Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Bài tập học kỳ đất đai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.79 KB, 8 trang )

Đề bài: Gia đình ông Toán sử dụng một mảnh đất ở 290m
2
từ năm 1972.
Diện tích đất này, gia đình ông Toán đã đóng thuế sử dụng đất cho nhà nước từ
quý 4 năm 1992 đến năm 2001. Tháng 8 năm 2003, gia đình ông Toán bị chính
quyền địa phương ra quyết định thu hồi diện tích đất này. Gia đình ông khiếu nại
từ đó đến nay nhưng không nhận được sự trả lời thỏa đáng từ phái chính quyền
địa phương. Họ nói: “ Đây là dụ án chung không giải quyết một trường hợp cá
nhân gia đình ông”. Trong khi đó lại tiếp tục cấp GCNQSDĐ cho các hộ khác.
Hỏi:
1. Việc làm của chính quyền địa phương trong trường hợp này đúng hay sai? Vì
sao?
2. Nếu cán bộ xã có hành vi cố tình sai phạm thì Nhà nước có biện pháp xử lý cụ
thể như thế nào để bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật?
3. ông Toán cần làm những việc làm cần thiết để ông tự bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của mình?
1, Việc làm của chính quyền địa phương trong trường hợp này là sai:
Về thẩm quyền giải quyết: theo quy định tại Điều 44 Luật đất đai 2003
“1. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định thu
hồi đất đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ
chức, cá nhân nước ngoài, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định thu
hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư
ở nước ngoài thuộc đối tượng được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở
tại Việt Nam.”
Như vậy, cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân là
UBND cấp huyện. Khi thu hồi đất, cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất phải trực
tiếp ra quyết định và không được ủy quyền. Như vậy, trong trường hợp này chỉ
có UBND cấp huyện mới có quyền ra quyết định thu hồi đất nhà ông Toán.
Trong đề bài không nói rõ chính quyền địa phương là cơ quan nào, nếu đó là
UBND xã thì chính quyền địa phương đã vi phạm thẩm quyền, và việc thu hồi


đất đương nhiên là sai và không có hiệu lực.
( nếu UBND xã là cơ quan cấp GCNQSDĐ cho các hộ gia đình khác theo dữ
kiện đề bài thì cơ quan này cũng vi phạm thẩm quyền về việc cấp GCNQSDĐ
theo quy định tại Điều 52 Luật Đất đai 2003. )
1
Việc chính quyền đại phương không cấp GCNQSDĐ cho gia đình ông Toán,
trong khi đó lại tiếp tục cấp cho các hộ khác là sai, bởi:
- Lời giải thích của chính quyền: “ Đây là dụ án chung không giải quyết một
trường hợp cá nhân gia đình ông”.
+ Đối chiếu với các quy định tại Điều 38, Luật đất đai 2003 qui định những
trường hợp thu hồi đất (từ khoản 2 đến khoản 12) ta thấy trường hợp của gia
đình ông Toán không thuộc trường hợp nào cả.
+ Nếu trường hợp nhà ông Toán rơi vào trường hợp quy định tại khoản 1
Điều 38 Luật đất đai 2003: “ Nhà nước sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an
ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế”; ở đây chính quyền
địa phương cũng đã trả lời ông Toán rằng: “Đây là dự án chung không giải
quyết một trường hợp cá nhân gia đình ông”.
Nếu vậy thì khi chính quyền địa phương thu hồi đất của gia đình ông Toán
thì phải thực hiện đúng trình tự theo Khoản 2 Điều 39 Luật đất đai 2003: “Trước
khi thu hồi đất, chậm nhất là chín mươi ngày đối với đất nông nghiệp và một
trăm tám mươi ngày đối với đất phi nông nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phải thông báo cho người bị thu hồi đất biết lý do thu hồi, thời gian và kế
hoạch di chuyển, phương án tổng thể về bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái
định cư”. Nhưng câu trả lời ở đây chi là dự án chung chung, không có giấy tờ
chứng minh, cũng không thông báo về phương án bồi thường, tái định cư,....Hơn
nữa, việc trả lời này không có văn bản pháp lý cụ thể. Trong khi đó chính quyền
địa phương đó lại tiếp tục cấp GCNQSDĐ cho các hộ khác, như vậy là vô lý bởi
nếu đã là dự án chung thì không thể chỉ mình gia đình ông Toán bị thu hồi đất.

•Tìm hiểu đối với diện tích đất ở 290 m

2
, gia đình ông Toán đã sử dụng từ
năm 1972 có thuộc quyền sử dụng hợp pháp của gia đình ông hay không?
Theo đề ra, gia đình ông Toán sử dụng một mảnh đất ở 290 m
2
từ năm 1972.
Diện tích đất này, gia đình ông Toán đã đóng thuế sử dụng đất cho nhà nước từ
quý 4 năm 1992 đến năm 2001. Tháng 8 năm 2003, gia đình ông Toán bị chính
quyền địa phương ra quyết định thu hồi diện tích đất này.
+ Gia đình ông Toán sử dụng mảnh đất ở 290m
2
từ năm 1972 và diện tích
đất này gia đình ông đã đóng thuế sử dụng đất cho Nhà nước từ quý 4 năm 1992
đến năm 2001, gia đình ông đã chấp hành nghiêm túc việc đóng thuế sử dụng
đất cho Nhà nước từ quý 4/1992 phù hợp với khoảng thời gian bắt đầu có hiệu
lực 1/10/1992 của Pháp lệnh thuế nhà đất năm 1992.
2
Đồng thời tại điểm a và điểm e khoản 2 Điều 3 Nghị định số 84/2007/NĐ-
CP ngày 25/5/2007 quy định “Việc xác định thời điểm bắt đầu sử dụng đất ổn
định được căn cứ vào ngày tháng năm sử dụng và mục đích sử dụng đất ghi trên
một trong các giấy tờ sau:
a. Biên lai nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế nhà đất
e. Giấy tờ về đăng ký hộ khẩu thường trú, tạm trú dài hạn tại nhà ở gắn với
đất ở.”
Gia đình ông Toán đã ở trên mảnh đất này từ năm 1972 đến nay, chắc chắn
đã phải đăng kí hộ khẩu thường trú hoặc tạm trú dài hạn tại nhà ở gắn với đất ở.
Vậy ông phải có giấy tờ quy định ở điểm e. Hơn nữa, qua những lần nộp thuế
sử dụng đất ông Toán sẽ được phát biên lai nộp thuế nhà đất.
Như vậy, hai loại giấy tờ trên được coi là giấy tờ hợp lệ, và là căn cứ xem
xét cho ông Toán được cấp GCNQSDĐ.

+ Khoản 4 Điều 50 Luật đất đai 2003 quy định: “Hộ gia đình, cá nhân sử
dụng đất ổn định từ trước ngày 15/10/1993, nay được UBND xã, phường, thị trấn
xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã
được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và
không phải nộp tiền sử dụng đất.”
Từ tất cả những lý do trên ta có thể khẳng định việc làm của chính quyền địa
phương là hoàn toàn trái với quy định của pháp luật.
2, Nếu cán bộ xã có hành vi cố tình sai phạm thì Nhà nước có biện pháp
xử lý cụ thể ra sao để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật?
• Sai phạm thứ nhất là vi phạm quy định về thu hồi đất: Khoản 1, Điều 172
Nghị định 181/2004/NĐ- CP ngày 29/10/2004 qui định:
“a) Không thông báo trước cho người có đất bị thu hồi theo quy định tại
Điều 39 của Luật Đất đai; không công khai phương án bồi thường, tái định cư;
b) Thực hiện bồi thường không đúng đối tượng, diện tích, mức bồi thường
cho người có đất bị thu hồi; làm sai lệch hồ sơ thu hồi đất; xác định sai vị trí và
diện tích đất bị thu hồi trên thực địa;
c) Thu hồi đất không đúng thẩm quyền; không đúng đối tượng; không đúng
với quy hoạch sử dụng đất chi tiết, kế hoạch sử dụng đất chi tiết đã được xét
duyệt.”
3
Thì theo khoản 2 Điều này, hình thức xử lý kỷ luật được quy định như sau:
“a) Có hành vi quy định tại điểm a khoản 1 Điều này do thiếu trách nhiệm thì
bị khiển trách, tái phạm do thiếu trách nhiệm thì bị cảnh cáo, cố ý thì bị hạ bậc
lương; tái phạm do cố ý thì bị hạ ngạch;
b) Có hành vi quy định tại điểm b khoản 1 Điều này do thiếu trách nhiệm thì
bị khiển trách hoặc cảnh cáo, tái phạm do thiếu trách nhiệm thì bị cảnh cáo hoặc
hạ bậc lương; cố ý thì bị hạ ngạch hoặc cách chức, tái phạm do cố ý thì bị cách
chức hoặc buộc thôi việc;
c) Có hành vi quy định tại điểm c khoản 1 Điều này do thiếu trách nhiệm thì

bị cảnh cáo hoặc hạ bậc lương; tái phạm do thiếu trách nhiệm thì bị cảnh cáo
hoặc hạ ngạch; cố ý thì bị hạ ngạch hoặc cách chức; tái phạm do cố ý thì bị buộc
thôi việc”.
• Sai phạm thứ hai là vi phạm quy định về quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất khi không công bố hoặc công bố chậm sử dụng đất, kế hoạch sử đụng đất chi
tiết thì theo điểm a, khoản 2, Điều 170 của NĐ 181/2004/NĐ-CP ngày
29/10/2004 cũng sẽ bị khiển trách; tái phạm do thiếu trách nhiệm thì bị cảnh
cáo; cố ý thì bị hạ bậc lương; tái phạm do cố ý thì bị hạ ngạch hoặc cách chức.
• Sai phạm thứ ba là người quản lí vi phạm pháp luật về đất đai: Căn cứ điều
141 Luật đất đai 2003 và khoản 2 Điều 2 NĐ 105/2009/NĐ-CP ngày 11/1/2009
qui định: “Cán bộ, công chức trong khi thi hành công vụ có hành vi vi phạm pháp
luật về đất đai sẽ bị xử lý kỷ luật theo quy định của pháp luật về cán bộ, công
chức và Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính
phủ về thi hành Luật đất đai; trường hợp hành vi có dấu hiệu cấu thành tội phạm
sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật”.
Khoản 1, Điều 144 Luật đất đai năm 2003 cũng quy định cụ thể về xử lý
trách nhiệm của thủ trưởng, công chức, viên chức, thuộc cơ quan quản lý đất đai
các cấp, cán bộ địa chính xã, phường, thị trấn, trong việc vi phạm trình tự thực
hiện các thủ tục hành chính: “1, Tổ chức, cá nhân khi phát hiện công chức, viên
chức... thì gửi kiến nghị đến Chủ tịch UBND cùng cấp.”
4
3, Tư vấn cho ông Toán để ông có thể tự bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
mình trước pháp luật.
•Thứ nhất: ông Toán cần phải chứng minh mảnh đất ông đang sử dụng là
hoàn toàn hợp pháp. Gia đình ông cần làm hồ sơ gửi lên UBND cấp huyện để
xin được cấp GCNQSDĐ theo trình tự và thủ tục qui định tại Điều 136 NĐ
181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 và Điều 123 Luật đất đai 2003.
•Thứ hai: Việc chính quyền địa phương ra quyết định thu hồi đối với mảnh
đất ông Toán là sai vì vậy theo Khoản 2 Điều 17 Luật Khiếu nại tố cáo 1998 đã
sửa đổi, bổ sung) và khoản 1 điều 138 luật đất đai 2003 quy định: “Người sử

dụng đất có quyền khiếu nại quyết định hành chính hoặc hành vi vi phạm hành
chính về quản lý đất đai”, chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung trình
bày và việc cung cấp các thông tin, tài liệu đó; mặt khác theo điểm a khoản 1
Điều 162 NĐ 181/2004/NĐ-CP thì quyết định thu hồi đất thuộc loại quyết định
hành chính, nên ông Toán có quyền khiếu nại đối với quyết định thu hồi đất của
chính quyền địa phương.
Ông Toán phải thực hiện việc khiếu nại trong thời hạn là 30 ngày kể từ ngày
nhận được quyết định thu hồi đất (điểm 3 khoản 2 Điều 138 Luật Đất đai 2003).
Do đối tượng của việc khiếu nại của ông Toán là quyết định thu hồi đất của
chính quyền địa phương nên ông Toán sẽ làm hồ sơ khiếu nại (1 bộ) và gửi trực
tiếp lên bộ phận tiếp dân của UBND xã. Hồ sơ gồm các loại giấy tờ như sau:
Đơn khiếu nại; Bản sao quyết định thu hồi đất của UBND xã; Các loại tài liệu
mà ông Toán cho rằng đó là căn cứ đê ông được quyền sử dụng mảnh đất này do
đó sẽ được đền bù khi có quyết định thu hồi đất; Bản sao hộ khẩu, chứng minh
nhân dân của ông Toán (có công chứng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền);
Bản kê khai các loại tài liệu nộp kèm theo đơn khiếu nại (ghi rõ bản chính, bản
sao). Yêu cầu UBND bồi thường thiệt hại(nếu có). Nộp lệ phí (nếu có). Sau đó
chuyển đơn thư – hồ sơ tố cáo cho Tổ tiếp nhận và trả lại kết quả hồ sơ (tổ tiếp
nhận) tại Phòng Thanh tra tiếp nhận
Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại, Chủ tịch
UBND huyện thụ lý và giải quyết theo quy định của Luật khiếu nại tố
cáo. Quyết định giải quyết của Chủ tịch UBND huyện phải được công bố công
khai và gửi cho ông Toán người khác có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (khoản
2 Điều 162 Nghị định181/2004/NĐ-CP).
Trường hợp ông Toán vẫn không đồng ý với quyết định giải quyết của chủ
tịch UBND huyện, thì trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày nhận được quyết định
giải quyết khiếu nại lần đầu, ông Toán có quyền khởi kiện tại TAND hoặc tiếp
tục khiếu nại đến Chủ tịch UBND tỉnh (khoản 2 Điều 138 Luật Đất đai 2003).
5

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×