Các vấn đề pháp luật toàn cầu được đề cập đến trong phần này nhằm hệ
thống hoá cho người đọc những vấn đề pháp luật có ý nghĩa thống nhất được
áp dụng phổ biến ở hầu khắp các quốc gia trên thế giới. Những vấn đề pháp
luật được đề cập đến ở đây có liên quan gần gũi với các lợi ích của hoạt
động kinh doanh quốc tế.
a/ Tiêu chuẩn hoá
Do hệ thống pháp luật khác nhau ở mỗi nước, cho nên các công ty
thường thuê các chuyên gia pháp luật ở những nước mà họ kinh doanh. Điều
này có thể làm tăng chi phí. Nhưng một điều thuận lợi, hệ thống pháp luật
giữa các nước đều có chuẩn mực chung. Tuy nhiên, chuẩn mực đó không
hoàn toàn đồng nhất trong hệ thống pháp luật ở các nước
Mặc dù, hệ thống pháp luật quốc tê không được rõ ràng, nhưng bước
đầu có những điểm chung. Luật quốc tế ảnh hưởng đến nhiều khu vực, bao
gồm quyền sở hữu trí tuệ, luật chống độc quyền, thuế, luật phân xử tranh
chấp hợp đồng và những vấn đề thương mại nói chung. Bên cạnh đó, nhiều
tổ chức quốc tế khuyến khích việc áp dụng các chuẩn mực. Trong số các tổ
chức có Liên Hiệp Quốc, Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), Tổ
chức về sự thống nhất của các luật tư nhân ở Rome đã đưa ra các quy định
cho kinh doanh quốc tế. Để tháo gỡ các rào chắn cho các công ty hoạt động
trên thị trường Tây Âu, Liên hiệp Châu Âu cũng tiêu chuẩn hoá hệ thống
pháp luật của các nước trong hiệp hội.
Bên cạnh những bộ luật có tính chất chuẩn hoá, nhiều vấn đề pháp lý
khác cũng quan trọng cho cả các công ty quốc tế và những chính phủ trong
giám sát kinh doanh.
b/ Quyền sở hữu trí tuệ
Tài sản là kết quả do hoạt động trí tuệ của con người và những nguồn
lực đó gọi là tài sản trí tuệ. Nó bao gồm: tiểu thuyết, phần mềm máy tính,
các bản thiết kế về máy móc và các bí quyết như công thức làm nước giải
khát của hãng Coca Cola. Xét về mặt kỹ thuật, nó là kết quả của sản phẩm
công nghiệp (hoặc là phát minh sáng chế hoặc nhãn hiệu đăng ký) hoặc bản
quyền và vấn đề hạn chế độc quyền.
Nhiều đạo luật bảo về quyền tài sản – nó chứng nhận về nguồn gốc và
bất kỳ thu nhập nào được tạo ra. Giống như các tài sản khác, trí tuệ cũng
được mua bán, cấp giấy phép nhằm thu được phí và các quyền lợi khác. Luật
quyền tài sản được hình thành để bảo vệ và bồi thường trong trường hợp bị
xâm phạm.
Hiện nay, các công ty Mỹ và Châu Âu vận động chính phủ gây áp lực
các nước khác thực thi mạnh mẽ các đạo luật bảo vệ tài sản. Cho đến nay, lỗ
lực của họ được đền đáp. Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã áp dụng
luật bảo vệ trí tuệ.
Quyền sở hữu trí tuệ có thể được chia thành quyền sở hữu công
nghiệp và bản quyền tác giả.
Quyền sở hữu công nghiệp bao gồm bằng sáng chế và nhãn hiệu
đăng ký – thường là tài sản có giá trị nhất của công ty. Luật bảo vệ quyền sở
hữu công nghiệp để thưởng cho những hoạt động sáng tạo và những phát
minh. Mục đích của Đạo luật bằng sáng chế Liên bang Mỹ là khuyến khích
việc mọi người phát minh sáng chế và áp dụng vào cuộc sống. Tương tự,
luật nhãn hiệu đăng ký khuyến khích các nhà sản xuất đầu tư vào những sản
phẩm mới và đảm bảo với người tiêu dùng rằng họ nhận được những sản
phẩm giống nhau từ cùng một nhà sản xuất.
Bằng phát minh sáng chế: bằng phát minh sáng chế là giấy cấp cho
người phát minh hoặc là quá trình ngăn chặn những người khác làm, sử dụng
và bán những phát minh đã được đăng ký này. Bằng phát minh sáng chế yêu
cầu những phát minh phải đảm bảo các yếu tố mới, khả dụng.
Nhãn hiệu đăng ký: nhãn hiệu đăng ký là những từ hoặc các biểu
tượng phân biệt sản phẩm và nhà sản xuất ra nó. Lợi ích của khách hàng là
họ hiểu được chất lượng sản phẩm mà họ mua sản phẩm của các hãng nổi
tiếng.
Việc thực thi các chính sách có sự khác nhau ở các nước. Thế nhưng
có một số chuẩn mực chung được áp dụng. Chẳng hạn như ở liên minh Châu
Âu, người ta mở văn phòng bảo vệ quyền nhãn hiệu để cảnh sát điều tra
những vi phạm ở bất cứ nước nào trong liên minh
Bản quyền tác giả trao cho người sở hữu có quyền tự do xuất bản
hoặc quyền quyết định về sản phẩm của mình. Bản quyền tác giả còn cho
biết rõ thời gian và tên người sở hữu. Một người sở hữu có những quyền
sau:
⇒Quyền được tái xuất bản
⇒Quyền được nhận sản phẩm mới từ bản quyền
⇒Quyền được bán và phân phối các bản sao chép
⇒Quyền định đoạt sản phẩm từ bản quyền
⇒Quyền công bố bản quyền ra công chúng
Người sở hữu bản quyền gồm tác giả và nhà xuất bản như ở trong văn
học, âm nhạc, chương trình phần mềm máy tính, nghệ sĩ, những bức tranh và
hoạ sĩ. Một bản quyền tác giả cấp cho sự biểu hiện cụ thể của ý tưởng, chứ
không phải bản thân ý tưởng.
c/ Sự bảo đảm và trách nhiệm đối với sản phẩm
Hầu hết các nước đều có đạo luật bảo vệ sản phẩm, luật này đưa ra các
tiêu chuẩn áp dụng cho các nhà sản xuất. Trách nhiệm đối với sản phẩm
yêu cầu các nhà sản xuất, người bán và các đối tượng khác, gồm cả các nhân
viên công ty phải có trách nhiệm đối với những sản phẩm bị hỏng hoặc
không thể sử dụng được. Phần bị hỏng có thể phải được bồi thường cả bằng
tiền thông qua bộ luật dân sự và tiền phạt, hoặc có thể bị buộc tội là kẻ phạm
tội. Những hoà giải phải được thực hiện thường xuyên trước khi vụ việc
được đưa ra toà án
Nước Mỹ có bộ luật quy định về trách nhiệm sản phẩm cứng rắn nhất
trên thế giới. Tiếp theo là Châu Âu, các nước kém phát triển và các nước
mới phát triển là kém nhất trong lĩnh vực này. Bởi vì lẽ đó, phí bảo hiểm và
chi phí pháp lý là cao hơn ở những nước có bộ luật quy định trách nhiệm đối
với sản phẩm. Bồi thường cho những sản phẩm hỏng ở Mỹ cao hơn nhiều
lần ở những nước phát triển khác. Để thích nghi với những bộ luật quốc tế
khác nhau có thể là quá trình phức tạp. Việc thực thi đạo luật bảo đảm sản
phẩm có khác nhau giữa các nước.
d/ Thuế
Chính phủ các nước dùng thu nhập từ thuế doanh thu cho nhiều mục
đích. Tiền thuế được dùng để trả lương, xây dựng quân đội, điều hoà thu
nhập từ người giàu sang người nghèo. Chính phủ cũng đánh thuế trực thu,
còn gọi là thuế tiêu dùng, nó phục vụ cho hai mục đích:
1. Nó giúp cho việc chi trả cho những hậu quả của việc tiêu dùng một
sản phẩm
2. Làm cho hàng hoá nhập khẩu đắt hơn
Thuế tiêu dùng được đánh trên những sản phẩm như rượu và thuốc lá
để điều trị những bệnh tật sinh ra từ việc tiêu dùng những sản phẩm này.
Tương tự, thuế đánh trên sản phẩm xăng dầu để xây dựng và sửa chữa cầu
cống và đường xá. Thuế đánh trên những sản phẩm nhập khẩu giúp cho
những sản phẩm địa phương có lợi thế hơn về mặt giá cả. Xét về khía cạnh
khác, các nước có tỷ lệ thuế suất khác nhau tính trên thu nhập.
e/ Đạo luật chống độc quyền
Các đạo luật nhằm chống các công ty ấn định giá cả, chiếm lĩnh thị
trường, và tận dụng những lợi thế do độc quyền, những đạo luật đó gọi là
đạo luật chống độc quyền. Những đạo luật như vậy cố gắng cung cấp cho
khách hàng những sản phẩm đa dạng với mức giá hợp lý. ở Mỹ có đạo luật
chống độc quyền mạnh nhất trên thế giới. ở Đức cũng có đạo luật chống độc
quyền khá chặt chẽ. Tại Nhật Bản, phòng Thương Mại có chức năng thực thi
đạo luật chống độc quyền nhưng thường là không có hiệu qủa.
Các công ty bị chế tài bởi luật chống độc quyền cho rằng họ bị mất lợi
thế do phải chia sẻ thị phần với các đối thủ cạnh tranh trong nước. Vì vậy,
những hãng hoạt động ở những nước có đạo luật chống độc quyền thường
được miễn thuế trong một số giao dịch quốc tế. Một số tiểu thương cho rằng
họ có thể có điều kiện cạnh tranh tốt hơn đối với các công ty quốc tế lớn nếu
không vi phạm luật chống độc quyền
Trong khi thiếu vắng một tổ chức thực thi đạo luật chống độc quyền, những mặt
trái của đạo luật chống độc quyền phát sinh trong quá trình bảo về thị trường địa phương,
chứ không phải là bất cứ sự cạnh tranh không công bằng nào.