LỜI MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống tư tưởng, quan điểm cơ bản phản ánh
sâu sắc thực tiễn Cách mạng Việt Nam, Cách mạng thuộc địa trên cơ sở kế
thừa, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tinh hoa văn hóa dân
tộc, trí tuệ nhân loại nhằm giải phóng giai cấp, con người. Để tìm hiểu về tư
tưởng Hồ Chí Minh trước hết chúng ta cần tìm hiểu điều kiện lịch sử - xã
hội hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Có thể nói đây chính là cái gốc, là
ngọn nguồn cho ra đời một hệ tư tưởng lỗi lạc của Người. Vì vậy, em xin
chọn tìm hiểu đề tài: “Phân tích những điều kiện lịch sử - xã hội hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh”
NỘI DUNG
Những điều kiện lịch sử - xã hội hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
thứ nhất là điều kiện lịch sử, thứ hai là yếu tố quê hương và gia đình,
thứ ba là yếu tố thời đại.
I. Điều kiện lịch sử xã hội Việt Nam từ thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ
XX.
Đầu thế kỉ XIX, xã hội Việt Nam lúc bấy giờ là một xã hội phong kiến,
bảo thủ, trì trệ, lạc hậu và phản động. Nền kinh tế chủ yếu là nền kinh tế tự
cấp tự túc. Nông dân bị địa chủ, cường hào cướp mất ruộng đất, phải lưu
vong. Lụt lội, hạn hán xảy ra liên tục, tài chính thiếu hụt, nạn tham nhũng
phổ biến. Bộ máy nhà nước phong kiến được tổ chức một cách độc đoán.
Bọn vua và quan lại bên trong thì đàn áp bóc lột nhân dân một cách dã man
còn bên ngoài thì thi hành chính sách bế quan tỏa cảng, không tiếp xúc với
thế giới bên ngoài, người dân không có cơ hội mơ rộng giao lưu, buôn bán,
học hỏi tinh hoa khoa học kỹ thuật tiên tiến của các nước trên thế giới. Bên
cạnh đó triều đình còn cự tuyệt mọi đề án cải cách về văn hóa xã hội. Chính
những điều đó khiến cho nước ta trở nên trì trệ và lạc hậu.
Năm 1858, thực dân Pháp nổ tiếng súng đầu tiên tại bán đảo Sơn Trà –
Đà Nẵng chính thức đánh dấu cuộc xâm lược nước ta. Triều đình phong kiến
đã thỏa hiệp, bạc nhược, từ chủ chiến đến chủ hòa rồi bán nước ta cho thực
dân Pháp. Qua cuộc khai thác thuộc địa của Thực dân Pháp, tình hình kinh
tế, chính trị, văn hóa xã hội ở Việt Nam có những chuyển biến hết sức căn
bản .
Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị trực tiếp mọi quyền
hành đều nằm trong tay bọn tư bản Pháp, vua quan phong kiến nhà Nguyễn
chỉ là bù nhìn tay sai. Chúng dùng chính sách: chia để trị, thủ tiêu mọi quyền
tự do, dân chủ; thẳng tay đàn áp và khủng bố khốc liệt các tư tưởng, hoạt
động yêu nước làm cho dân tộc Việt Nam lâm vào cảnh ngột ngạt về chính
trị.
Về kinh tế, chúng tiến hành tiến hành chương trình khai thác thuộc địa đại
quy mô nhằm khai thác tài nguyên, bóc lột nhân công, cướp ruộng đất của
nhân dân, biến Việt Nam và Đông Dương thành thị trường độc quyền của
Pháp.
Về văn hóa - xã hội, thực dân Pháp thi hành chính sách ngu dân lập nhiều
nhà tù hơn trường học. Đầu độc thanh niên bằng rượu, thuốc phiện; mị dân,
tuyên truyền xuyên tạc lịch sử văn hóa Việt Nam . Tuyên truyền văn hóa
thực dân vong bản nhằm thủ tiêu tinh thần yêu nước và nền văn hóa của dân
tộc ta. Việt Nam từ xã hội phong kiến độc lập đã trở thành xã hội thuộc địa,
nửa phong kiến. Dân tộc Việt Nam bị mất tự do, kinh tế không phát triển,
đời sống vô cùng cực khổ.
Các phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp liên tục nổi lên, dâng
cao và lan rộng trong cả nước: từ Trương Định, Nguyễn Trung Trực,... ở
Nam bộ; Trần Tấn, Đặng Như Mai, Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng... ở
miền Trung đến Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Quang Bích... ở miền Bắc.
Tuy nhiên, do chưa có một đường lối kháng chiến rõ ràng, dựa trên ý thức
hệ tư tưởng phong kiến đã lỗi thời lạc hậu nên đều thất bại do không đáp
ứng đủ yêu cầu của thời đại.
Đầu thế kỉ XX, dưới chính sách cai trị của thực dân Pháp, tình hình giai
cấp ở Việt Nam có sự biến chuyển và phân hóa
Ngoài hai giai cấp cũ là giai cấp địa chủ phong kiến và nông dân, xã hội
Việt Nam xuất hiện các giai cấp mới: giai cấp công nhân, giai cấp tiểu tư sản
và giai cấp tư sản. Trong đó bộ phận phản động của giai cấp địa chủ phong
kiến làm tay sai cho thực dân Pháp; giai cấp nông dân bị bần cùng hóa vì
chính sách bóc lột tàn bạo của đế quốc, phong kiến, khao khát độc lập và
ruộng đất, là lực lượng chủ lực của phong trào giải phóng dân tộc; giai cấp
tiểu tư sản mới xuất hiện, ngày càng đông đảo, bị đế quốc phong kiến bóc lột
chèn ép, rất nhạy cảm, có tinh thần dân tộc, yêu nước; giai cấp tư sản phân
hóa thành hai bộ phận trong đó tư sản mại bản gắn liền với lợi ích tư sản
Pháp, tham gia vào đời sống chính trị, kinh tế của thực dân Pháp còn tư sản
dân tộc: mâu thuẫn với tư bản Pháp và địa chủ phong kiến, có tinh thần dân
tộc dân chủ, nhưng thế lực kinh tế yếu ớt, phụ thuộc, do đó có khuynh
hướng chính trị cải lương. Đặc biệt là có sự xuất hiện của giai cấp công nhân
tuy mới ra đời với số lượng ít nhưng nhanh chóng trưởng thành; do những
ưu thế đặc biệt nên sẽ là lực lượng lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc.
Sự xuất hiện của Tân thư - Tân văn (trình bày, phản ánh hiện trạng của
Trung Quốc và thế giới, đề xuất những phương sách giải quyết những vấn
nạn của Trung Quốc dưới chế độ mục nát của Thanh triều)… thời kì này đã
ảnh hưởng rất nhiều đến tư tưởng của các nhà yêu nước thời bấy giờ. Do
Việt Nam là một nước ít có những cuộc cách mạng về tư tưởng, lại chịu ảnh
hưởng lâu đời từ trường văn hóa Trung Hoa nên việc xuất hiện hiện các tư
tưởng mới của Trung Hoa qua Tân thư dễ được tầng lớp có học Việt Nam
chấp nhận. Ảnh hưởng nhất là sách của Khang Hữu Vi, cùng Lương Khải
Siêu, vì sách ấy nói rất nhiều tới dân quyền tự do, phát minh được cái đặc
sắc - chân tướng của văn minh Âu Châu. Từ đó, phong trào yêu nước chống
Pháp của nhân dân ta chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản với sự xuất
hiện của các phong trào điển hình như: Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục,
Duy Tân, Việt Nam Quang phục hội... do các sĩ phu phong kiến có tư tưởng
duy tân truyền bá và dẫn dắt, nhưng do bất cập trước lịch sử, nên không
tránh khỏi thất bại. Những năm đầu thế kỷ XX thực dân Pháp thẳng tay đàn
áp các phong trào yêu nước của nhân dân ta. Trường Đông Kinh Nghĩa thục
bị đóng cửa (tháng 12- 1907; cuộc biểu tình chống sưu thuế ở Huế và các
tỉnh miền Trung bị đàn áp (tháng 4 – 1908); vụ Hà Thành đầu độc bị thất bại
và bị tàn sát (tháng 6-1908); căn cứ nghĩa quân Yên Thế bị bao vây và đánh
phá (tháng 01 – 1909); phong trào Đông Du bị tan rã, Phan bội Châu và các
đồng chí của ông bị trục xuất khỏi nước Nhật (tháng 02-1909); các lãnh tụ
của phong trào Duy Tân trung kỳ, người bị lên máy chém (Trần Quý Cáp,
Nguyễn Hằng Chi..), người bị đày ra Côn Đảo (Phan Chu Trinh, Huỳnh
Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Đặng Nguyên Cẩn...). Cách mạng Việt Nam rơi
vào khủng hoảng về đường lối và giai cấp lãnh đạo. Trước tình hình như
vậy, phong trào cứu nước của nhân dân ta muốn giành được thắng lợi sẽ
phải đi theo một con đường cách mạng mới.
II. Quê hương, gia đình.
Nghệ Tĩnh là quê hương của Hồ Chí Minh. Nơi đây là mảnh đất giàu
truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm, đã nuôi dưỡng nhiều anh hùng nổi
tiếng trong lịch sử Việt Nam như Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu, Đặng
Dung, các lãnh tụ yêu nước cận đại như Phan Đình Phùng, Phan Bội
Châu...Từ nhỏ, Hồ Chí Minh đã đau xót chứng kiến cuộc sống nghèo khổ, bị
đàn áp, bị bóc lột cùng cực của đồng bào mình ngay trên mảnh đất quê
hương chính vì vậy nên tư tưởng yêu nước thương dân của Hồ Chí Minh đã
được hình thành từ rất sớm. Những tội ác của bọn thực dân và thái độ ươn
hèn, bạc nhược của bọn quan lại Nam triều đã thôi thúc Người ra đi tìm một
con đường cách mạng mới để cứu dân, cứu nước.
Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, gần gũi với
nhân dân. Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của Người là một nhà
nho giàu lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, lao động cần cù, có ý chí kiên
cường vượt qua gian khổ, khó khăn để đạt được mục tiêu, chí hướng. Chủ
trương lấy dân làm hậu thuẫn cho mọi cải cách chính trị - xã hội của cụ Phó
bảng Sắc đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với sự hình thành tư tưởng chính trị
và nhân cách của Hồ Chí Minh.
III. Thời đại
Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh
sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc với 5 đặc trưng đó là: Tích tụ sản xuất và
các tổ chức độc quyền, Tư bản tài chính và đầu cơ tài chính, Xuất khẩu tư
bản, Sự phân chia Thế giới về kinh tế, Sự phân chia Thế giới về lãnh thổ.
Chủ nghĩa đế quốc đã trở thành một hệ thống trên thế giới. Các nước đế
quốc vừa tranh giành, xâu xé thuộc địa, vừa vào hùa với nhau để nô dịch các