quốc gia.
Định hướng nhìn chung rất rõ ràng, cái khó hiện nay là những bước đi
hay các giải pháp cụ thể. Để có được những giải pháp hữu hiệu cần phải có sự
nghiên cứu, hệ thống hoá các kinh nghiệm từ thực tiễn qua nhiều năm đổi mới,
đặc biệt là trong công tác huy động vốn trung và dài hạn trong cơ chế thị
trường ở Việt Nam hiện nay.
II- MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM MỞ RỘNG HUY ĐỘNG VỐN TRUNG VÀ
DÀI HẠN TẠI BIDV TRONG THỜI GIAN TỚI
Huy động vốn thông qua hệ thống NHTM là vấn đề quan trọng trong cơ
chế thị trường, là một kênh huy động vốn linh hoạt góp phần đáp ứng nhu cầu
vốn cho phát triển kinh tế- xã hội, đặc biệt ở những quốc gia đang phát triển
như nước ta hiện nay. Muốn thu hút vốn nhàn rỗi của công chúng thì chính
NHTM phải tìm hiểu nhu cầu, tâm lý của công chúng và phải đáp ứng tốt nhất
các nhu cầu đó.
Dưới sự tác động của nhiều nhân tố ( tình hình hấp thụ vốn trung và dài
hạn của nền kinh tế, lãi suất...), công tác huy động vốn trung và dài hạn luôn là
vấn đề thách thức đối với hệ thống NHTM Việt Nam. Do đó sự tìm tòi, nghiên
cứu đưa ra những giải pháp huy động vốn trung và dài hạn thiết thực trong
thời gian tới là rất cần thiết với hệ thống NHTM Việt Nam nói chung và với hệ
thống BIDV nói riêng.
A- GIẢI PHÁP:
Để góp phần mở rộng huy động vốn trung và dài hạn tại BIDV trong thời
gian tới, em xin đề xuất một số giải pháp như sau:
1- CHÚ TRỌNG CÔNG TÁC PHÂN TÍCH NGUỒN VỐN TRUNG VÀ DÀI HẠN
Phân tích nguồn vốn nói chung và phân tích nguồn vốn trung và dài hạn nói
riêng là việc làm quan trọng và rất cần thiết, nhằm giúp cho Ngân hàng tiếp
cận được nguồn vốn rẻ, có quy mô và cấu trúc đảm bảo cho mục tiêu huy
động.Để thực hiện tốt công tác này đòi hỏi BIDV quan tâm tới một số vấn đề
sau:
1.1- Phân tích quy mô và cấu trúc nguồn vốn
Quy mô và cấu trúc nguồn vốn trung và dài hạn tối ưu là một trong những
cơ sở quan trọng đảm bảo mục tiêu an toàn và sinh lời của BIDV.Nó không
phải là yếu tố bất biến mà thay đổi cùng với sự phát triển của Ngân hàng trong
mỗi thời kỳ nhất định.Hơn nữa, mỗi nguồn vốn trung và dài hạn đều có những
yêu cầu khác nhau về chi phí, thanh khoản, thời hạn trả,…Do đó, Ngân hàng
phải quan sát, đánh giá chính xác từng loại nguồn vốn để kịp thời có những
chiến lược huy động vốn tốt nhất trong từng thời kỳ cụ thể.Muốn vậy , BIDV
cần chú trọng tới một số yếu tố sau:
* Cần nghiên cứu và thành lập Phòng phân tích hoạt động kinh
doanh.Trong đó, bộ phận chuyên trách về phân tích nguồn vốn phải có khả
năng dự báo về sự biến động về quy mô và cấu trúc của nguồn vốn, cán bộ phụ
trách phải là những người có năng lực chuyên môn và kinh nghiệm về lĩnh vực
này.
* Việc phân tích, đánh giá có thể dựa vào một số chỉ tiêu như: khả năng
cho vay trung và dài hạn( Hệ số sử dụng vốn ), Quy mô tăng vốn và một số chỉ
tiêu khác.Đồng thời phải ứng dụng công nghệ hiện đại trong quá trình phân
tích, nhằm bảo đảm tính chính xác, kịp thời và khoa học.
* Cần gắn chặt hơn nữa giữa công tác huy động vốn và sử dụng vốn.Điều
này không có nghĩa là chỉ có sự phù hợp về kỳ hạn giữa huy động vốn và sử
dụng vốn mà đòi hoỉ có sự linh hoạt của Ngân hàng trong từng trường hợp cụ
thể.Ví dụ: BIDV có nguồn vốn trung và dài hạn dư thừa thì có thể cân đối cho
vay ngắn hạn hoặc nếu nguồn ngắn hạn có tính ổn định cao thì lợi dụng để cho
vay trung và dài hạn nhưng phải đề phòng những rủi ro có thể xảy ra.
* Chú trọng phân tích khách hàng tiềm năng.Điều này có nghĩa là BIDV
cần có sự quan tâm hơn nữa trong việc nghiên cứu đặc điểm, tính chất của
một chủ thể hay một nhóm người liên quan đến việc ra quyết định giao dịch
với Ngân hàng ( gưỉ tiền, cho BIDV vay,…).
Tóm lại, phân tích quy mô và cấu trúc nguồn vốn là một giải pháp hữu hiệu
giúp BIDV tiếp cận một cách khoa học và hệ thống với các nguồn vốn trung và
dài hạn, là cơ sở để Ngân hàng đưa ra những chính sách huy động vốn phù
hợp với đặc điểm, tính chất của từng nguồn.
1.2- Thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt và hợp lý
Lãi suất là một công cụ quan tọng trong công tác huy động vốn trung và
dài hạn tại BIDV, đặc biệt là huy động từ các tầng lớp dân cư. Do đó, một chính
sách lãi suất vừa có sức cạnh tranh vừa đảm bảo hiệu quả kinh doanh của
Ngân hàng là rất cần thiết, em xin đề xuất một số giải pháp về vấn đề này như
sau:
* Định mức lãi suất tiền gửi trung và hạn hợp lý để kích thích dân chúng
Mục đích chủ yếu của khách hàng gửi tiền dài hạn vào Ngân hàng là sinh
lời. Do đó với một mức lãi suất thấp sẽ không bù đắp được sự mất giá của
khoản tiền gửi. Vì vậy, lãi suất huy động phải lớn hơn tỷ lệ lạm phát và lãi suất
gửi trung và dài hạn phải lớn hơn tiền gửi ngắn hạn. Như vậy để kích thích
khách hàng gửi tiền dài hạn, BIDV cần tạo một khoảng cách rõ rệt giữa lãi suất
huy động dài hạn và ngắn hạn. Tuy nhiên, đề nghị này không có nghĩa là phải
tăng lãi suất huy động vốn trung và dài hạn, điều mà các nhà sản suất không
dễ dàng chấp nhận. Hơn nữa, nếu lãi suất tiền gửi cao thì họ sẽ không đầu tư
trực tiếp vào các phương án kinh doanh mà gửi tiền vào ngân hàng để lấy lãi.
Nếu điều đó xảy ra thì BIDV sẽ gặp khó khăn vì không giải quyết được đầu ra.
Vì vậy, BIDV cần có sự nghiên cứu, cân đối giữa lãi suất tiền gửi ngắn hạn và
tiền gửi trung và dài hạn để tạo khoảng cách cần thiết giữa hai mức lãi suất
này.
Ngoài ra, trong lãi suất tiền gửi trung và dài hạn cũng cần định mức lãi
suất phù hợp giữa các kỳ hạn khác nhau, đảm bảo nguyên tắc: Kỳ hạn càng dài
thì lãi suất càng cao, phản ánh được cung cầu về vốn, đảm bảo lãi suất thực
dương nhưng đồng thời phải đảm bảo hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng.
* Thưởng lãi suất đối với khách hàng duy trì số dư trên tài khoản với kỳ
hạn thực dài hơn kỳ hạn danh nghĩa.
Như chúng ta đã có dịp đề cập, đối với khách hàng rút tiền trước hạn thì
BIDV thường áp dụng mức lãi suất thấp hơn mức lãi suất của kỳ hạn ban đầu.
Vậy trong trường hợp ngược lại, BIDV có thể khuyến khích người gửi tiền trên
tài khoản với kỳ hạn thực tế dài hơn kỳ hạn danh nghĩa bằng cách thưởng
thêm một tỷ lệ % nào đó tương ứng với chênh lệch giữa kỳ hạn thực và kỳ hạn
danh nghĩa. Cụ thể:
Ví dụ: Lãi suất tiền gửi tiết kiệm 12 tháng là 6%/ năm còn lãi suất huy
động 24 tháng là 6,55%/năm thì Ngân hàng có thể thưởng tương ứng 0,1%-
0,3% cho khách hàng với chênh lệch kỳ hạn thực và kỳ hạn danh nghĩa là 12
tháng.
Như vậy sẽ kích thích được người gửi, đặc biệt là khách hàng có tiền
nhưng chưa xác định được thời gian cần dùng đến. Mặt khác, BIDV cũng có
một khoản vốn ổn định với chi phí thấp hơn.
2-Nâng cao chất lượng phục vụ và đảm bảo các tiện ích cho khách
hàng
Để mở rộng huy động vốn trung và dài hạn trong thời gian tới, ngoài việc
tìm kiếm khách hàng mới thì BIDV còn phải duy trì được những khách hàng
truyền thống đã có.Muốn vậy, BIDV cần nâng cao chất lượng phục vụ và đảm
bảo tiện ích cho khách hàng thông qua một số nội dung chủ yếu sau:
* Nâng cao chất lượng cán bộ huy động vốn, bảo đảm mỗi cán bộ ngoài
việc thực hiện tốt các nhiệm vụ chuyên môn còn phải có khả năng thực hiện vai
trò tư vấn giúp đỡ khách hàng tận tình chu đáo trong khi gửi tiền, mua Kỳ
phiếu, Trái phiếu,…Do đó, cần có sự tuyển chọn, bố trí, đào tạo cán bộ huy động
vốn có đủ trình độ chguyên môn, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp. Nên có