Th¬ng m¹i quèc tÕ
TS. §µm Quang Vinh
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n
Thương mại quốc tế
Khai thác lợi thế so sánh của từng quốc gia
Mở rộng thị trường
Đa dạng hoá cung cầu
Thúc đẩy chuyên môn hoá quốc tế
Công việc
Cơ hội kinh doanh
Các lý thuyết thương mại quốc tế và ý
nghĩa đối với kinh doanh
Chủ nghĩa trọng thương
Lợi thế tuyệt đối
Lợi thế tương đối
Lý thuyết Hechsher-Ohlin
Lý thuyết vòng đời sản phẩm
Lý thuyết thương mại mới
Chủ nghĩa trọng thương
lý thuyết thương mại quốc tế đầu tiên, xuất hiện vào
giữa thế kỷ 16, tại nước Anh.
vàng và bạc là những tài sản chủ yếu của quốc gia và
là những yếu tố quyết định đến sức mạnh của thương
mại.
Trong thời kỳ này, vàng và bạc được sử dụng trong
thanh toán giữa các quốc gia.
Nguyên lý của chủ nghĩa trọng thương là: duy trì
thặng dư thương mại
tăng cường sự can thiệp của Chính phủ vào hoạt động
thương mại
Mâu thuẫn của CNTT
David Hume vào năm 1752, đã chỉ ra một mâu
thuẫn cố hữu của chủ nghĩa trọng thương:
thặng dư thương mại - cung tiền và lạm phát
Sai lầm của chủ nghĩa trọng thương:
thương mại là một trò chơi thắng-thua (zero-
sum game) >< thắng-thắng( positive-sum
game)
Chủ nghĩa Tân trọng thương
tự do hoá thương mại trong những ngành mà họ
có những lợi thế so sánh nhất, và phản đối tự do
hoá thương mại trong những ngành mà họ có ít
lợi thế
Lợi thế tuyệt đối
một quốc gia có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất
một mặt hàng khi việc sản xuất ra mặt hàng đó
có hiệu quả cao hơn so với bất kỳ quốc gia nào
khác (1776, Của cải của các dân tộc (the Wealth
of Nations)
Lợi thế tương đối
D. Ricardo phát hiện ra rằng thương mại quốc tế vẫn
có thể xảy ra ngay cả khi một quốc gia có lợi thế
tuyệt đối trong việc sản xuất tất cả các mặt hàng
(Principles of Political Economy, 1817)
các quốc gia nên xuất khẩu các loại hàng hoá đem
hiệu quả sản xuất cao nhất
Lý thuyết của Ricardo nhấn mạnh rằng lợi thế tương
đối xuất hiện do có sự khác biệt về năng suất
Lý thuyết Hechsher-Ohlin
Hai nhà kinh tế học người Thuỵ Điển Eli Heckscher
(1919) và Bertil Ohlin (1933) đã đưa ra cách giải
thích khác về lợi thế tương đối:
-
lợi thế tương đối nảy sinh do có sự khác nhau về các
yếu tố sản xuất. Đó chính là các nguồn lực cần thiết
cho quá trình sản xuất: đất đai, lao động và tư bản.
-
Các yếu tố sản xuất càng dồi dào thì chi phí sản xuất
càng thấp
-
một quốc gia sẽ xuất khẩu những mặt hàng mà việc
sản xuất đòi hỏi sử dụng nhiều một cách tương đối
các yếu tố sản xuất dồi dào của quốc gia đó và ngược
lại
Nghịch lý Leontief
lý thuyết Heckscher-Ohlin được chấp nhận về mặt cơ
sở lý thuyết nhưng nó đưa ra những dự báo không
chính xác về mô hình thương mại quốc tế trên thực tế
lý thuyết của Ricardo dự báo về mô hình thương mại
có tính chính xác cao hơn
Mỹ xuất khẩu máy bay thương mại và nhập khẩu ô tô
không phải vì các yếu tố sản xuất trong nước đặc biệt
phù hợp với sản xuất máy bay và không phù hợp với
sản xuất ô tô, nhưng bởi vì Mỹ sản xuất máy bay có
hiệu quả cao hơn sản xuất xuất ô tô
Lý thuyết vòng đời sản phẩm
Vào giữa thập kỷ 60, Raymond Vernon đưa ra lý thuyết vòng
đời sản phẩm. Lý thuyết này dựa trên những quan sát của ông
trong phần lớn thế kỷ 20
Về mặt lịch sử, lý thuyết vòng đời sản phẩm là một lời giải
thích chuẩn xác về các mô hình thương mại quốc tế. Lý thuyết
này đã giải thích rất rõ ràng cho việc dịch chuyển của các
ngành công nghiệp chín muồi từ Mỹ sang các địa điểm sản
xuất mới có chi phí sản xuất thấp hơn
lý thuyết của Vernon là rất hữu ích để giải thích mô hình thư
ơng mại quốc tế vào thời kỳ nền kinh tế toàn cầu do Mỹ thống
trị, nhưng tính thích hợp của lý thuyết này lại rất hạn chế trong
thế giới hiện đại.
Lý thuyết thương mại mới
lợi thế người đi đầu (first-mover advantages),
là những lợi thế về kinh tế và chiến lược kinh
doanh dành cho những người đầu tiên tham gia
vào ngành công nghiệp mới
Theo lý thuyết thương mại mới, các quốc gia có
thể xuất khẩu một số sản phẩm nhất định chỉ
đơn giản là vì họ có một công ty tham gia đầu
tiên vào ngành công nghiệp đó
Lợi thế cạnh tranh quốc gia: Mô hình
"Viên Kim cương" của Porter
Porter đưa ra 4 thuộc tính của môi trường cạnh tranh mà các
doanh nghiệp phải đối mặt. Đó là:
-
Các yếu tố sản xuất: khả năng của quốc gia về các yếu tố sản
xuất như lao động có kỹ năng cao hoặc cơ sở hạ tầng cần thiết
để cạnh tranh trong một ngành công nghiệp nhất định
-
Nhu cầu trong nước: nhu cầu tự nhiên của thị trường trong nư
ớc về sản phẩm hay dịch vụ của ngành công nghiệp đó.
-
Các ngành công nghiệp bổ trợ: quốc gia đó có hay không có
các ngành công nghiệp bổ trợ cho ngành công nghiệp phải
cạnh tranh quốc tế.
-
Về chiến lược, cấu trúc và sự cạnh tranh: các điều kiện thể chế
của quốc gia về việc thành lập, tổ chức hoạt động, quản lý và
cạnh tranh giữa các công ty trong nước.