Tải bản đầy đủ (.docx) (50 trang)

Lý luận chung về hàng rào phi thuế quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.68 KB, 50 trang )

Lý luận chung về hàng rào phi thuế quan
I- Khái niệm chung về hàng rào phi thuế quan.
1- Định nghĩa về hàng rào phi thuế quan.
Để hội nhập vào nền kinh tế thế giới và giao thơng giữa các nớc, giữa các
khối thơng mại tự do: EU, NAFTA, AFTA, APEC...Các doanh nghiệp phải vợt
qua hai rào cản lớn, đó là:
1. Hàng rào thuế quan (custom duties barriers)
2. Hàng rào phi thuế quan (non tariff- trade barriers)
Đối với hàng rào thuế quan: hiện nay trong thơng mại quốc tế, hàng rào
thuế quan giữa các khối kinh tế, giữa các quốc gia ngày càng giảm đi đến tự do
hóa thông qua các chính sách về Qui chế tối huệ quốc, chế độ thuế quan u đãi phổ
cập, Hiệp định thuế quan u đãi có hiệu lực chung của các khối liên kết kinh tế nh:
EU, NAFTA, AFTA, APEC...
Đối với hàng rào phi thuế quan: do nhiều nguyên nhân, đặc biệt là do trình
độ phát triển kinh tế không đồng đều, các nớc đều duy trì các rào cản thơng mại
nhằm bảo hộ nền sản xuất nội địa. Bên cạnh biện pháp bảo hộ bằng thuế quan, rất
nhiều hàng rào phi thuế quan ra đời. Mức độ cần thiết và lí do sâu sa dẫn đến việc
bảo hộ sản xuất nội địa của từng nớc cũng khác nhau, đối tợng bảo hộ cũng khác
nhau khiến cho các hàng rào phi thuế quan càng trở nên đa dạng.
Một khó khăn cơ bản trong việc xác định và phân tích các hàng rào phi
thuế quan là chúng đợc xác định bởi cái mà nó không phải nh thế. OECD (1997)
chọn cách định nghĩa:
"Các hàng rào phi thuế quan là những biện pháp biên giới nằm ngoài
phạm vi thuế quan có thể đợc các quốc gia sử dụng, thông thờng dựa trên cơ sở
lựa chọn, nhằm hạn chế nhập khẩu" cho một trong những nghiên cứu của họ.
Tơng tự nh vậy, cơ sở dữ liệu của Hệ thống Phân tích và Thông tin Thơng
mại (TRAINS) của UNCTAD chủ yếu chỉ tính đến các biện pháp biên giới. Phơng
pháp tiếp cận này phần lớn bỏ qua những biện pháp liên quan đến xuất khẩu và
việc mua sắm nội bộ Chính phủ (nh những nguyên tắc về hàm lợng trong nớc, các
khoản trợ cấp, giảm thuế, các biện pháp biên giới về phân biệt đối xử và biện pháp
t nhân chống cạnh tranh). Thực tế, phơng pháp tiếp cận về những biện pháp biên


giới đợc áp dụng nhiều hơn vì các lí do tình thế chứ không phải các tính toán
nghiêm khắc trí tuệ.
Nghiên cứu của PECC mô tả các hàng rào phi thuế quan là mọi công cụ
phi thuế quan can thiệp vào thơng mại, bằng cách này làm biến dạng sản xuất
trong nớc (PECC 1995).
Tuy nhiên, Baldwin (1970) có lẽ đa ra một định nghĩa có thể đợc chấp nhận
nhiều nhất về mặt khái niệm:
một sự biến dạng phi thuế quan là bất kì một biện pháp (thuộc khu vực
nhà nớc hay t nhân) nào khiến các hàng hóa và dịch vụ trong mua bán quốc tế
hoặc mọi nguồn lực dành cho việc sản xuất các hàng hóa và dịch vụ đó, sẽ đợc
phân bổ theo cách nh thế nào đó nhằm giảm thu nhập tiềm năng thực sự của thế
giới .
Vấn đề chấp nhận một định nghĩa khái quát chỉ để sau đó xây dựng một
định nghĩa chính xác cho các mục đích phân tích. Nh Deardroff và Stern ghi nhận:
Xét về hàng loạt các hàng rào phi thuế quan chính thức và /hoặc không chính
thức có thể tồn tại, có thể không có chỉ một phơng pháp phân tích duy nhất cho
việc giải quyết thỏa đáng toàn bộ phạm vi hàng rào phi thuế quan .
Các hàng rào phi thuế quan không nên đợc xem nh một sự đồng nghĩa với
các biện pháp phi thuế quan, mà nên coi là một tập hợp phụ các biện pháp phi
thuế quan. Tất cả các hàng rào phi thuế quan đều là các biện pháp phi thuế quan,
song không phải tất cả các biện pháp phi thuế quan đều là các hàng rào phi thuế
quan. Các biện pháp phi thuế quan có thể bao gồm các biện pháp thúc đẩy xuất
khẩu, chúng không phải là những rào cản đối với thơng mại. Thuật ngữ có vẻ
trung lập hơn này cũng đợc các Chính phủ thờng dùng để mô tả nhũng biện pháp
đợc sử dụng để quản lí nhập khẩu với các mục đích hợp pháp (ví dụ các thủ tục
bảo đảm thực vật đợc quốc tế công nhận). Hơn nữa, ví dụ nếu các hạn ngạch là
không bắt buộc (ít nhất là trên mức nào trên thị trờng phi hạn ngạch có thể xuất
hoặc nhập khẩu), vì vậy khó có thể quy cho chúng là những hàng rào.
Trong thực tế, việc xác định những biện pháp phi thuế quan nào là các hàng
rào phi thuế quan có thể rất khó. Chủ ý của công cụ chính sách là quan trọng,

song có những chính sách mà chủ ý của chúng không thể đợc xác định nếu không
có sự điều tra kỹ lỡng mà có thể không đi đến kết quả về bản chất và hoạt động
thực sự của chúng. Việc phân tích này cung cấp sự hiểu biết sâu rộng vấn đề
hàng rào hay không phải hàng rào này liên quan đến những biện pháp phi thuế
quan của Việt Nam, song đây cũng không phải là mục đích của sự phân tích, mục
đích của việc phân tích đơn thuần là nhằm khảo sát chế độ hiện hành của các biện
pháp phi thuế quan của Việt Nam.
Nh vậy, các biện pháp phi thuế quan và các hàng rào phi thuế quan là gì?
Tóm lại chúng đợc định nghĩa bởi - thuế quan. Một số nghiên cứu về chủ đề này
phân biệt các biện pháp phi thuế quan biên giới và phi biên giới, nhng đây là sự
phân biệt chức năng và thực tế, và không đầy đủ nh một định nghĩa khái niệm. Có
lẽ khái niệm đợc sử dụng phổ biến nhất đợc Baldwin (1970) trình bày nh sau:
Bất cứ biện pháp nào (công cộng hay t nhân) dẫn đến các dịch vụ và
hàng hóa đợc thơng mại quốc tế, hoặc các nguồn tài nguyên dành cho việc sản
xuất ra dịch vụ và hàng hóa đó sẽ đợc xác định theo một cách là giảm nguồn
thu nhập thực sự tiềm năng của thế giới .
Các hàng rào phi thuế quan là một tập hợp thay thế của các biện pháp phi
thuế quan. Các biện pháp phi thuế quan phải có mục đích bảo vệ sản xuất trong n-
ớc, và không đợc chấp nhận quốc tế nh một phơng sách điều chỉnh chính thống
(nh các hạn chế kiểm dịch).
Bên cạnh các định nghĩa trên, Tổ chức Thơng Mại Thế Giới (WTO) cũng đa
ra một định nghĩa về các biện pháp phi thuế quan và các hàng rào phi thuế quan
của mình:
Biện pháp phi thuế quan là những biện pháp ngoài thuế quan, liên quan
hoặc ảnh hởng đến sự luân chuyển hàng hóa giữa các nớc .
Theo cách định nghĩa này thì WTO cũng đã dựa trên cơ sở của thuế quan.
Từ đó, WTO xây dựng định nghĩa về hàng rào phi thuế quan:
Hàng rào phi thuế quan là những biện pháp phi thuế quan mang tính
cản trở đối với thơng mại mà không dựa trên cơ sở pháp lí, khoa học hoặc bình
đẳng .

Ví dụ nh với một số lợng ấn định sẵn, hạn ngạch sẽ không cho hàng hóa
nhập khẩu hoặc xuất khẩu vào hoặc ra khỏi một nớc vợt quá số lợng đó, mặc dù
hàng hóa có sẵn để bán, ngời mua đã sẵn sàng để mua.
Mục đích của của việc nghiên cứu và phân tích các biện pháp phi thuế quan
là đa ra một nghiên cứu mô tả cơ bản của thể chế thơng mại hiện hành. Đây là
một đầu vào giúp quá trình hội nhập toàn cầu của Việt Nam, cụ thể hơn liên quan
đến cam kết hiện có và cha đợc thực hiện về tự do hóa thơng mại đối với ASEAN,
APEC và WTO.
Khi Việt Nam ra nhập WTO, các quốc gia thành viên WTO gửi tới trên
1500 câu hỏi có liên quan tới bản thông báo về Chế độ Ngoại thơng Việt Nam dựa
vào một câu hỏi mà Việt Nam có thể muốn trả lời: Những yêu cầu chế độ chính
sách thơng mại tối thiểu là gì để ra nhập WTO?. Không có câu trả lời cho câu
hỏi này bởi vì bất kì một câu trả lời hợp lí và chính xác nào cũng tự động loại trừ
những nớc đã là thành viên của WTO. Sự thiếu tiêu chí vị trí thành viên rõ ràng
này có thể làm cho WTO bổ sung việc xử lí chính trị ở trên mức cần thiết. Ngời ta
có thể đã dẹp bỏ việc nghiên cứu xây dựng một phơng pháp tiếp cận toàn diện và
hệ thống cho việc hiểu rõ và định nghĩa các biện pháp phi thuế quan và các hàng
rào phi thuế quan.
Kết quả là UNCTAD có lẽ cung cấp một định nghĩa toàn diện duy nhất về
các biện pháp phi thuế quan. Định nghĩa này đợc sử dụng cho nghiên cứu của
APEC (Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu á Thái Bình Dơng, 1995) bởi vì mặc dù
các nhà nghiên cứu và các quan chức có những biểu hiện dè dặt về cách phân loại
các hàng rào phi thuế quan của UNCTAD... song hiện nay không tồn tại hệ thống
phân loại nào khác.
Định nghĩa áp dụng của ASEAN về các rào cản phi thuế quan phản ánh sát
hệ thống phân loại của UNCTAD. Tuy nhiên, có những sự bỏ sót đáng kể trong
định nghĩa của ASEAN cần đợc nhấn mạnh. Một số biện pháp tài chính và kiểm
soát giá đợc ASEAN loại bỏ nh là tất cả các biện pháp kiểm soát số lợng và chính
sách trong nớc. Việc không có những biện pháp kiểm soát số lợng vẫn cha định
hình và có lẽ là do sự nới lỏng chính trị để đón nhận cải cách trong lĩnh vực này.

Việc không có những biện pháp trong nớc, bao gồm những biện pháp nào phân
biệt đối xử một cách rõ ràng đối với nhập khẩu cũng là sự bỏ sót nghiêm trọng.
Định nghĩa áp dụng của ASEAN không đợc thỏa mãn về mặt khái niệm, và
vì vậy đã có thêm cơ hội xem xét một định nghĩa khái quát hơn và lí thú hơn về
các biện pháp phi thuế quan nh đã đợc phác thảo ở trên. Tuy nhiên, sự quan tâm
nghiên cứu đặc biệt đã đợc dành cho việc hiểu và giải thích những biện pháp phi
thuế quan nào bao gồm trong định nghĩa của ASEAN, vì đó là mục đích quan
trọng của việc nghiên cứu này.
Thuế nội bộ và chi phí đánh vào nhập khẩu hiện nay là thuế nội bộ đánh
cụ thể vào nhập khẩu. Điều này đơn giản nhấn mạnh rằng thuế gián tiếp đối với
thơng mại đợc thảo luận theo các biện pháp nội bộ.
Theo các hạn ngạch, một mã số mới, các hạn ngạch liên quan đến các
trình độ sản xuất trong nớc đã đợc bổ sung. Điều này quy định lí do cơ bản đối
với việc quy định mức hạn ngạch nhập khẩu đối với hàng hóa sẽ đợc cân đối với
nhu cầu và sản xuất trong nớc, mà năm 1998 là xăng dầu, phân bón, thép xây
dựng, xi măng và giấy(11/1998/NĐ-TTg).
Các thủ tục hải quan dặc biệt của UNCTAD chỉ bao gồm một nhân tố
thiểu số của các thủ tục hải quan, trong khi mà toàn bộ vấn đề của tính hiệu quả
và tính rõ ràng hải quan có thể đợc xem xét hợp lí nh một vấn đề hàng rào phi
thuế quan. Điều này đợc nhấn mạnh gần đây bởi Ông Anwarul Hoda, Phó tổng
giám đốc của WTO khi ông ta trình bày tại Tổ chức Hải quan Thế giới tháng
5/1997:
Khi toàn cầu hoá các lợi thế thơng mại, sự phụ thuộc vào kinh doanh đối
với việc di chuyển hàng hóa nhanh trở nên ngày càng thiết yếu hơn. Do đó các thủ
tục hải quan có thể là một biện pháp phi thuế dữ dội. Thơng mại phải cần các dịch
vụ hải quan đơn giản, nhanh và rõ ràng .
Có rất nhiều tài liệu về việc xác định và đo lờng các hàng rào phi thuế
quan. Những phơng pháp chung khác nhau đã đợc sử dụng để tính các hàng rào
phi thuế quan có thể đợc phân loại nh sau: các biện pháp tính theo tần số dựa trên
những danh mục điều tra các hàng rào phi thuế quan đợc quan sát áp dụng cho

những quốc gia đặc biệt các ngành hoặc các thể loại thơng mại: các biện pháp so
sánh giá đợc tính toán theo các giá trị tơng đơng thuế quan hoặc những liên quan
về giá; các biện pháp tác động định lợng dựa vào các ớc tính phép đo kinh tế của
những mô hình các luồng thơng mại; các biện pháp tỷ lệ hỗ trợ danh nghĩa tơng đ-
ơng.
Một phân tích toàn diện về tác động thuế quan và các hàng rào phi thuế
quan đối với phúc lợi kinh tế ròng quốc nội đòi hỏi sự phối hợp của tất cả các chỉ
số thuế quan và những giá trị tơng đơng của chúng về các hàng rào phi thuế quan
trong môt khuôn khổ cân bằng chung. Phơng pháp tiếp cận này tính đến những
ảnh hởng vòng thứ hai bao gồm các yếu tố nh những thay đổi đem lại trong tỷ giá
hối đoái và những điều kiện thơng mại cũng nh tác động qua lại giữa các ngành
không chịu ảnh hởng trực tiếp của thuế quan và các hàng rào phi thuế quan.
Điều không may là đến nay không nghiên cứu ứng dụng nào về xác định và
tính toán tác động của các biện pháp phi thuế quan ở Việt Nam. Thực tế có một ít
nghiên cứu về các chính sách thơng mại của Việt Nam. Dự án do UNDP tài trợ,
cũng đã xác định một nghiên cứu chi tiết về những tác động của Việt Nam tham
gia ASEAN. Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên các biện pháp phi thuế quan của Việt
Nam đợc đa ra một cách rõ ràng và riêng biệt.
Bộ Thong mại hoàn thành một cuộc phỏng vấn nội bộ riêng của họ về các
hàng rào phi thuế quan đối với thơng mại của Việt Nam. Cuộc khảo sát này cho
thấy phần lớn dựa trên hớng dẫn định nghĩa các hàng rào phi thuế quan của
ASEAN (nhng gồm cả hạn ngạch) và bao gồm toàn bộ tài liệu kiểm soát thơng
mại do Bộ Thơng mại và các Bộ ngành ban hành với những trách nhiệm kiểm soát
sản phẩm đợc cụ thể hóa. Các Bộ liên quan và các hàng rào phi thuế quan nh dới
đây:
1. Bộ Thơng mại: cơ quan chủ quản, chịu trách nhiệm chính về các biện
pháp kiểm soát số lợng (hạn ngạch, cấp giấy phép) và các biện pháp độc quyền
(một kênh về nhập khẩu).
2. Bộ Tài chính: các biện pháp gần- thuế, các biện pháp kiểm soát giá cả
(giá nhập khẩu tối thiểu).

3. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn: các biện pháp vệ sinh và vệ
sinh tâm lý học và các biện pháp ảnh hởng đến buôn bán các mặt hàng nông sản.
4. Bộ Công nghiệp: các biện pháp ảnh hởng đến buôn bán hàng công
nghiệp.
5. Bộ Y tế: các biện pháp ảnh hởng đến buôn bán dợc phẩm và thiết bị y tế.
6. Bộ Văn hoá Thông tin:
7. Ban Vật giá Chính phủ: các khoản phụ thu vì mục đích ổn định giá cả.
8. Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trờng: các biện pháp kỹ thuật (các yêu
cầu về tiêu chuẩn và chất lợng).
2- Các đặc điểm về hàng rào phi thuế quan
2.1- Các hàng rào phi thuế quan phong phú về hình thức:
Nhờ đặc điểm này, hàng rào phi thuế quan tác động, khả năng và mức độ
đáp ứng mục tiêu của chúng rất đa dạng. Do đó, nếu sử dụng hàng rào phi thuế
quan để phục vụ một mục tiêu cụ thể thì sẽ có nhiều sự lựa chọn, mà không bị bó
hẹp trong khuôn khổ một công cụ duy nhất nh thuế quan. Ví dụ để hạn chế nhập
khẩu phân bón, có thể đồng thời áp dụng các hạn ngạch nhập khẩu, cấp giấy phép
nhập khẩu không tự động, đầu mối nhập khẩu, phụ thu nhập khẩu.
2.2- Một hàng rào phi thuế quan có thể đồng thời đáp ứng nhiều mục tiêu với hiệu quả cao.
Mỗi quốc gia thờng theo đuổi nhiều mục tiêu trong chính sách kinh tế, th-
ơng mại của mình. Các mục tiêu đó có thể là: (i) bảo hộ sản xuất trong nớc,
khuyến khích phát triển một số ngành nghề; (ii) bảo đảm an toàn sức khỏe con
ngời, động thực vật, môi trờng; (iii) hạn chế tiêu dùng; (iv) đảm bảo cân bằng cán
cân thanh toán; (v) đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, v.v...Các hàng
rào phi thuế quan có thể đồng thời phục vụ hiệu quả nhiều mục tiêu khác nhau
nêu trên trong khi việc sử dụng công cụ thuế quan không khả thi hoặc không hữu
hiệu bằng.
Ví dụ: quyết định về vệ sinh kiểm dịch đối với nông sản nhập khẩu vừa
đảm bảo an toàn sức khỏe con ngời, động thực vật lại vừa gián tiếp bảo hộ sản
xuất nông nghiệp trong nớc một cách hợp pháp. Hay cấp giấy phép không tự động
đối với dợc phẩm nhập khẩu vừa giúp bảo hộ ngành dợc nội địa, dành đặc quyền

cho một số đầu mối nhập khẩu nhất định, quản lí chuyên ngành một mặt hàng
quan trọng đối với sức khỏe con ngời, phân biệt đối xử với một số nớc cung cấp
nhất định.
2.3- Hình thức thể hiện của các hàng rào phi thuế quan rất phong phú nên nhiều hàng rào phi thuế
quan cha chịu sự điều chỉnh của các qui tắc thơng mại.
Các hàng rào phi thuế quan thờng mang tính mập mờ mức độ ảnh hởng
không rõ ràng nh những thay đổi mang tính định lợng của thuế quan nên dù tác
động của chúng có thể lớn nhng lại là tác động ngầm có thể che đậy hoặc biện hộ
bằng cách này hoặc cách khác. Hiện nay các Hiệp định của WTO chỉ mới điều
chỉnh việc sử dụng một số hàng rào phi thuế quan nhất định. Theo đó, tất cả các
hàng rào phi thuế quan hạn chế định lợng đều không đợc phép áp dụng, trừ trờng
hợp ngoại lệ.
Một số hàng rào phi thuế quan khác tuy có thể nhằm mục tiêu hạn chế nhập
khẩu, bảo hộ sản xuất trong nớc nhng vẫn đợc WTO cho phép áp dụng với điều
kiện tuân thủ những quyết định cụ thể, rõ ràng, khách quan. Chẳng hạn nh các
tiêu chuẩn kỹ thuật, biện pháp kiểm dịch động thực vật, tự vệ, thuế chống bán phá
giá, các biện pháp chống trợ cấp, thuế đối kháng, một số hình thức hỗ trợ nông
nghiệp (dạng hộp xanh).
Thậm chí với những hàng rào phi thuế quan cha xác định đợc là phù hợp
hay không với các quyết định của WTO, các nớc vẫn có thể tiếp tục áp dụng mà
cha bị yêu cầu cắt giảm hay loại bỏ. Những hàng rào phi thuế quan này có thể do
WTO cha có quyết định điều chỉnh hoặc có quyết định điều chỉnh nhng rất chung
chung và trên thực tế rất khó có thể xác định đợc tính phù hợp hay không phù hợp
với quyết định đó, hoặc chúng vẫn là một thực tế đợc thừa nhận chung. Chẳng hạn
nh yêu cầu đặt cọc, trả thuế nhập khẩu trớc, v.v....
2.4- Dự đoán việc áp dụng các hàng rào phi thuế quan là rất khó khăn, vì trên thực tế chúng thờng đợc
vận dụng trên cơ sở dự đoán chủ quan, đôi khi tùy tiện của nhà chức trách về sản xuất và nhu cầu tiêu
thụ trong nớc.
Chẳng hạn để xác định hạn ngạch nhập khẩu phân bón trong một năm, ngời
ta dự tính khả năng các đơn vị sản xuất phân bón trong nớc có thể đáp ứng đợc

tổng nhu cầu về phân bón của toàn ngành nông nghiệp.
Trong bối cảnh kinh tế phức tạp và thờng xuyên biến động hiện nay, việc
đa ra một dự đoán tơng đối chính xác là rất khó khăn. Hậu quả của việc dự báo
không chính xác sẽ rất nghiêm trọng nh gây ra thiếu hụt trầm trọng nguồn phân
bón khi sản xuất trong nớc vào thời vụ, đẩy giá tăng vọt (sốt nóng) hoặc trái lại,
dẫn đến tình trạng cung vợt cầu quá lớn trên thị trờng làm giá sụt giảm (sốt lạnh).
Điều này đồng nghĩa với việc các quyết định sản xuất và kinh doanh sẽ chịu
những rủi ro cao hơn.
Các hàng rào phi thuế quan đôi khi cũng làm nhiễu tín hiệu của thị trờng
mà ngời sản xuất dựa vào đó để ra quyết định. Tín hiệu này chính là giá thị trờng.
Khi bị làm sai lệch, nó sẽ phản ánh không trung thực lợi thế cạnh tranh thật sự chỉ
dẫn sai việc phân bổ nguồn lực trong nội bộ nền kinh tế. Do đó, khả năng xây
dựng kế hoạch đầu t, sản xuất, kinh doanh hiệu quả trong trung và dài hạn của ng-
ời sản xuất bị hạn chế.
Tác động của các hàng rào phi thuế quan thờng khó có thể lợng hóa đợc rõ
ràng nh tác động của thuế quan. Nếu mức độ bảo hộ thông qua thuế quan đối với
một sản phẩm có thể dễ dàng đợc xác định bằng chính thuế suất đánh lên sản
phẩm đó thì mức độ bảo hộ thông qua các hàng rào phi thuế quan là tổng mức bảo
hộ của các hàng rào phi thuế quan riêng rẽ áp dụng cho cùng một sản phẩm. Bản
thân mức độ bảo hộ của mỗi hàng rào phi thuế quan cũng chỉ có thể đợc ớc lợng
một cách tơng đối. Cũng vì mức độ bảo hộ của các hàng rào phi thuế quan không
dễ xác định nên rất khó xác định một lộ trình tự do hóa thơng mại rõ ràng nh với
bảo hộ bằng thuế quan.
2.5- Không những thế, vì khó dự đoán nên các hàng rào phi thuế quan thờng đòi hỏi chi phí quản lí
cao và tiêu tốn nhân lực của nhà nớc để duy trì hệ thống điều hành kiểm soát thơng mại bằng các
hàng rào phi thuế quan.
Một số hàng rào phi thuế quan thuộc thẩm quyền và phạm vi quản lí của
những cơ quan với những mục tiêu khác nhau, đôi khi còn mâu thuẫn nhau, nên
có thể gây khó khăn cho bản thân các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý,
các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế trong việc xây dựng, sử dụng, tiếp cận

thông tin cũng nh đánh giá tác động của các hàng rào phi thuế quan này.
Các doanh nghiệp sản xuất cha chú trọng đến tiếp cận thông tin và cha có ý
thức xây dựng, đề xuất các hàng rào phi thuế quan để bảo hộ sản xuất, còn trông
chờ vào nhà nớc tự quyết định. Do đó, thực tế là các doanh nghiệp thờng phải tốn
kém chi phí vận động hành lang để cơ quan chức năng ra quyết định áp dụng các
hàng rào phi thuế quan nhất định có lợi cho mình.
Ngoài ra, việc quản lí các hàng rào phi thuế quan còn khó khăn nếu đó là
những hàng rào phi thuế quan bị động, tồn tại trên thực tế ngoài ý muốn của các
nhà hoạch định chính sách nh bộ máy quản lí thơng mại quan liêu, năng lực thấp
của các nhân viên hải quan, các văn bản pháp lí không đợc công bố công khai...
2.6-Tác động của việc sử dụng các hàng rào phi thuế quan
Tác động của việc sử dụng các hàng rào phi thuế quan nhằm hạn chế nhập
khẩu, bảo hộ sản xuất trong nớc hầu nh không đem lại nguồn thu tài chính trực
tiếp nào cho nhà nớc mà thờng chỉ làm lợi cho một số doanh nghiệp hoặc ngành
nhất định đợc bảo hộ hoặc đợc hởng u đãi đặc quyền nh đợc phân bổ hạn ngạch,
đợc chỉ định làm đầu mối nhập khẩu- Điều này còn dẫn đến sự bất bình đẳng giữa
các doanh nghiệp trong nội bộ nền kinh tế.
Tóm lại, các hàng rào thuế quan và phi thuế quan là hai công cụ bảo hộ sản
xuất trong nớc quan trọng đối với mọi quốc gia. Do mỗi công cụ đều có điểm
mạnh, yếu đặc thù nên các hàng rào thuế quan và phi thuế quan thờng đợc sử
dụng kết hợp, bổ sung lẫn nhau nhằm nâng cao hiệu quả bảo hộ sản xuất trong n-
ớc. Mặc dù về lý thuyết WTO và các định chế thơng mại khu vực thờng chỉ thừa
nhận thuế quan là công cụ bảo hộ hợp pháp duy nhất nhng thực tế đã chứng minh
rằng các nớc không ngừng sử dụng các hàng rào phi thuế quan mới, vừa đáp ứng
mục đích bảo hộ, vừa không trái với thông lệ quốc tế.
3- Mục đích sử dụng của các hàng rào phi thuế quan
Do nhiều nguyên nhân, đặc biệt là do trình độ phát triển kinh tế không
đồng đều giữa các nớc, các nớc đều duy trì các rào cản thơng mại nhằm bảo hộ
nền sản xuất nội địa. Bên cạnh biện pháp bảo hộ bằng thuế quan, rất nhiều hàng
rào phi thuế quan ra đời. Mức độ cần thiết và lí do sâu xa dẫn đến việc bảo hộ sản

xuất nội địa của từng nớc cũng khác nhau, đối tợng bảo hộ cũng khác nhau khiến
cho các hàng rào phi thuế quan càng trở nên đa dạng.
Đối với những nền kinh tế phát triển, đối tợng bảo hộ là các ngành có năng
lực cạnh tranh và năng xuất lao động tơng đối thấp so với các ngành khác. Mặc dù
không tạo ra sức cạnh tranh chủ yếu cho nến kinh tế, nhng lực lợng lao động trong
những ngành này lại có sức mạnh chính trị đáng kể, buộc các chính đảng đợc họ
hậu thuẫn phải quan tâm đặc biệt đến lợi ích của họ. Có thể nêu ví dụ điển hình
nh : ngành nông nghiệp ở EU hay ngành thép ở Mỹ.
Trong khi đó, đối tợng bảo hộ của những nớc có trình độ phát triển kinh tế
trung bình và thấp lại bảo hộ chủ yếu các ngành sản xuất quan trọng và có nhiều
tiềm năng trở thành ngành cạnh tranh trong tơng lai của họ. Chẳng hạn nh các
ngành sản xuất Ôtô ở Malaysia ; ngành điện tử, cơ khí, đờng ở Thái Lan hay các
ngành Ôtô, thép, thuốc lá ở Trung Quốc.
Trong những năm 1980, việc sử dụng các hàng rào phi thuế quan dờng nh
gia tăng. Nhng trong những năm 1990, các nỗ lực song phơng, khu vực và quốc tế
đã có thể làm giảm ít nhất sự thịnh hành của các rào phi thuế quan.. Tuy nhiên,
các hàng rào phi thuế quan vẫn là hiện tợng chung trong các chế độ chính sách th-
ơng mại của cả các quốc gia phát triển lẫn các quốc gia đang phát triển. Tại sao?
Cái lập luận kinh tế cho bảo hộ thơng mại chỉ ra rõ ràng rằng sử dụng thuế
chứ không phải các hàng rào phi thuế quan nhằm đạt đợc các mục tiêu bảo hộ.
Các hàng rào phi thuế quan là những công cụ chính sách thứ yếu dung tục và
không hiệu quả cho bảo hộ, song trong phạm vi các cam kết cắt giảm thuế quan
quốc tế, các công cụ này có thể đợc xem xét một cách chính xác nh thế nào. Đối
với các nớc cam kết tạo bảo hộ cho những nhóm liên quan trong nớc nhất định, thì
việc duy trì các thuế suất cao không phải là một phơng án lựa chọn.
Tuy nhiên, có những giải thích khác, các hàng rào phi thuế quan đa ra
những ảnh hởng có thể định lợng hoặc chắc chắn hơn. Đồng thời sự phân bổ lợi
nhuận (lợi nhuận siêu ngạch) từ các hàng rào phi thuế quan các doanh nghiệp
trong nớc, các doanh nghiệp đợc đầu t nớc ngoài và các nhà chính trị có thể nắm
bắt đợc dễ dàng hơn. Sự phân bổ lợi nhuận nh vậy làm gia tăng khả năng cho phép

quá trình chính trị làm nảy sinh một khối lợng lớn các hàng rào phi thuế quan t-
ơng đơng thuế. Cuối cùng tính phản tác dụng của các hàng rào phi thuế quan nói
chung kém rõ ràng đối với ngời tiêu dùng và đối với thơng mại hơn là ảnh hởng
của thuế quan. Việc thiếu rõ ràng, trong một số bối cảnh nào đó, có thể đợc coi là
một u điểm.
Ngoài ra, việc sử dụng các hàng rào phi thuế quan nh các biện pháp bảo hộ
còn rất cần thiết để tránh cho các doanh nghiệp do nhà nớc sở hữu khỏi bị phá sản
nhanh chóng. Tơng tự nh những nhóm ngời lao động tại các ngành đang suy thoái
hoặc có năng suất thấp (ví dụ nh dệt may, nông nghiệp) ở các nớc phát triển, các
doanh nghiệp nhà nớc có sức mạnh chính trị to lớn tại những nớc đang chuyển
đổi. Nét nổi bật này của các nền kinh tế chuyển đổi làm cho việc bảo hộ sản xuất
trong nớc có ý nghĩa quan trọng đặc biệt.
Với nền kinh tế đang phát triển ở trình độ thấp, lại trong quá trình chuyển
đổi, Việt Nam cũng có nhu cầu lớn phải bảo hộ sản xuất trong nớc do các yếu tố
của kinh tế thị trờng còn cha đợc tạo lập đồng bộ và còn nhiều khiếm khuyết, môi
trờng pháp lí bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cha đ-
ợc hoàn chỉnh. Các chính sách pháp lí tài chính, tiền tệ, xuất nhập khẩu cũng đang
trong tình trạng tơng tự, năng lực cạnh tranh yếu kém của nhiều ngành sản xuất.
Vì vậy Việt Nam đợc xem là duy trì quá nhiều các hàng rào phi thuế quan. Ví dụ
Việt Nam sử dụng biện pháp quản lí giá cả của các sản phẩm đợc nhập khẩu nhằm
mục đích:
+ Giữ vững giá trong nớc của các sản phẩm nhất định khi giá nhập khẩu
thấp hơn giá đợc duy trì.
+ Thiết lập giá trong nớc của các sản phẩm nhất định vì sự giao động giá cả
trong thị trờng nội địa hoặc sự không ổn định giá cả trên thị trờng nớc ngoài; và
+ Chống lại sự thiệt hại do việc áp dụng các hoạt động không công bằng
của thơng mại nớc ngoài.
Phần lớn các biện pháp quản lí giá cả ảnh hởng đến chi phí nhập khẩu trong
số lợng thay đổi đợc tính trên cơ sở của sự khác nhau hiện có giữa hai giá của
cùng sản phẩm so với các mục tiêu quản lí.

Đứng trớc xu hớng tất yếu của tự do hoá thơng mại và quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế, nếu không có chiến lợc bảo hộ đúng đắn thì nhiều ngành sản xuất
trong nớc sẽ không thể đứng vững trớc sức ép cạnh tranh gay gắt của hàng nhập
khẩu.
Tuy nhiên, việc bảo hộ phải có chọn lọc, có điều kiện, có thời hạn và phải
giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa hội nhập và bảo hộ về mặt thời gian và độ
trởng thành một cách chủ động.
Những ngành cần đợc bảo hộ chủ yếu là những ngành có hàm lợng vốn lớn,
có khả năng cạnh tranh và phát triển dựa trên công nghệ hiện đại. Mặt khác đây
lại là những ngành công nghiệp giữ vị trí quan trọng, tạo nên xơng sống cho nền
kinh tế nh luyện kim, hoá dầu, xi măng,...Nếu đợc hởng những hỗ trợ nhất định và
đợc bảo hộ bằng những chính sách thích hợp trong một thời gian cần thiết, các
ngành này dù gặp rất nhiều khó khăn trớc mắt trong việc cạnh tranh với hàng nhập
khẩu, nhng trong tơng lai có sức cạnh tranh cao.
Các hàng rào phi thuế quan đợc sử dụng để bảo hộ rất đa dạng. Tuy nhiên
theo qui định của WTO có thể thấy rõ là tới nay hầu nh các nớc không còn cơ hội
để áp dụng những biện pháp hạn chế hạn chế định lợng nhằm mục tiêu bảo hộ sản
xuất trong nớc đợc nữa. Những biện pháp hạn chế định lợng nh cấm nhập khẩu
hoặc hạn ngạch nhập khẩu chỉ còn đợc áp dụng trong những trờng hợp cần thiết
để đảm bảo và duy trì an ninh quốc gia, giữ gìn đạo đức văn hoá, môi trờng hay
một vài trờng hợp đặc biệt.
Riêng đối với các ngành dệt, may là các nớc đợc áp dụng biện pháp hạn
ngạch nhập khẩu cho đến năm 2005 theo Hiệp định về hàng Dệt may của WTO.
Một biện pháp ngoại lệ mang tính chất hạn chế định lợng khác cũng đợc
WTO thừa nhận và đợc áp dụng rộng rãi trong thực tế là biện pháp hạn ngạch thuế
quan trong nông nghiệp. Biện pháp này đã đợc cả các nớc phát triển, các nớc đang
phát triển và các nớc đang chuyển đổi áp dụng để bảo hộ những lĩnh vực nông
nghiệp nhạy cảm của mình. Mức hạn ngạch, thuế suất trong hạn ngạch, thuế suất
ngoài hạn ngạch thờng rất cao, có nhiều trờng hợp trên 100%.
Các nớc phát triển thờng áp dụng thuế chống bán phá giá và thuế đối kháng

chống trợ cấp để bảo hộ các ngành công nghiệp, đồng thời áp dụng các biện pháp
hỗ trợ trong nớc ở mức cao để bảo hộ nông nghiệp. Trong khi đó, các nớc đang
phát triển và các nớc đang chuyển đổi vẫn áp dụng các biện pháp cấp giấy phép
không tự động để bảo hộ cả công nghiệp và nông nghiệp.
Tuy nhiên, nếu các nớc sử dụng các hàng rào phi thuế quan một cách bừa
bãi, quá nghiêm ngặt có thể bóp chết sản xuất trong nớc, không thúc đẩy sản xuất
trong nớc phát triển, gây ỷ lại, giảm sức cạnh tranh trong thơng mại...
Các biện pháp thuế quan và phi thuế quan là hai công cụ bảo hộ sản xuất
quan trọng đối với mọi quốc gia. Do mỗi công cụ có điểm mạnh, điểm yếu đặc
thù nên các biện pháp thuế quan và phi thuế quan thờng đợc sử dụng kết hợp, bổ
sung lẫn nhau nhằm nâng cao hiệu quả bảo hộ sản xuất trong nớc. Mặc dù về lí
thuyết, WTO và các chế định thơng mại khu vực thờng chỉ thừa nhận thuế quan là
công cụ bảo hộ hợp pháp duy nhất nhng thực tế đã chứng minh rằng các nớc
không ngừng sử dụng các hàng rào phi thuế quan mới, vừa đáp ứng mục tiêu bảo
hộ, vừa không trái với thông lệ quốc tế.
Mức độ hiệu quả của bảo hộ có tăng lên nhiều hay không còn phụ thuộc
vào tính linh hoạt có chọn lọc, có định hớng của Chính phủ các nớc trong việc áp
dụnh các hàng rào phi thuế quan bổ trợ cho các biện pháp thuế quan. Nếu biết kết
hợp hài hoà và tinh tế hai công cụ này, sản xuất trong nớc sẽ đợc bảo hộ, hỗ trợ có
thời hạn để nâng cao sức cạnh tranh nhằm từng bớc thích nghi với các định chế và
nguyên tắc chung của môi trờng thơng mại quốc tế.
II- Xu hớng sử dụng các hàng rào phi thuế quan trong
thơng mại quốc tế:
Bảng 1: Tóm tắt các hàng rào phi thuế quan chủ yếu trong
các nớc ASEAN
Indonesia Giấy phép đối với nhà nhập khẩu chọn lọc, cấm, các
độc quyền nhập khẩu nhà nớc
Malaysia Giấy phép đối với hàng hóa bị cấm thông thờng, giấy
phép nhập khẩu đối với các lí do phi thơng mại.
Philippines Thẩm quyền nhập khẩu và giấy phép đối với ngời

mua chọn lọc; các hạn ngạch toàn cầu, cấm đối với các lí
do vệ sinh và sức khoẻ; thẩm quyền ngân hàng; độc quyền
nhập khẩu nhà nớc.
Singapore Cấm đối với lí do vệ sinh và sức khoẻ.
Thailand Giấy phép nhập khẩu, bao gồm quan hệ đối với việc
bán hàng hóa trong nớc; cấm; cơ quan nhập khẩu độc nhất.
VietNam Tơng đơng thuế quan; hạn chế chuyển đổi ngoại tệ;
cấm; hạn ngạch; đánh giá hải quan.
Nguồn: Báo cáo về các hàng rào phi thuế quan và chính sách thơng mại của
Việt Nam, Phòng Thơng mại và Công nghiệp Việt Nam 1999.
Thách thức của tự do hoá thơng mại là mối đe dọa, và tiến triển bắt đầu là
có giới hạn hoàn toàn. Bên cạnh việc tự do hóa các giấy phép thơng mại, phần lớn
các biện pháp phi thuế quan khác có xu hớng trở nên mạnh mẽ hơn trong những
năm gần đây. Danh mục giá tối thiểu đã trở nên ngắn hơn đợc tính nh một chuyển
động tự do hoá, khi bảo hộ thuế quan thực tế có lẽ đã tăng một chút. Mặt khác,
việc sử dụng thuế quan tơng đơng, quản lí chuyển đổi ngoại tệ; và sự ngăn cấm đã
đợc tăng cờng rõ rệt. Về tổng thể, đó là một trờng hợp của một bớc tiến và hai b-
ớc lùi
Bảng 2: Thay đổi chính sách thực tế từ năm 1996 đa ra một
bức tranh hỗn hợp về Việt Nam
Loại hàng rào phi thuế quan/biện pháp phi thuế quanMạnh hơn Yếu hơn
thuế quan
Phụ thu hải quan *
Thuế tiêu thụ đặc biệt *
Danh mục giá tối thiểu *
Chuyển đổi ngoại tệ hạn chế *
Chuyển đổi ngoại tệ không cần yêu cầu *
Giấy phép thơng mại *
Hạn ngạch và cấm đoán *
Các biện pháp độc quyền *

Các thủ tục hải quan đặc biệt *
Bảo hộ thuế quan *
Nguồn: Báo cáo về các hàng rào phi thuế quan và chính sách thơng mại của
Việt Nam, Phòng Thơng mại và Công nghiệp, 1999.
Trong những năm 1980, việc sử dụng các hàng rào thuế quan dờng nh gia
tăng, nhng trong những năm 1990 các lỗ lực song phơng, khu vực và quốc tế đã có
thể làm giảm ít nhất sự thịnh hành các hàng rào thuế quan. Tuy nhiên các hàng
rào phi thuế quan vẫn là hiện tợng chung trong các chế độ chính sách thơng mại
của các quốc gia phát triển lẫn các quốc gia đang phát triển.
Đến nay, khi nhu cầu tự do hoá thơng mại ngày càng khẩn thiết, việc bảo
hộ bằng thuế quan dần dần bị xóa bỏ thì việc sử dụng các hàng rào phi thuế quan
để bảo hộ sản xuất trong nớc trở nên cần thiết và ngày càng tinh vi. Với việc các
nớc yêu cầu xoá bỏ một vài biện pháp nh hạn chế định lợng, cấm giấy phép nhập
khẩu... thì hàng loạt các biện pháp bảo hộ tinh vi khác ra đời. Do đó xu hớng
chung trong việc sử dụng các hàng rào phi thuế quan để bảo hộ sản xuất trong nớc
là chuyển từ các biện pháp mang tính chất hạn chế định lợng trực tiếp sang các
biện pháp tinh vi hơn nh thuế chống bán phá giá, thuế đối kháng, tiêu chuẩn kĩ
thuật, các qui định về nhãn mác.
Kể từ khi WTO ra đời, có thể thấy rõ một xu hớng nổi bật là các biện pháp
bảo hộ hoặc hạn chế thơng mại mang tính đơn phơng ngày càng bị phản đối mạnh
mẽ.
Ngoài ra ngày càng nhiều biện pháp hạn chế nhập khẩu đợc sử dụng gắn
với yêu cầu tuân thủ các tiêu chuẩn môi trờng và lao động. Trào lu này đang nổi
lên và đợc nhiều nớc phát triển hậu thuẫn mạnh mẽ
Nh chúng ta đã thấy, các nớc luôn dựng lên nhiều biện pháp phi thuế quan
để bảo hộ sản xuất trong nớc. Mặc dù những biện pháp này rất đa dạng, có thể
chia làm sáu nhóm lớn.
Trong xu thế tự do hoá thơng mại ngày càng mạnh mẽ, các nớc buộc phải
cam kết không áp dụng các biện pháp phi thuế quan thuộc nhóm hạn chế định l-
ợng để bảo hộ sản xuất trong nớc. Nhng bù lại, các nớc ngày càng sử dụng nhiều

hơn ba biện pháp hạn chế nhập khẩu thuộc nhóm bảo vệ thơng mại tạm thời, đó là
biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ.
Sau khi vòng đàm phán Urugoay chấm dứt với sự ra đời của Tổ chức Thơng
mại Thế giới WTO vào năm 1995, các qui định liên quan tới việc áp dụng ba biện
pháp này cũng khá chặt chẽ. Tuy nhiên, xu hớng từ năm 1995 đến nay cho thấy
biện pháp chống bán phá giá đã đợc sử dụng một cách thái quá và dờng nh đã trở
thành một công cụ bảo hộ quan trọng cho nhiều nớc. Loại rào cản này đợc các n-
ớc phát triển sử dụng chủ yếu. Đối tợng chịu tỷ lệ lớn trong các vụ kiện chống bán
phá giá là các nớc đang phát triển, một phần là các nớc phát triển, một phần là các
nớc có nền kinh tế chuyển đổi. Các quốc gia đang phát triển do hạn chế về thông
tin và trình độ kĩ thuật nên ít có cơ hội sử dụng các biện pháp này. Biện pháp này
cũng hay đợc các quốc gia áp dụng dựa trên thế và lực trong kinh tế thơng mại
quốc tế để ép các nớc nhỏ.
CHƯƠNG II
Nội dung chủ yếu về hàng rào phi thuế quan
I- Các hàng rào phi thuế quan trên thế giới hiện nay:
Trên thế giới hiện nay, các nớc đã dựng lên rất nhiều hàng rào phi thuế
quan nhằm bảo hộ nền sản xuất trong nớc. Từ đó ngời ta có thể phân chia làm
sáu nhóm lớn:
1- Nhóm biện pháp hạn chế định lợng:
Hạn chế định lợng là những biện pháp phi thuế quan điển hình gây cản trở
luồng di chuyển tự do của hàng hóa giữa các nớc. Đây là những biện pháp nhằm
trực tiếp giới hạn khối lợng hoặc giá trị hàng hóa nhập khẩu vào một quốc gia, do
đó có tính chất bảo hộ rất cao. Đây thờng là những biện pháp mang tính chất võ
đoán, ít dựa trên cơ sở khoa học mà chủ yếu nhằm bảo hộ sản xuất trong nớc.
WTO coi những biện pháp này làm hạn chế rõ rệt tác dụng của tự do hoá thơng
mại, đồng thời lại không thể tính toán, dự đoán đợc trớc cho nên yêu cầu xóa bỏ
chúng. Thay vào đó, nhu cầu bảo hộ, nếu có, sẽ đợc thể hiện thành thuế quan.
1.1- Cấm nhập khẩu
Biện pháp hạn chế định lợng đầu tiên là cấm nhập khẩu. Các nớc trên thế

giới chỉ đợc sử dụng cấm nhập khẩu này vì mục tiêu bảo vệ đạo đức công cộng,
sức khỏe con ngời, tài nguyên thiên nhiên, an ninh quốc phòng...Trong trờng hợp
khẩn cấp, các nớc cũng có thể tạm thời áp dụng biện pháp này nhằm bảo hộ cán
cân thanh toấn, an ninh lơng thực quốc gia...Vì thế những hàng hóa thuộc danh
mục cấm nhập khẩu của các quốc gia thờng là vũ khí, đạn dợc, ma tuý, hóa chất
độc hại. Nói chung hàng xuất khẩu của Việt Nam ít bị hạn chế bởi biện pháp này
do qui định của các nớc nhập khẩu khá phù hợp với mục tiêu trên.
1.2- Hạn ngạch nhập khẩu
Biện pháp hạn chế định lợng thứ hai là hạn ngạch nhập khẩu. Hạn ngạch
nhập khẩu là qui định của nhà nớc về số lợng hoặc giá trị một mặt hàng nào đó đ-
ợc nhập khẩu nói chung hoặc một từ thị trờng nào đó, trong một thời gian nhất
định (thờng là một năm)
Hạn ngạch nhập khẩu là một hình thức hạn chế về số lợng và thuộc hệ
thống giấy phép không tự động. Khi hạn ngạch nhập khẩu đợc qui định cho một
loại sản phẩm đặc biệt nào đó thì Nhà nớc đa ra một định ngạch (tổng định ngạch)
nhập khẩu mặt hàng đó trong một thời gian nhất định không kể nguồn gốc hàng
hóa đó từ đâu đến.
Khi hạn ngạch qui định cho cả mặt hàng và thị trờng thì hàng hóa chỉ đợc
nhập khẩu từ nớc (thị trờng) đã định với số lợng bao nhiêu, trong thời hạn bao lâu.
Thờng hạn ngạch nhập khẩu đợc áp dụng bằng cách cấp giấy phép nhập
khẩu cho một số công ty. Ví dụ nh ở ta, các mặt hàng liên quan đến các cân đối
lớn của nền kinh tế quốc dân đều có qui định hạn ngạch nhập khẩu nh xăng dầu,
phân bón, xi măng, đờng, thép xây dựng. Chỉ có một số doanh nghiệp mới đợc
phép nhập khẩu những mặt hàng trên. Mỗi doanh nghiệp đợc phép phân bổ một số
lợng tối đa các mặt hàng trên trong một năm
Nhng trong xu hớng tự do hóa thơng mại hiện nay, các nớc cũng dần xóa
bỏ cơ chế hạn ngạch. Đơn cử nh, vào năm 2000 Trung Quốc áp dụng hạn ngạch
nhập khẩu đối với 57 nhóm hàng (mã HS 4 số) bao gồm đồng hồ, xe máy, ngũ
cốc, dầu ăn, phân bón, thép, hàng dệt may, thuốc lá...Tuy nhiên sau khi gia nhập
WTO, Trung Quốc đã bãi bỏ chế độ hạn ngạch nhập khẩu với hơn một nửa số

nhóm hàng trên và cam kết lịch trình loại bỏ đối với các mặt hàng còn lại muộn
nhất là đến 01/ 01/ 2005.
Tuy nhiên, đến nay hạn ngạch vẫn đợc áp dụng phổ biến trong hai lĩnh vực
mà Việt Nam có thế mạnh xuất khẩu là dệt may và nông nghiệp.
Theo Hiệp định dệt may ATC của WTO từ 01/01/1996 đến 01/01/2005, các
nớc sẽ dần dần hòa nhập toàn bộ hàng dệt may vào thực hiện GATT 1994, nghĩa
là sẽ xóa bỏ chế độ hạn ngạch đối với mặt hàng này. Tuy nhiên theo tổng kết của
Hiệp hội Dệt may quốc tế, đã hơn bảy năm, các nớc mới chỉ hòa nhập đợc một số
lợng hạn chế các sản phẩm hàng dệt may. Đến nay, Hoa Kì vẫn duy trì chế độ hạn
ngạch đối với 841 mặt hàng trong tổng số 932 mặt hàng. Các số liệu ứng với EU
và Canada là 222/303 và 292/368 mặt hàng.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, WTO cũng cho phép các nớc thành viên duy
trì hạn ngạch thuế quan. Hàng nhập khẩu nằm trong mức hạn ngạch này sẽ đợc h-
ởng thuế suất thấp. Tuy nhiên, nếu vợt quá mức hạn ngạch qui định này, mặt hàng
đó sẽ phải chịu mức thuế suất rất cao. Ví dụ trong khi thuế suất trong hạn ngạch
của EU đối với gạo nhập khẩu là 88 EURO/ tấn thì thuế suất ngoài hạn ngạch dao
động từ mức 264 EURO/ tấn đến 416 EURO/ tấn
Thực chất hạn ngạch thuế quan nhằm giới hạn lợng nhập khẩu ở mức hạn
ngạch đã qui định. Vì thế hàng nông sản của Việt Nam rất khó thâm nhập vào thị
trờng các nớc áp dụng biện pháp này. Chẳng hạn nh Trung Quốc áp dụng mức hạn
ngạch thuế quan năm 2001với gạo là 1.662.500 tấn (tơng đơng 1% lợng gạo sản
xuất trong nớc) trong khi mức thuế suất ngoài hạn ngạch là77%. Điều này đã
khiến lợng gạo nhập khẩu vào Trung Quốc năm này chỉ đạt hai triệu tấn, tơng đ-
ơng mức hạn ngạch. Ngoài ra, Trung Quốc còn duy trì hạn ngạch thuế quan đối
với một số mặt hàng nông sản khác nh lúa mì, ngô, dầu cọ, dầu đậu nành, dầu hạt
cải, đờng, len, bông đến thời hạn tối đa là 01/ 01/ 2005
1.3- Giấy phép nhập khẩu
Biện pháp hạn chế định lợng thứ ba thờng đợc các nớc sử dụng đó là giấy
phép nhập khẩu. Theo chế độ này, hàng hóa muốn thâm nhập vào lãnh thổ một n-
ớc phải xin giấy phép nhập khẩu của cơ quan chức năng. Đôi khi các nớc sử dụng

biện pháp này nhằm giảm hạn ngạch hoặc cấm nhập khẩu bằng cách tạm thời
không cấp giấy phép nhập khẩu. Trớc đây, hàng xuất khẩu của Việt Nam muốn
xuất sang Thái Lan và Trung Quốc đã gặp phải khó khăn không nhỏ do biện pháp
này gây ra.
Theo cách sử dụng giấy phép đợc chia làm hai loại: giấy phép chung và
giấy phép riêng.
Giấy phép chung (General open licence) đợc cấp công khai theo khhuôn
khổ định mức số lợng nhập khẩu và trong một thời gian nhất định. Nó có thể đợc
áp dụng cho tất cả các nớc hoặc giới hạn ở một số nớc. Thông thờng thì giấy phép
riêng đợc sử dụng rộng rãi và sử dụng cho một số nớc riêng lẻ.
Tính chất kín đáo và bí mật của giấy phép nhập khẩu cũng nh của thủ tục
cấp giấy phép nhập khẩu của chính quyền nhà nớc đã tạo khả năng hạn chế nhập
khẩu mạnh. Thông qua giấy phép nhà nớc can thiệp trực tiếp vào hoạt động ngoại
thơng, vào khối lợng nhập khẩu cũng nh phơng hớng lãnh thổ có lợi hoặc bất lợi
cho các doanh nghiệp. Chế độ giấy phép nhập khẩu thờng đợc áp dụng kết hợp với
định mức số lợng nhập khẩu và quản lí ngoại hối.
Đến năm 1997, Thái Lan vẫn duy trì chế độ cấp giấy phếp nhập khẩu cho
23 mặt hàng gồm nguyên vật liệu, dợc phẩm, xăng dầu, hàng công nghiệp, hàng
dệt, nông sản, động cơ, linh kiện xe máy đã qua sử dụng. Tơng tự nh vậy, trớc khi
gia nhập WT0, Trung Quốc cũng áp dụng chế độ giấy phép nhập khẩu với
khoảng hơn 50 nhóm hàng, chủ yếu gồm ngũ cốc, dầu thực vật, bông, sắt thép,
phơng tiện vận tải hành khách, sản phẩm cao su. Giá trị hàng hóa nhập khẩu theo
giấy phép nhập khẩu năm 1999 của Trung Quốc chiếm tới 8,45% tổng hàng hóa
nhập khẩu, tơng ứng với 14 tỷ USD. Để đợc cấp giấy phép, doanh nghiệp nhập
khẩu phải chứng minh đợc nhu cầu nội địa đối với hàng hóa nhập khẩu này và
khả năng ngoại tệ của doanh nghiệp đủ để trả cho giao dịch đó. Tuy nhiên sau khi
gia nhập WTO, Trung Quốc đã loại bỏ 25 nhóm hàng thuộc danh mục này, đồng
thời xoá bỏ cơ chế xin giấy phép kể trên.
2- Nhóm các biện pháp quản lí giá cả
Ngoài mục tiêu tránh gian lận thơng mại, biện pháp liên quan đến việc xác

định giá tính thuế hải quan có thể đợc sử dụng nh một công cụ gián tiếp bảo hộ
sản xuất trong nớc. Trị giá tính thuế hải quan cao hay thấp sẽ tác động trực tiếp
đến khoản thuế nhập khẩu mà các doanh nghiệp phải nộp và qua đó tác động lên
giá bán của sản phẩm của Việt Nam trên thị trờng nớc nhập khẩu.
Trớc đây, các nớc đang phát triển thờng không sử dụng giá thực tế ghi trên
hoá đơn để tính thuế mà dùng trị giá tính thuế tối thiểu hoặc giá tham khảo. Thậm
chí Hải quan Thái Lan còn sử dụng giá hóa đơn cao nhất của sản phẩm cùng loại
nhập khẩu từ bất kì nớc nào trong thời gian trớc đó để xác định giá tính thuế. Cách
xác định tuỳ tiện này đôi khi khiến nhà xuất khẩu phải chịu thuế cao một cách vô
lí và không thể dự đoán đợc khả năng cạnh tranh về giá của sản phẩm của mình.
Đến nay hầu hết các nớc đã sử dụng Hiệp định về định giá hải quan của
WTO để tính thuế nhập khẩu. Theo đó, giá tính thuế nhập khẩu là giá thực trả
hoặc sẽ đợc trả khi hàng đợc bán từ nớc xuất khẩu sang nớc nhập khẩu.
Hiệp định trị giá hải quan (ACV) mà tên đầy đủ là Hiệp định thực hiện
Điều VII của GATT 1994. Nội dung cơ bản của ACV là yêu cầu cơ quan hải
quan xác định giá hàng hóa bị đánh thuế trên cơ sở giá ghi trên hợp đồng, hóa đơn
(gọi là trị giá giao dịch).
Trị giá giao dịch không chỉ bao gồm giá ghi trên hợp đồng mà còn có thể
bao gồm một số chi phí khác: tiền hoa hồng, tiền môi giới, tiền đóng gói, lệ phí
giấy phép, chi phí vận chuyển và bảo hiểm (nếu căn cứ theo giá CIF)
ACV không cho phép tính các chi phí sau vào trị giá giao dịch: cớc vận tải
nội địa sau khi nhập khẩu, chi phí lắp ráp, duy tu, bảo hành sau khi nhập khẩu,
các loại thuế sau khi nhập khẩu.
Khi có sự cố tình khai giá hàng hóa thấp xuống để giảm số thuế phải nộp
của thơng nhân thì ACV cho phép cơ quan hải quan từ chối chấp nhận giá hàng do
thơng nhân khai khi có lí do để nghi ngờ tính trung thực và đúng đắn của các chi
tiết hoặc chứng từ do thơng nhân xuất trình trong một số trờng hợp sau:
+ Khi hàng hóa không thực sự diễn ra
+ Khi giá hàng hóa bị hạ thấp do mối quan hệ giữa ngời mua và ngời bán
+ Khi hợp đồng mua bán đặt ra một số điều kiện hạn chế việc sử dụng hàng

hóa
Trong trờng hợp có nghi ngờ về sự gian lận, ACV đa ra năm phơng pháp
mang tính trung lập, khách quan để xác định trị giá giao dịch. Các phơng pháp
này xếp theo thứ tự u tiên và chỉ khi nào không thể áp dụng phơng pháp u tiên cao
hơn thì mới sử dụng đến phơng pháp tiếp theo. Năm phơng pháp đó đợc xếp theo
trật tự u tiên nh sau:
1. Xác định theo trị giá giao dịch của hàng hóa giống hệt.
2. Xác định theo trị giá giao dịch của hàng hóa tơng tự.
3. Khấu trừ: trị giá giao dịch xác định bằng cách lấy giá bán của hàng hóa
giống hệt hoặc tơng tự trên thị trờng nớc nhập khẩu trừ đi các yếu tố nh thuế, chi
phí vận chuyển, bảo hiểm, lãi.
4. Cộng dồn: trị giá giao dịch xác định bằng cách cộng chi phí sản xuất
hàng hóa với một khoản chi phí và lãi ở mức phổ biến đối với loại hàng hóa đó.
5. Suy luận: là sự áp dụng của bốn biện pháp trên một cách linh hoạt, tức là
chi ớc lợng ở mức tơng đối.
Ngoài biện pháp về trị giá tính thuế hải quan, hiện nay rất nhiều nớc thể
hiện mối quan ngại về các biện pháp phụ thu và phí đang đợc sử dụng tràn lan nh
một loại thuế nhập khẩu trá hình nhằm cản trở thơng mại. Danh mục các mặt hàng
chịu phụ thu không cố định là một trong những lợi thế giúp các nớc nhập khẩu
bảo hộ tạm thời và giảm khả năng dự đoán cúa các doanh nghiệp xuất khẩu.
Hiện nay Hoa Kỳ và Việt Nam đã kí kết và phê chuẩn Hiệp định thơng mại
song phơng. Trong thời gian qua, Hiệp định này đã có hiệu lực và góp phần thúc
đẩy xuất khẩu từ Việt Nam sang Hoa Kì. Tuy nhiên các nhà xuất khẩu của ta cần
phải cân nhắc đến các khoản phí đang đợc Hoa Kì áp đặt với rất nhiều mặt hàng.
Tiêu biểu nhất là khoản phí sử dụng mà chính phủ nớc này đánh vào một số phơng
tiện giao thông nhập khẩu. Theo Đạo luật Hải quan và Thơng mại năm 1990 và
Đạo luật Hoàn trả Ngân sách omnibus năm 1990, phí sử dụng gồm ba khoản
chính: phí hải quan, phí cảng biển, phí phơng tiện giao thông đã tăng lên đáng kể
hàng năm. Phí hải quan đánh lên tất cả các hàng hóa nhập khẩu vào Mỹ, tăng từ
0,17% giá trị hàng hóa lên 0,19% (năm 1998) và 0,21% (năm 1999). Khoản phí

này có hiệu lực đến 30/ 09/ 2003. Mỹ cũng áp dụng phí bảo dỡng cảng biển
(HTM cho các hàng hóa nhập khẩu vào Mỹ bằng đờng biển với mức bằng 0,125%
giá trị lô hàng. Theo ớc tính, đến năm 1999, khoản tiền dôi ra từ quỹ này lên tới
1,6 tỷ USD. Không dừng lại ở đó, đến 30/04/1999. Chính quyền B.Clinton thậm
chí còn thay thế HTM bằng phí dịch vụ cảng biển. Loại phí này không những bao
gồm phí hoạt động và bảo dỡng cảng biển mà gồm cả phí xây dựng cảng. Tổng
mức phí lên tới 1 tỷ USD/ năm.
Về phía Việt Nam, Việt Nam sử dụng các biện pháp giá cả sau để quản lí
nhập khẩu:
Giá nhập khẩu tối thiểu:
Việt Nam sử dụng một kế hoạch giá nhập khẩu tối thiểu bớc đầu trong đánh
giá nhập khẩu.. Danh mục của 34 hạng mục của hàng hóa dới sự quản lí chính
phủ trong các điều kiện giá nhập khẩu đối với giá hải quan (975/ TC/ QĐ/ TCT,
ngày 29/10/1996), đợc thay thế bằng danh mục của 21 hạng mục hàng hóa
(918/TC/QĐ/TCT, ngày 11/11/97)
Ngày 27/5/ 1998, Quyết định 155/1998/QĐ- TCQH đợc ban hành để xác
đinh quá trình đánh giá. Giá hợp đồng sẽ đợc sử dụng nếu giá là giá trên giá tối
thiểu, và giá tối thiểu sẽ đợc sử dụng trong các trờng hợp khác. Nhng khi đó, đối
với hàng hóa đợc nhập khẩu cho việc sử dụng trực tiếp nh nguyên liệu và cung
cấp trong sản xuất và lắp đặt, nếu giá CIF cao hơn 60% của giá tối thiểu trong
phụ lục giá, giá trị đánh thuế sẽ là giá CIF. Điều này làm giảm sút đáng kể trong
thuế quan thu đợc đối với nhập khẩu các sản phẩm trung gian, mặc dù tỉ lệ thuế
quan đối với nhiều mặt hàng đã là rất thấp. Tỷ lệ thuế quan đối với các hoạt động
lắp đặt tuy nhiên là cao cho nên Quyết định này bao hàm sự giảm giá rõ rệt trong
nỗ lực bảo vệ một cách hiệu quả các ngành công nghiệp này.
Việt Nam đã cam kết với ASEAN thực hiện hệ thống đánh giá của GATT
vào năm 2000. Điều này đòi hỏi một chơng trình các hoạt động toàn diện, nhng
mới chỉ đạt đợc một chút cho tới nay. Điều đó hầu nh có vẻ rằng một số hình thức
của hệ thống giá tối thiểu sẽ tiếp tục trong một vài năm.
Giá nhập khẩu tối đa.

ít nhất kể từ tháng 4/ 1994 (Nghị định 33/ CP), Việt Nam đã tiến hành một
bớc đi không bình thờng của việc thiết lập giá nhập khẩu tối đa cho hàng hóa đợc
nhập khẩu nhất định quan trọng hàng đối đầu với nền kinh tế Việt Nam. Hàng
hóa đợc nhập khẩu là phân bón, dầu lửa, sắt và thép, máy móc và thiết bị nhất
định.
Việc đặt ra giá nhập khẩu tối đa là một cơ chế để tránh gian lận chuyển đổi
giá của các công ty thơng mại nhà nớc. Điều đó có thể có liên quan trọng môi tr-
ờng thơng mại ít cạnh tranh hơn của năm 1994, nhng năm này điều đó có vẻ là
một giải pháp không cần thiết đối với vấn đề đó. Mục đích cũng có thể là thiết lập
giá trong nớc đối với một số hàng hóa đó.
Giá xuất khẩu tối thiểu.
Dầu thô và gạo là đối tợng của giá xuất khẩu tối thiểu. Chính sách này
giống nh chính sách của việc có giá nhập khẩu tối đa, có vẻ khác thờng trong một
nền kinh tế thị trờng. Trên thực tế, nguồn gốc của chúng có thể dựa trên sự cần
thiết phải quản lí các hoạt động của các công ty thơng mại sở hữu nhà nớc. Cho
đến nay và có thể cho đến nay, các công ty này có thể hy vọng đợc bảo lãnh khi
họ bị thiệt hại. Cũng nh vậy giá bị lệch lạc và cơ cấu khuyến khích làm các phơng
tiện chính sách thô có vẻ tơng đối nhạy cảm.
Sự cần thiết đối với các chính sách quản lý giá này trong những năm gần
đây là không rõ ràng. Xuất khẩu gạo đã đợc tự do hóa, và khó mà thấy giá xuất
khẩu tối thiểu đợc thiết lập nh thế nào đối với dầu thô có thể là có ích.
Giá hành chính.
Các hình thức chính sách giá trực tiếp này nói chung không đợc áp dụng tại
Việt Nam. Tuy nhiên, tháng 7/1997, chính phủ đã quyết quy định giá đối việc
nhập khẩu gỗ, cao su từ Campuchia để tránh cạnh tranh dẫn đến tăng giá và
thiệt hại.
Chống bán hạ giá và các biện pháp chống trợ cấp:
Luật về xuất nhập khẩu đợc sửa đổi vào tháng 5/1998 bao gồm, trong số
những việc khác, các điều khoản đối với đánh thuế bổ sung nh sau:
Hàng hóa nhập khẩu đợc bán hạ giá tại Việt Nam, gây cản trở sự phát

triển của việc sản xuất hàng hóa cùng loại trong nớc;
Hàng hóa đợc nhập khẩu vào Việt Nam với giá quá thấp do sự trợ cấp của
nớc xuất khẩu, gây cản trở sự phát triển của việc sản xuất hàng hóa cùng loại
trong nớc;

×