NHTM VÀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG TIỀN GỬI TIẾT KIỆM
1.1 NHTM
1.1.1 Khái niệm về NHTM
Theo luật các TCTD 1998: NH là TCTD được thực hiện toàn bộ các hoạt động NH và
các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại
hình NH bao gồm: NHTM, NHĐT, NH phát triển, NH chính sách, NH hợp tác và các loại
NH khác.
Trong các NHTG, NHTM là loại hình kinh doanh điển hình. Hệ thống các NHTM
chiếm vị trí quan trọng nhất về quy mơ tài sản và về thành phần các nghiệp vụ. Hoạt động
của NHTM bao gồm 3 lĩnh vực: nghiệp vụ nợ (huy động vốn), nghiệp vụ có (cho vay kinh
doanh) và nghiệp vụ mơi giới trung gian (dịch vụ thanh tốn, đại lí, tư vấn, thơng tin, giữ
hộ chứng từ có giá…). Ba loại nghiệp vụ đó có quan hệ mật thiết, tác động hỗ trợ, thúc đẩy
nhau phát triển, tạo nên uy tín cho NH.
1.1.2 Các hoạt động cơ bản của NHTM
1.1.2.1 Hoạt động huy động vốn
Đây là nghiệp vụ tạo vốn, tạo cho NH có khả năng hoạt động và cạnh tranh trên thị
trường được. Các nghiệp vụ huy động vốn của NH bao gồm:
- Nghiệp vụ hoạt động tiền gửi: là nghiệp vụ quan trọng nhất trong nghiệp vụ huy
động vốn của NH và cũng là đối tượng chủ yếu trong hoạt động quản lý tài sản nợ của NH
bao gồm tiền gửi của các tổ chức cá nhân và tiền gửi dân cư.
- Nghiệp vụ huy động vốn dưới hình thức phát hành các phiếu vay nợ: mục đích
nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cấp thiết như việc phát hành trái phiếu, các chứng chỉ tiền gửi
có thời hạn khác nhau.
- Vay trên thị trường liên ngân hàng là nhân tố quyết định việc tạo lập mới vốn khả
dụng cho NH, tạo điều kiện cho NH tăng khả năng sinh lời.
1.1.2.2 Hoạt động sử dụng vốn
Những nghiệp vụ sử dụng vốn hình thành nên tài sản của NH mà khi lên bảng cân
đối kế tốn nó nằm bên phía tài sản Có. Như vậy, tài sản chủ yếu của NH là các tài sản tài
chính hay cịn gọi là các hình thức trái quyền (như cổ phiếu, trái phiếu và các khoản cho
vay), thay vì tài sản thực như nhà cửa, cơng cụ và nguyên vật liệu.
Huy động vốn được rồi, NHTM phải làm thể nào để hiệu quả hoá những nguồn tài
sản này. Hầu như tất cả các khoản mục bên tài sản nợ của ngân hàng đều là vốn vay, nghĩa
là NH phải trả lãi suất cho nó đến từng giờ. Do đó để khỏi bị thiệt hại, NH ln ln phải
cho vay hoặc đầu tư ngay số tài sản ấy vào những dịch vụ sinh lãi. Từ lãi thu được, NH sẽ
dùng nó để trả lãi suất cho vốn đã vay, thanh tốn các chi phí trong hoạt động, phần cịn lại
sẽ là lợi nhuận của NH. Nói cách khác, nghiệp vụ có của NH là những nghiệp vụ thực hiện
sử dụng những khoản vốn đã huy động (tập trung ở nghiệp vụ nợ) nhằm mục đích sinh lợi.
1.1.2.3 Các hoạt động khác
Các hoạt động này không thể hiện trên bảng cân đối tài sản. Các hoạt động này ít rủi
ro hay khơng có rủi ro nhưng mang lại cho NH thu nhập cao và tạo điều kiện cho hoạt
động nhận tiền ký thác và cho vay của N
1.2 Vốn và hoạt động huy động vốn của NHTM
1.2.1 Khái niệm về nguồn vốn huy động của NHTM
Nguồn vốn huy động là những khoản tiền và tài sản của các chủ sở hữu khác nhau
trong xã hội mà NH được phép thu hút và sử dụng với trách nhiệm hoàn trả đầy đủ và đúng
hạn cả gốc và lãi. Nguồn vốn huy động là nguồn tài nguyên to lớn nhất và bao gồm tiền
gửi khơng kì hạn của đơn vị, cá nhân; tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn; tiền gửi tiết kiệm có
kỳ hạn; tiền phát hành kỳ phiếu và trái phiếu; các khoản tiền gửi khác.
1.2.2 Cơ cấu nguồn vốn huy động của NHTM
1.2.2.1 Tiền gửi (ký thác)
Muốn làm NH cần có vốn riêng. Tuy nhiên số vốn riêng chỉ là một tỉ lệ nhỏ so với số
tiền mà NH cho vay. Số vốn riêng của NH thường chỉ để mua sắm, trang bị trụ sở NH.
Trong thực tế, số tiền mà NH cho vay có nguồn gốc từ tiền gửi của KH. Do đó huy động
vốn là hoạt động chủ yếu và thường xuyên của NHTM, là mối quan tâm của các NH.
Ký thác (hay còn gọi là tiền gửi) là tiền mà NH nhận được của KH bất luận dưới danh
từ nào, dù phải trả lãi hay không trả lãi, với quyền sử dụng tiền đó cho hoạt động kinh
doanh của NH với cam kết thực hiện việc hoàn trả vào thời điểm mà người gửi yêu cầu
(đối với các loại ký thác không kỳ hạn hoặc vào ngày đáo hạn đối với loại ký thác có kỳ
hạn. Các khái niệm về ký thác theo qui định pháp lý nêu trên có mối liên quan mật thiết với
tài khoản của KH tại NH). Ngày nay người gửi có nhiều hình thức ký thác và có thể làm
cho tài sản bằng tiền sản sinh ra lãi theo các dự đốn của mình.
Xã hội ngày nay phát triển rất nhanh, các nguồn ký thác ngày càng phong phú, phức
tạp. Vì thế, khơng thể phân định một cách chính xác từng nhóm ký thác riêng biệt. Song
về mặt kỹ thuật NH, các khoản tiền ký thác có thể phân loại theo các tiêu chuẩn sau đây:
- Tiền gửi không kỳ hạn
Là các loại ký thác khơng hồn tồn theo quy tắc khả dụng, nghĩa là người gửi có
quyền rút tiền vào bất cứ lúc nào họ muốn. NH sẽ sắp xếp loại tiền gửi này vào nhóm tiền
gửi khơng kỳ hạn, nghĩa là các khoản gửi với thời gian không xác định. Người vừa mới gửi
tiền sáng nay nếu cần anh ta có thể rút ra ngay vào buổi chiều cùng ngày. Nếu khơng có
nhu cầu sử dụng anh ta mươi bữa, nửa tháng hoặc một năm sau mới rút ra. Tính bất định
về thời gian gửi, cùng với địa điểm có thể rút ra bất cứ lúc nào cần đã làm cho loại tiền gửi
này cịn có tên gọi theo tiếng Anh là tiền gửi theo yêu cầu (demand deposits). Tiền gửi
không kỳ hạn vào mỗi thời điểm trong các tài khoản không kỳ hạn của các NHTM tạo khả
năng có thể viết sec để chi tiền hoặc chuyển nhượng khi cần. Vì vậy, tiền gửi khơng kỳ hạn
cịn được gọi với tên khác là tiền trong tài khoản sec (checking accounts). Đối với loại ký
thác này KH không có ý định để dành và cũng khơng chú trọng đến tiền lãi. KH chỉ muốn
đổi hình thức tiền tệ này bằng một hình thức tiền tệ và thích thanh tốn bằng các phương
thức khơng dùng tiền mặt hơn là bằng tiền mặt.
Ở Việt Nam, tiền gửi không kỳ hạn được hiểu là loại tiền gửi mà KH có thể rút ra bất
cứ lúc nào và NH phải thực hiện theo yêu cầu này. Tiền gửi không kỳ hạn bao gồm:
+ Tiền gửi thanh toán.
Là loại tiền gửi được ký thác vào NH để thực hiện các khoản chi trả trong hoạt động
sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Đây là một bộ phận tiền đang chờ thanh toán mà không
phải là tiền để dành, do vậy KH gửi tiền khơng mất quyền sử dụng số tiền này. Họ có thể
rút ra, chuyển nhượng hoặc chi trả trong thanh toán bất kỳ lúc nào theo yêu cầu.
+ Tiền gửi không kỳ hạn (thuần tuý).
Đây là loại tiền gửi thể hiện khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của KH, họ gửi tiền vào NH
không mang tính chất để thanh tốn mà nhằm mục đích an toàn tài sản, khi cần KH đến
NH rút tiền để chi tiêu.
- Tiền gửi có kỳ hạn
Là loại tiền gửi được uỷ thác vào NH mà có sự thoả thuận về thời gian rút tiền giữa
KH và NH. Như vậy về nguyên tắc KH gửi tiền chỉ được rút tiền ra, khi đến hạn đã thoả
thuận.
Nó có dạng như một khoản tiền vay của NH nhưng không thể hiện bằng một phiếu
khốn. Nó là một ngoại lệ của quy tắc khả dụng, bởi vì NH chỉ phải hồn lại số tiền ký thác
vào ngày đáo hạn ghi trên hợp đồng.
Hiện nay các NHTM Việt Nam đang áp dụng hai loại tiền gửi định kỳ:
+ Tiền gửi định kỳ theo tài khoản.
+ Tiền gửi định kỳ dưới hình thức phát hành kỳ phiếu ngân hàng.
1.2.2.2 Phát hành chứng từ
Đặc điểm của nguồn vốn này là lãi suất rất cao nhưng tính chất ổn định cũng khá cao,
khơng được rút trước hạn với bất kỳ lý do nào, muốn rút vốn chỉ có thể bán lại nó trên thị
trường thơng qua nghiệp vụ chiết khấu mà thôi. Do vậy, nguồn vốn này chủ yếu là dùng
vào đầu tư trung và dài hạn.
Nên khai thác tốt nguồn này thì trước khi thu hút phải tính được hiệu quả có nghĩa là
phát hành thì phải được để làm gì, cho vay ở đâu, lãi suất thế nào, có đảm bảo hịa vốn và
có lãi khơng, phải hạch tốn đầy đủ trước khi phát hành như kỳ hạn huy động, điều kiện
phát hành, lãi suất, mối quan hệ loại tiền gửi này và tiền gửi tiết kiệm, khả năng chuyển
nhượng.
Các loại trái phiếu NH
-
Tính chất định danh: vơ danh, dễ chuyển nhượng nhưng khó quản lý, ký danh:
ngược lại
-
Tính chất đảm bảo: trái phiếu có đảm bảo hoặc trái phiếu khơng có đảm bảo
-
Theo đồng tiền ghi trên trái phiếu: trái phiếu NH bằng VNĐ, trái phiếu NH bằng
ngoại tệ: USD…
-
Theo việc bảo toàn giá trị của đồng vốn
-
Theo lãi suất
-
Theo phương thức trả lãi: trái phiếu trả lãi trước, trả lãi sau
1.2.2.3 Đi vay
* Vay của NHTW
Lẽ sống của NHTM là nhận ký thác và cho vay. NHTM phải cho vay tới mức mà
NHTW cho phép để tối đa hố lợi nhuận. Nhưng khơng phải lúc nào hoạt động của NH
cũng thuận lợi. Dù thận trọng cách mấy trong việc cho vay, NHTM cũng khó tránh khỏi có
lúc thiếu khả năng chi trả hoặc kẹt quá tiền mặt.
NHTW là NH của các NH, là cứu tinh của các NH trong những trường hợp vừa kể
trên, là nguồn cho vay sau cùng (Lend of last resort). Thông thường, tất cả các NHTG và
các tổ chức tài chính khác được NHTW cho phép thành lập đều được hưởng quyền vay
tiền tại NHTW trong những tình huống thiếu hụt dự trữ hoặc quá kẹt vốn. Cho dù NHTW
áp dụng mức lãi suất chiết khấu hoặc lãi suất phạt cao hay thấp thế nào đi nữa, nó vẫn phải
cho các NHTG vay khi họ kẹt thanh khoản để tránh những khủng hoảng tài chính khơng
đáng xảy ra.
Dù vay ít hay nhiều, vay thường xuyên hay chỉ thỉnh thoảng một năm đôi ba lần, dịch
vụ vay từ NHTW vẫn là một khoản mục hiển nhiên trong tài sản Nợ, vì khơng có NHTG
nào mà chưa hề vay của NHTW bao giờ kể từ khi thành lập. Thời gian vay ngắn hay dài,
hiệu quả của tiền vay cao hay thấp là phụ thuộc vào lãi suất chiết khấu của NHTW và mức
tiền vay của các NHTG.
Như vậy NHTW luôn luôn là chủ nợ của hệ thống NH. Nhưng đây cũng là vấn đề dễ
bị nhầm lẫn. Vị trí chủ nợ này là cần thiết để NHTW có thể điều tiết việc mở rộng khối
lượng tiền tệ và giám sát hệ thống NHTG. Chính vì vậy các NHTM khơng bao giờ được
phép gửi tiền có lãi tại NHTW, vì điều đó sẽ chơn vùi vị trí chủ nợ của NHTW. Nếu các
NH gửi tiền tại NHTW thì đó chỉ thuần t là việc dự trữ khơng có lãi. Nếu NHTW là
người nợ trực tiếp của hệ thống NHTM thì khi đó nó khơng cịn có khả năng tác động trực
tiếp vào sự gia tăng khối lượng tiền tệ bằng chính sách tiền tệ của mình, vì bất cứ lúc nào
các NHTM cũng có thể rút tiền của họ. Mối quan hệ hữu cơ giữa thị trường tiền tệ và thị
trường tín dụng bị phá vỡ và NHTW bị mất đi khả năng điều tiết của mình.
NHTW cấp tín dụng cho NHTG qua hai hình thức chính:
- Tái chiết khấu (hoặc chiết khấu) hay còn gọi là tái cấp vốn.
- Thế chấp (prisen en pesion) hay ứng trước (advances) có bảo đảm hay khơng bảo
đảm.
Ở Việt Nam hiện nay, có các loại cho vay của NHNN đối với NHTM như sau:
- Cho vay bổ sung nguồn vốn tín dụng ngắn hạn: là hình thức tài trợ vốn theo kế
hoạch, chỉ phân phối cho các NHTM quốc doanh.
- Chiết khấu và tái chiết khấu trái phiếu kho bạc, khế ước mà các NH đã cho các KH
vay chưa đáo hạn và các thương phiếu.
- Cho vay bổ sung vốn thanh toán bù trừ của các tổ chức tín dụng.
* Vay từ các NHTM và các tổ chức tín dụng khác.
Ngồi các loại vay đã nêu trên, các NHTM để đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh
còn vay vốn ở các NH khác, giữa các NHTM và các tổ chức tín dụng có thể cho vay lẫn
nhau theo nguyên tắc:
+ Các ngân hàng phải hoạt động hợp pháp.
+ Thực hiện việc cho vay và đi vay theo hợp đồng tín dụng.
+ Vốn vay có thể được bảo đảm bằng thế chấp, cầm cố hay xin bảo lãnh của NHTW.
1.2.3 Sự cần thiết phải tăng cường huy động vốn đối với hoạt động
kinh doanh của NHTM
Việc huy động vốn của NHTM có một ý nghĩa rất lớn đối với các cá nhân, dân cư, tổ
chức kinh tế, đối với nền kinh tế, đối với bản thân ngân hàng
* Đối với các cá nhân dân cư và tổ chức kinh tế:
Đáp ứng được nhu cầu bảo quản an tồn tài sản, tích luỹ những món tiền nhỏ lẻ thành
một món tiền lớn thoả mãn một số nhu cầu sản xuất kinh doanh, ngoài ra việc gửi tiền vào
ngân hàng sẽ được hưởng một khoản lợi tức.
* Đối với nền kinh tế:
Việc huy động vốn sẽ tích tụ, tập trung vốn từ nhiều nguồn nhỏ lẻ, nhàn rỗi từ dân cư,
tổ chức kinh tế đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy quá trình luân
chuyển vốn nhanh chóng.
* Đối với bản thân NHTM và hệ thống ngân hàng
Nguồn vốn huy động là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của
NHTM, nguồn vốn huy động này chủ yếu được sử dụng để cho vay mà hoạt động cho vay
đem lại lợi nhuận lớn nhất cho NH, điều đó chứng tỏ nguồn vốn huy động có một ý nghĩa
đặc biệt quan trọng đối với từng NHTM, đồng thời nếu quy mô của nguồn vốn huy động
của NHTM lớn sẽ tạo điều kiện để mở rộng hoạt động kinh doanh của NH, tăng khả năng
cạnh tranh cho NH. Ngoài ra việc huy động vốn sẽ kiểm sốt được khối lượng tiền gửi vào
NH góp phần ổn định tiền tệ.
Vì vây, tăng cường huy động vốn có một ý nghĩa quan trọng trong sự phát triển của
các NH hiện nay.
1.3 Huy động tiền gửi tiết kiệm của NHTM
1.3.1 Khái niệm và ý nghĩa tiền gửi, tiết kiệm
NHTM là trung gian tín dụng nhưng khơng đơn thuần là trung gian giữa người gửi
tiền và người vay tiền; nghĩa là dùng tiền của người gửi chuyển sang người vay mà hoạt
động của nó cịn phức tạp hơn thế nhiều.
Tiền gửi chính là tồn bộ khoản tiền mà KH gửi vào trong NH để hưởng lãi hay sử
dụng các dịch vụ tiện ích của NH.
Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền của cá nhân được gửi vào tài khoản tiền gửi tiết kiệm,
được xác nhận trên thẻ tiết kiệm, được hưởng lãi theo quy định của tổ chức nhận tiền gửi
tiết kiệm và được bảo hiểm theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi.
Nếu căn cứ vào mục đích của người gửi chia thành:
+ An tồn, tích lũy
+ Hưởng lãi
Nếu căn cứ vào thời hạn chia thành:
+ Tiền gửi khơng kỳ hạn
+ Tiền gửi có kỳ hạn
1.3.2 Phân loại tiền gửi tiết kiệm
1.3.2.1 Tiền gửi tiết kiệm khơng kỳ hạn
Mục đích của loại tiền gửi này là nhằm nhờ NH cất trữ, bảo quản hộ tài sản, tích lũy
tài sản nên KH thường phải trả lệ phí cho NH, nhưng do cạnh tranh và các NH sử dụng
nguồn vốn này để hoạt động nên KH không phải trả phí mà NH trả lãi cho KH với lãi suất
khuyến khích (thấp).
Do vậy, loại nguồn này chỉ được sử dụng một phần, phần lớn còn lại được sử dụng để
đảm bảo thanh toán cho khách hàng
1.3.2.2 Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn
Tiết kiệm có kỳ hạn là hình thức tiết kiệm với mục đích chủ yếu là hưởng lãi căn cứ
vào thời hạn chọn khi gửi tiền. Với tiết kiệm có kỳ hạn, KH gửi tiền một lần và rút vốn gửi
ban đầu, tiền lãi trả vào đúng thời điểm đáo hạn của sổ tiết kiệm.
Mục đích của tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là KH muốn đầu tư để hưởng lãi chứ không
phải để cất trữ hay thanh tốn. Chính vì vậy lãi suất của nguồn này tương đối cao, nhưng
lại khá ổn định. Các hình thức thường thấy là phiếu tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi tiết kiệm,
tiết kiệm nhà ở…
1.3.2.3 Tiền gửi tiết kiệm khác
Đối với cá nhân: tiền gửi trên tài khoản thanh tốn của cá nhân nhằm mục đích thuận
tiện trong chi trả thanh toán như séc cá nhân, thẻ thanh toán, rút tiền mặt, đổi ngân phiếu…
Đặc điểm của loại tiền gửi này là KH thường là những người có thu nhập cao.
Đối với tổ chức: tiền gửi thanh toán nhằm mục đích phục vụ các giao dịch thanh tốn
của tổ chức, doanh nghiệp và nhằm đảm bảo an toàn cho tài sản.
1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn và hoạt động
huy động tiền gửi tiết kiệm
1.4.1 Nhân tố mơi trường
Tình hình lạm phát ở mức vừa phải tình hình kinh tế tăng trưởng ổn định, chính trị
xã hội khơng có sự biến động là điều kiện để sản xuất kinh doanh phát triển tại thuận lợi
cho hoạt động huy động vốn của ngân hàng.
Ngược lại nếu lạm phát cao, kinh tế suy thoái, chính trị xã hội có sự biến động chắc
sẽ gây khó khăn cho việc thu hút vốn của ngân hàng.
1.4.2 Nhóm nhân tố thuộc chính sách Nhà nước
- Chính sách về thu nhập: chính phủ cần có một chính sách thu nhập hợp lý như về
chính sách tiền lương, chính sách trợ cấp,... sẽ tạo thu nhập ổn định cho người lao động thì
người dân sẽ có phần tiết kiệm gửi vào ngân hàng.
- Chính sách về lãi suất: nếu NHTW đưa ra một mức lãi suất cùng với biên độ biến
động phù hợp với tình hình kinh tế thì các NHTM trên cơ sở đó sẽ đưa ra mức lãi suất linh
hoạt hấp dẫn thu hút nhiều khách hàng hơn.
- Chính sách tiết kiệm: Khuyến khích các đơn vị kinh tế và các dân cư thực hiện tiết
kiệm tránh lãng phí để dùng vốn nhàn rỗi đầu tư phát triển kinh tế.
- Chính sách thuế Chính sách thuế ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập và tiết kiệm của
dân cư, tổ chức kinh tế vì vậy ảnh hưởng đến việc gửi tiền và NH của các đối tượng này.
- Chính sách đầu tư: Chính phủ cần có chính sách khuyến khích đầu tư, mở rộng sản
xuất kinh doanh tạo điều kiện để kinh tế phát triển, tạo điều kiện cho hoạt động thu hút vốn
của các ngân hàng cho đầu tư phát triển kinh tế.
1.4.3 Nhóm nhân tố thuộc khách hàng
Tâm lý của KH là một nhân tố ảnh hưởng lớn đến việc gửi tiền của KH vào NH vì
nếu KH tin tưởng vào NH an tâm hơn để ở nhà. Nếu KH không tin vào NH, hoặc họ sợ
lạm phát, chiến tranh xảy ra thì thì điều này chắc chắn họ sẽ không gửi tiền vào ngân hàng.
Thu nhập của dân cư cũng ảnh hưởng rất lớn đến nhu cầu gửi tiền vì khi thu nhập của
người dân đã đủ chi tiêu hằng ngày, phần còn lại để dành. Do vậy nếu thu nhập của dân cư
cao thì nhu cầu gửi tiết kiệm sẽ cao hơn nếu NH có những chính sách huy động hấp dẫn.
Thói quen gửi tiền ở nhà của người dân như thích sử dụng tiền mặt hoặc để tiền ở
nhà khi cần là sử dụng hoặc họ ngại đi đến NH để gửi những món tiền nhỏ lẻ vào NH, điều
này sẽ tồn tại một lượng tiền mặt ở ngồi hệ thống ngân hàng.
Thói quen tiết kiệm, tiêu dùng cũng ảnh hưởng lớn đến việc gửi tiền vào NH. Vì nếu
có thu nhập bao nhiêu tiêu dùng hết bấy nhiêu thì khơng có tiền để gửi tiết kiệm.
1.4.4 Nhóm nhân tố thuộc ngân hàng
Nhóm nhân tố này được NH rất quan tâm vì đây là nhân tố thuộc bản thân NH. Có
nhiều nhân tố thuộc bản thân NH mà nó tạo thuận lợi hoặc khó khăn đến hoạt động huy
động vốn của NH. Bao gồm các nhân tố như: địa điểm trụ sở của NH, cơ sở vật chất kỹ
thuật, đặc điểm về nguồn nhân lực, chính sách về tỷ giá, lãi suất và giá phí, chính sách cho
vay, chính sách huy động, chính sách giao tiếp các tiện ích mà NH cung cấp cho KH, số
lượng và chất lượng dịch vụ. Bên cạnh đó, tổ chức nguồn thơng tin cũng được KH rất quan
tâm vì qua nguồn thơng tin sẽ giúp cho KH biết được những vấn đề liên quan đến chính
sách huy động vốn, hoạt động của NH, tình hình kinh tế từ đó người dân an tâm tin tưởng
vào NH hơn.
1.5 Một số quy định về huy động tiền gửi tiết kiệm
1.5.1 Các thể thức tiết kiệm
1.5.2 Đối tượng phạm vi áp dụng
a) Đối tượng
Đối tượng gửi tiền gửi tiết kiệm bằng đồng Việt Nam là các cá nhân Việt Nam và cá
nhân nước ngoài đang sinh sống và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam.
Đối tượng gửi tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ là các cá nhân người cư trú.
b) Phạm vi áp dụng
NHTM, NHPT, NH Đầu tư, NH chính sách, NH hợp tác, quỹ tín dụng nhân dân được
nhận tiền gửi tiết kiệm của mọi cá nhân theo các loại kỳ hạn khác nhau.
Tổ chức tín dụng phi NH được nhận tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn từ một năm trở lên
của mọi cá nhân.
Đối với chi nhánh NH nước ngoài, NH liên doanh, tổ chức tín dụng 100% vốn nước
ngồi, phạm vi nhận tiền gửi tiết kiệm được thực hiện theo quy định hiện hành của Thống
đốc NHNN về đối tượng gửi tiền, kỳ hạn và mức huy động tối đa.
Các tổ chức khác có hoạt động NH được nhận tiền gửi tiết kiệm theo quy định tại
giấy phép hoạt động và các văn bản pháp luật khác có liên quan về TGTK
Việc nhận TGTK bằng ngoại tệ chỉ áp dụng đối với các tổ chức nhận TGTK được
phép hoạt động ngoại hối và phải phù hợp với quy định hiện hành của Chính phủ và Ngân
hàng Nhà nước về quản lý ngoại hối.
1.5.3 Quy chế bảo hiểm tiền gửi
Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có trách nhiệm nộp cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi
các báo cáo theo quy định của tổ chức bảo hiểm tiền gửi.
Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phải báo cáo ngay với tổ chức bảo hiểm tiền gửi
trong những trường hợp sau đây:
a) Gặp khó khăn về khả năng chi trả;
b) Khi thay đổi các thành viên Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát, Tổng Giám đốc
(Giám đốc).
Trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày kết thúc năm tài chính, tổ chức tham gia bảo hiểm
tiền gửi có trách nhiệm gửi cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi các báo cáo tài chính năm.
Khi phát hiện tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi vi phạm các quy định về an toàn
trong hoạt động NH, tổ chức bảo hiểm tiền gửi có quyền yêu cầu tổ chức tham gia bảo
hiểm tiền gửi thực hiện các biện pháp chấn chỉnh, đồng thời báo cáo bằng văn bản với
Ngân hàng Nhà nước.
Trong trường hợp xét thấy hoạt động của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có nguy
cơ dẫn đến mất khả năng chi trả, thất thốt lớn về tài sản hoặc có tác động nghiêm trọng tới
các tổ chức tín dụng khác, thì tổ chức bảo hiểm tiền gửi có quyền yêu cầu tổ chức tham gia
bảo hiểm tiền gửi có biện pháp chấn chỉnh kịp thời, đồng thời báo cáo Ngân hàng Nhà
nước có biện pháp xử lý khẩn cấp.
Tổ chức bảo hiểm tiền gửi có trách nhiệm cung cấp theo định kỳ các thơng tin liên
quan đến tình hình hoạt động của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi cho Ngân hàng
Nhà nước và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan.
Tổ chức bảo hiểm tiền gửi được quyền tiến hành kiểm tra việc chấp hành các qui định
tại Nghị định này của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
Thanh tra NHNN có trách nhiệm cung cấp kết quả thanh tra, giám sát các tổ chức
tham gia bảo hiểm tiền gửi cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi; phối hợp xử lý kịp thời các tổ
chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có nguy cơ mất khả năng chi trả, vi phạm các quy định về
an tồn trong hoạt động NH, có tỷ lệ nợ quá hạn cao.
Trường hợp tổ chức tín dụng bị đặt trong tình trạng kiểm sốt đặc biệt, Ban Kiểm sốt
đặc biệt có trách nhiệm thơng báo định kỳ về tình hình hoạt động của tổ chức đó cho tổ
chức bảo hiểm tiền gửi để phối hợp xử lý.
Trong trường hợp tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có nguy cơ mất khả năng chi trả
nhưng chưa đến mức đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt, tổ chức bảo hiểm tiền gửi có
thể hỗ trợ dưới các hình thức sau:
* Cho vay hỗ trợ để chi trả tiền gửi được bảo hiểm
* Bảo lãnh cho các khoản vay đặc biệt để có nguồn chi trả tiền gửi được bảo hiểm
* Mua lại nợ trong trường hợp khoản nợ đó có tài sản bảo đảm.
Việc hỗ trợ này do HĐQT tổ chức bảo hiểm tiền gửi xem xét quyết định.
Tổ chức bảo hiểm tiền gửi chỉ tiến hành các biện pháp hỗ trợ sau khi xác định rằng
việc tiếp tục hoạt động của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đang gặp khó khăn có
vai trị quan trọng đối với sự bảo đảm an toàn của toàn hệ thống và sự ổn định chính trị,
kinh tế và xã hội.
Khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền có văn
bản chấm dứt hoạt động và tổ chức đó mất khả năng thanh tốn, tổ chức bảo hiểm tiền gửi
có trách nhiệm chi trả tiền gửi được bảo hiểm của người gửi tiền tại tổ chức tham gia bảo
hiểm tiền gửi theo nguyên tắc được qui định tại Điều 4 của Nghị định này.
Số tiền gửi (gồm gốc và lãi) vượt quá mức tối đa được tổ chức bảo hiểm tiền gửi chi
trả sẽ được trả cho người gửi tiền trong quá trình thanh lý tài sản của tổ chức tham gia bảo
hiểm tiền gửi phù hợp với qui định của Luật Phá sản.
Việc chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền được thực hiện thông qua các ngân
hàng, hoặc theo thoả thuận với người gửi tiền.
Việc chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền hoặc người được ủy quyền hợp pháp,
được thực hiện căn cứ vào danh sách những người gửi tiền do tổ chức bảo hiểm tiền gửi
phối hợp với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi lập và căn cứ vào các chứng từ hợp lệ.
Trong trường hợp vốn hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi tạm thời không đủ để
hỗ trợ các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi gặp khó khăn về khả năng chi trả hoặc để chi
trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị phá sản, tổ
chức bảo hiểm tiền gửi phải báo cáo NHNN để NHNN trình Thủ tướng Chính phủ xem xét
cho phép tổ chức bảo hiểm tiền gửi được vay của tổ chức tín dụng hoặc tổ chức khác có
bảo lãnh của Chính phủ.