Một chút tình thu
(Mùa Thu trong thi ca VN)
Giới thiệu:
Tôi có điều may mắn là trong mười năm làm giáo sư trung học (1958-1968), dạy môn văn
chương VN, tôi thường phải tìm tòi cổ văn lẫn kim văn nước ta để làm tròn cái chức năng
'gạch nối' giữa thế hệ đã qua và thế hệ đang tới, đem cái tinh hoa của người xưa mà truyền
thụ lại cho người đời nay, với niềm hy vọng tha thiết là cái gì người xưa sáng tạo thì người
sau cảm nhận nó, đau với cái đau, vui với cái vui của người xưa, cảm thông tâm sự của họ,
để khỏi như Nguyễn Du phải trách đời rằng, ba trăm năm về sau nữa có ai nhỏ xuống cho
ông đôi dòng lệ tiếc thương một kiếp người tài hoa bạc phận:
'Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Nhứ
Thế hệ ngày nay và mai sau sẽ nâng niu trân trọng nó và phát triển thêm ra vì văn hóa VN
không chỉ của riêng người Việt.
Bên cạnh đó, phong cảnh hữu tình thơ mộng của Huế đã khắc đậm vào lòng tôi những cảm
xúc bồi hồi, nhung nhớ khó phai, cùng với bao nhiêu kỷ niệm của một thời trẻ dại. Những
hàng phượng đỏ hai bên bờ sông Hương cùng với thành quách đền đài miêù mạo, những
con đường rợp bóng mù u, những ngày nắng xuân le lói, những đêm mưa âm thầm trong
đại nội, trong tử cấm thành như phảng phất đâu đó linh hồn vua chúa, cung phi mỹ nữ đã
quá vãng lâu rồi, làm cho lòng tôi càng thêm hoài cổ, dẫn dắt người ta tới chỗ mộng mơ
mà mộng mơ là chất liệu của thi ca, đặc biệt thi ca lãng mạn tiền chiến, một nền thi ca sung
mãn và đặc sắc, mới lạ của VN, kể từ 1925, khi Phan Khôi thổi hồi kèn tiên phong với bài
'Tình già' cho tới cuộc 'Cách Mạng Mùa Thú năm 1945, cuộc cách mạng mở ra một thời kỳ
thi ca đấu tranh cho nền độc lập dân tộc.
Mặc dầu đã xa môi trường văn học ấy hơn ba chục năm, mà đời tôi thì lắm cảnh thăng
trầm, từ một anh lính mới tò te ở Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung cho tới những
bước chân phiêu bạt của người làm phóng viên phát thanh chiến trường ở những bến sông
ở chỗ tận cùng của đất nước, qua nhiều năm trong cảnh tận cùng địa ngục trong nhà tù
Cộng sản, hay một bến bờ xa lạ nơi hoang đảo tỵ nạn Pulau Bidong, lòng yêu mến thi ca
của tôi chẳng bao giờ phai lạt. Nay trôi giạt về nơi xứ người, nhìn cảnh thu màu sắc vô
cùng đẹp đẽ nơi vùng Đông Bắc nước Mỹ, lòng tôi thêm nung nấu nhớ nhung những mùa
thu cũ, cả trong thi ca cũng như ở cảnh sắc quê nhà, viết lại đôi dòng để tỏ bày cùng tri âm,
cùng cố nhân và cả những ai lớn lên ở quê người, chưa từng nghe 'Tiếng thú quê hương
nức nở, chưa từng cảm 'Ý thú VN rạt rào trong trái tim nóng bỏng của cha ông đã viết nên
những trang thơ tuyệt vời làm say đắm biết bao nhiêu người!
Viết tại Barre, Mass thu năm dậu
* * *
Bây giờ là mùa thu, mùa thu mà không nói đến thi ca thì sao được?! Dù sao thì ta cũng nên
để cho lòng ta lắng đọng một chút, để cho lòng xúc động một chút, dù chỉ là một chút thôi
vì cuộc đời nơi đất khách lắm khi tất bật, để ru hồn mình vào cảnh thu ở quê người và nhớ
lại đôi chút cảnh thu ở quê nhà qua những vần thơ cũ.
Hồi mới đến đây, vùng Đông-Bắc Hoa Kỳ, tôi thấy xứ Mỹ nầy lạ lắm. Hết thành phố lâu
đài cao rộng thì đến những núi đồi trùng điệp, có chỗ giống như đường lên Đà Lạt, cao
nguyên ở quê mình, dù không 'Đường lên núi rừng sao hãi hùng' thì cũng làm ta bâng
khuâng, lòng vẫn còn mơ tưởng đến những con đường cũ.
Nhà tôi ở Barre, một 'town' nhỏ, cách Worcester, thành phố lớn thứ nhì của Massachusetts
những 22 dặm. Ngôi nhà nằm lưng chừng một ngọn đồi nhỏ, sau nhà là một rừng thông
bao la, chỉ thấy nhà hàng xóm thấp thoáng trong bóng cây, và trước mặt cũng là một rừng
thông trùng điệp, thoai thoải xuống chân đồi, dưới đó có một hồ nước rộng mà nước bao
giờ cũng xanh biếc, tưởng như sâu thăm thẳm. Mùa hạ vừa qua, phấn thông vàng bay lã tả,
rụng đầy hiên nhà, mui xe, kính xẹ.. làm tôi nhớ 'Phấn thông vàng' của Xuân Diệu. Tôi
không biết Xuân Diệu thấy phấn thông vàng ấy ở đâu, ở Đà Lạt hay ở những ngọn thông
trên núi Ngự Bình. Rừng thông nầy, sau khi Pháp chiếm lại thành phố Huế năm 1946, đã bị
chặt trụi, làm cho núi Ngự Bình thành ra hòn núi trọc, khiến cụ Ưng Bình Thúc Giạ thị
phải than:
Núi Ngự không cây chim ngủ đất
Sông Hương vắng khách đĩ kêu trời.
Bây giờ là mùa thu ở đây, lá sồi màu xanh non đang chuyển qua màu xanh già, bắt đầu úa
để chuyển qua màu đỏ nâu, rụng đầy trên những con đường lớn, nhỏ trong các cụm rừng
trên các con đường vùng tôi ở. Những cành cây khẳng khiu giơ lên giữa bầu trời thu xanh,
như cánh tay gầy guộc của ai đó, không khỏi làm cho lòng người xao xuyến, tiếc một mùa
hạ qua nhanh.
Mỗi ngày đi từ Barre tới Worcester một hai bận, tôi thấy cảnh sắc khác đi từng chút, từng
ngày. Lớp lá rụng bên đường hôm nay hình như dày hơn hôm qua, những cành khô giơ lên
trời cao nhiều hơn, màu lá thông đen thẫm hơn. Trời xanh ngăn ngắt nhưng lại thêm nhiều
đám mây vần vũ, báo hiệu một mùa đông giá gần kề. Vài khi tơ trời vương trên kính xe;
hay mỗi chiều khi tôi ngồi trước sân nhà, vướng nhằm những sợi tơ mỏng manh, trắng
muốt, nhẹ nhàng bay qua, tôi không khỏi nhớ đến những câu thơ của Nguyễn Bính tả một
cảnh thu ở đồng bằng Bắc bộ:
Tơ gạo phương xa tản mạn về
Gió vào đồng lúa chín vàng hoe
Một con diều giấy không ăn gió
Ỏng ẹo chao mình xuống vệ đê
Con đường đi về mỗi ngày gần năm mươi dặm, ngồi một mình trong xe, đóng kín cửa,
đừng mở hơi nóng hay hơi lạnh để khỏi nghe tiếng quạt máy kêu vù vù mà nghe cho rõ
'Buồn Tàn Thú của Văn Cao, nghe Họa Mi hát 'Em Ra Đi Mùa Thú của Phạm Trọng, nghe
'Mùa Thu Paris' của Phạm Duỵ..
Ôi! nỗi buồn nơi xứ người sao thấm thía làm vậy!? Mùa thu, cái gì trông cũng có vẽ lãng
đãng, mơ màng và vô cùng gợi nhớ, từ những ngày còn niên thiếu, bước vào tuổi mộng
mơ, cho đến bây giờ tóc ngã màu sương muối, lưu lạc nơi xứ người.
Nhìn đâu đâu cũng nhuốm vẻ thu; thu ở mầu trời, mầu đất, màu hoa lá, màu cây, màu
không gian và cả 'màu thời gian... tím ngắt' trong lòng mỗi chúng ta nữa. 'Màu thời gian'
ấy, Đoàn Phú Tứ thấy trong lòng 'Tần phí và Tương Phố thì thấy trong 'Giọt Lệ Thú:
Trời thu ảm đạm một màu
Gió thu hiu hắt thêm sầu lòng em
Trăng thu bóng ngã bên thềm
Tình thu ai để duyên em bẽ bàng
Quả thật mùa thu không có gì vui, không tươi thắm như mùa xuân mới, không rực rỡ như
hè sang. Trăng bao giờ cũng mơ màng, ảm đạm, gió thu hiu hắt lạnh lẽo và tình thu thì... cô
đơn. Thế mà ai cũng thích mùa thu!?
Khi còn trẻ, tôi cứ nghĩ chỉ những ai chịu ảnh hưởng thi ca lãng mạn mới yêu thu tha thiết,
đậm đà. Không phải vậy đâu! Thu là mùa cảnh vật thay đổi nên gây nhiều xúc cảm trong
lòng người. Xúc cảm đó là gì? Là nỗi chia lỵ Mùa thu là mùa chia ly, xa cách, một chút
lạnh đã về làm cho người ta thấy lạnh lẽo; cô đơn và nhung nhớ cũng theo về, làm cho kẻ
cô đơn thêm đợi chờ khắc khoải.
Hãy đơn cử một ví dụ trong truyện Kiều. Trong đời cô Kiều có biết bao nhiêu lần ly biệt:
Kim Trọng chia tay Kiều về Liêu Dương, Kiều bán mình chuộc cha, ra đi theo Mã Giám
Sinh. Nhưng lần Thúc sinh chia tay Kiều để về thăm nhà là lần chia tay đẹp nhứt trong đời
cô kỹ nữ:
Người lên ngựa kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san
Dặm hồng bụi cuốn chinh an
Người đi đã khuất mấy ngàn dâu xanh
Người về chiếc bóng năm canh
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường.
Nguyễn Du vẽ một cảnh chia ly giữa Kiều và Thúc Sinh vào mùa thu, chắc hẵn có chủ ý.
Nguyễn Du muốn nói lên cảnh chia ly trong lòng người sao cho phù hợp với cảnh chia ly
của thiên nhiên. Người đi xa xôi lạnh lẽo được trao chiếc áo ngự hàn. Rừng phong cũng
nhuốm màu chia cách (quan san), Kiều và Thúc sinh ai cũng cảm thấy cô đơn. Tuy nhiên,
nếu hiểu hoàn cảnh Kiều và Thúc sinh, ta thấy cách tả của Nguyễn Du không hợp. Những
chữ như 'lên ngựa', 'chia bào', nghe có vẻ như chinh phu mặc áo giáp, lên ngựa ra biên ải,
phảng phất hình ảnh chinh phu trong Chinh Phụ Ngâm. Những chữ như 'chinh an' (Kẻ lên
ngựa đi xa), 'quan san' (Cửa ải trên núi), cũng na ná hình ảnh chia tay của người đi lính thú.
Nếu nói đoạn trên có vẽ như tả một chinh phu ra trận thì đoạn thơ sau đây đúng hơn, cũng
mùa thu, chia ly:
Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu,
Hỏi ngày về ước nẽo quyên ca
Nay quyên đã giục oanh già,
Ý nhi lại gáy trước nhà liù lo
Thuở đăng đồ mai chưa dạn gió,
Hỏi ngày về chỉ độ đào bông
Nay đào đã quyến gió đông
Phù dung lại nở bên sông bơ thờ
Lúc ra đi (lâm hành) chim oanh chưa về đậu trên cành liễu (xuân chưa về), chàng hẹn mùa
hạ sẽ về (ước nẽo quyên ca), nay đã mùa thu rồi (quyên giục oanh già). Lúc ra đi, mai chưa
dạn gió (mai chưa có, xuân chưa về), chàng hẹn xuân sẽ về (độ đào bông, bông đào nở),
nay xuân đã tàn (quyến gió đông, 'đông phong' là gió xuân, theo 'ngũ hành' mùa xuân thuộc
phương đông). Trong Chinh Phụ Ngâm cũng có câu:
Xót người lần lữa ải xa
Xót người nương chốn hoàng hoa dặm dài
Hoàng hoa là hoa cúc vàng, mùa thu hoa cúc nở ('Mùa thu hoa cúc vàng lưng dậu', Nguyễn
Bính). Đó là mùa đi thú.
Ngày xưa đi lính thú (lên mạn ngược để canh phòng biên ải, cứ ba năm đổi phiên một lần)
vào mùa thụ Mùa thu là mùa chia ly, gió tây (gió thu, cũng theo 'ngũ hành', mùa thu thuộc
phương tây) lạnh, làm cho người vợ nhớ chồng đang xông pha ngoài biên ải, thương chồng
chịu cảnh lạnh lùng:
Gió tây nổi không đường hồng tiện
Xót cõi ngoài tuyết quyến mưa sạ
(Chinh Phụ Ngâm)
Khi gió thu nổi lên, chim hồng không bay ra biên ải được, người vợ không thể gởi thư
bằng chim hồng (chim hồng đưa thư).
Trong Cung Ốn Ngâm Khúc, dù không có cảnh chia ly vợ chồng như trong Chinh Phụ
Ngâm, nhưng cũng có tâm trạng cô đơn lạnh lẽo của cung nữ vì bị vua bỏ bê:
Đền vũ tạ nhện giăng cửa mốc
Gác thừa lương thức ngủ thu phong
(Vũ tạ: nhà để múa hát, gác thừa lương: nhà để hóng mát) Nơi cung nữ múa hát ngày
trước, nay vắng vẻ (nhện giăng cửa mốc). Nơi hóng mát cùng nhà vua thì nay gió thu thổi
lạnh lùng (thức ngủ thu phong). Đi xa hơn chút, với thơ Đường, thời đại thi ca cực thịnh
của Trung Hoa thì cái ý thu trong thơ Tàu và thơ ta không khác nhau bao nhiêu (dĩ nhiên là
thơ ta chịu ảnh hưởng thơ Tàu). Rõ nhất là trong Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị, Phan Huy
Vịnh dịch:
Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách
Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu
Người xuống ngựa, khách dừng chèo
Chén quỳnh mong cạn nhớ chiều trúc tỵ
Tiễn bạn canh khuya ở bến Tầm Dương, hơi thu lạnh, lau lách đìu hiụ Kẻ xuống ngựa, kẻ
dừng chèo, chào nhau ly biệt, mời nhau chén rượu nhớ chiều nghe tiếng sáo (trúc ty).
Nói chung, cách làm thơ, mô tả khung cảnh thiên nhiên cũng như lòng người, trong cổ thi
thường có tính ước lệ. Chẳng hạn như khi nói tới mùa thì mùa nào thức nấy. Mùa xuân thì
có hoa mai, đào để đón tết; hạ thì có hoa lan, thu thì có hoa cúc, đông thì có trúc. Mai Lan
Cúc Trúc là hoa (trúc không phải hoa) của bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông. Ngoài ra, trong
thi ca, về các mùa còn có những ước lệ khác nữa. Mùa thu, ngoài hoa cúc, còn có lá ngô
đồng (rụng):
Ngô đồng nhất diệp lạc
Thiên hạ cộng tri thu
(Một lá ngô đồng rụng, ai cũng biết thu về).
Theo Kinh Dịch: Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ là ngũ hành, mùa thu ở hướng tây, thuộc kim.
Cho nên gió thu còn gọi là 'gió tây', 'kim phong'. Bên Tàu như thế mà ta cũng vậy. Gió thu
thổi theo 'Gió mùa' (mousson), theo hình thể địa lý của ta là từ hướng bắc xuống, mang
theo cái lạnh của Tây Bá Lợi Á, nên gọi là gió Bấc (đọc trại của bắc).
Ca dao có câu:
Ra về để áo lại đây,
Để khuya em đắp (ngọn) gió Tây lạnh lùng.
Mùa thu cái gì cũng riêng. Trăng riêng, gió riêng, hoa riêng, lá cũng riêng, chim chóc cũng
riêng, đó là chim di thệ Mùa thu gió bắt đầu lạnh, chim bay từng đoàn về phương nam trốn
tuyết. Thời thơ ấu, tôi từng thấy trên bầu trời sông Thạch Hãn hay thời niên thiếu tôi thấy
trên bầu trời sông Hương, những đàn chim bay thành hình tam giác, con đầu đàn đi trước,
bay ngang khung trời xanh. Tôi thường xao xuyến vì cảnh thu ở quê nhà, mơ ước những
chuyến đi xạ Nay ở bên nầy cũng vậy. Mùa thu, vài khi chợt thấy những con thiên nga
dừng chân bên các hồ nước rộng trong các công viên. Chúng dừng 'chân' nghỉ trên con
đường trốn tuyết bay về Nam Bán Cầu.
Trên là nói về thơ cổ; còn thơ nửa cổ nửa kim thì có Tản Đà. Ông là cái gạch nối giữa
những 'linh hồn cũ' của thế hệ làm thơ văn bằng 'chữ vuông' và thế hệ làm thơ văn bằng
chữ quốc ngữ. Thu của Tản Đà cũng buồn lắm:
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi
Trần thế em nay chán nữa rồi
Cung quế đã ai ngồi đấy chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi
Có bầu có bạn can chi tủi
Cùng gió cùng trăng thế mới vui
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám
Cùng nhau trông xuống thế gian cười.
Cái cười Tản Đà cũng chỉ cười gượng đó thôi, vì một người đa tình như ông, sống ở cõi
đời này cũng chỉ để buồn vì những cái rất bâng quơ:
Ngọn gió thu phong rụng lá vàng
Lá bay hàng xóm lá bay sang
Vàng bay mấy lá năm già nửa
Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng
Ngọn gió thu phong rụng lá hồng
Lá bay tường bắc lá sang đông
Hồng bay mấy lá năm hồ hết
Thơ thẩn kìa ai vẫn đứng trông
Lá vàng là lá đầu thu: mới quá nửa năm; lá hồng là lá cuối thu: năm gần hết. Lá từ bắc
sang đông, lá từ hàng xóm bay sang, lá rụng khắp mọi nơi, làm tác giả nhớ cảnh chia ly,
nhớ chuyện thiếp phụ chàng, nhớ cảnh cô đơn, ai đó vẫn chờ ai trong tuyệt vọng. Người
VN thường giữ tình xóm làng, kể cả lòng yêu trộm nhớ thầm một cô hàng xóm, chờ đến
khi người ta đã đi lấy chồng về thăm nhà mới dám nói ra thì đã quá trễ:
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em có chồng anh tiếc lắm thay!
(ca dao)
Hay hoàn toàn im lặng như Nguyễn Bính:
Từ độ mồng tơi thôi trổ lá
Thì cô hàng xóm cũng thôi sang
Mồng tơi trổ lá vào mùa hạ. Khi thu lạnh tới thì cây mồng tơi cũng tàn, còn nữa đâu mà trổ
lá, và cô hàng xóm đã đi lấy chồng. Ngồi đó mà tiếc ngẫn tiếc ngơ!
Tản Đà là thiên tài làm thơ, xuất thần làm thơ, thơ thần. Đọc thơ ông người đọc cảm nhận
cái hay một cách tự nhiên trong mỗi chữ, mỗi câu chứ giải thích thì không giải thích được,
đặc biệt là bài 'Thề Non Nước':
Nước non nặng một lời thề
Nước đi đi mãi không về cùng non
Trong những người làm thơ mới, kế cận với Tản Đà nhất có lẽ là bà Tương Phố với bản
'Giọt Lệ Thú khóc chồng là ông Thái Văn Dụ Chỉ một tác phẩm nầy, bà để lại cho đời một
áng văn vừa xuôi vừa thơ làm 'chết đứng' tâm hồn bao người mê thơ (*):
Trời thu ảm đạm một màu
Gió thu hiu hắt thêm sầu lòng em
Trăng thu bóng ngã bên thềm
Tình thu ai để duyên em bẽ bàng
Anh ơi!
Thu về như gợi mối thương tâm
Mỗi độ thu sang em lại vò lòng than khóc
Mỗi năm có một lần thu
Nhưng thu năm nay đi, năm sau còn trở lại
Hỏi ba sinh hương lửa
Thì ái ân kia dễ mấy kiếp hẹn hò nhau
Chẳng hay cơ trời dâu bể vì đâu
Xui nên chăn gối vừa êm
Sắt cầm dìu dặt ngón đàn
Bỗng ai xô lộn
Bình tan gương vỡ
Cho người dỡ duyên
Anh đi hồi ấy
Năm tháng thường về
Người không dấu vết
Năm tháng bâng khuâng
Sầu lại nhớ
Thương nhau vò võ khóc vì nhau...
Hình ảnh và chữ dùng trong 'Giọt Lệ Thú không ra khỏi những ước lệ thơ cổ, điều đó
đương nhiên vì tác giả là người của đầu thế kỷ 20, lúc phong trào thơ mới vừa lên, chưa
mạnh, nhưng cách phô diễn tình cảm như của bà trong đó thì đã mới mẻ lắm, mãnh liệt
lắm. Bốn câu đầu bà làm theo thể lục bát, một thể thơ dân gian rất phổ cập; phần sau viết
theo thể trường đoản, niêm luật không cần nghiêm nhặt lắm nhưng lại là văn 'biền ngẫu'
(lời văn đối nhau), rất phổ thông trong cổ văn.
Ngay cả những người làm thơ mới như Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư thường đã phá
những khuôn mẫu, ước lệ thơ cũ nhưng nhiều khi vẫn không thoát khỏi ảnh hưởng của nó.
Chẳng hạn như bài 'Nguyệt Cầm' của Xuân Diệu, ngôn ngữ và thi tứ mang rất nhiều âm
hưởng Tỳ bà Hành:
Thu lạnh, càng thêm nguyệt tỏ ngời
Đàn ghê như nước lạnh trời ơi
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người.
(Nguyệt Cầm, XD)
Thu lạnh, tiếng đàn lạnh, trăng càng thêm tỏ. Tiếng sỏi vang dưới bước chân người. 'Trăng
nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người'. Rõ ràng Xuân Diệu tả lại cảnh chia tay một đêm thu
trên bến Tầm Dương giữa Bạch Cư Dị và người bạn. Trăng nhớ bến xưa và nhạc nhớ ngón
đàn tuyệt vời của kỷ nữ đêm trăng đó đã đàn cho Bạch và người bạn nghẹ Tâm sự người ca
kỷ về già đã làm cho Bạch Cư Dị khóc. Cái hay Xuân Diệu thấy mà không có trong Tỳ Bà
Hành là tiếng sỏi kêu lên dưới chân người đị Tiếng sỏi ấy như tiếng hận của cõi lòng ly
biệt.
Điều tôi thắc mắc là loại đàn của người kỷ nữ đánh hôm đó là đàn tỳ-bà (Tỳ bà hành), rất
phổ cập trong nhạc Tàu, hình bầu ở dưới, phía trên nhỏ lại mà cũng là cần đàn. Hình cây
đàn tỳ bà như quả lệ (Xem bài 'Tỳ bà hay Nguyệt cầm?' cùng tác giả) Xuân Diệu đổi thành
Nguyệt cầm (đàn nguyệt), dưới là bầu tròn như mặt trăng, trên là cần đàn.
Nói về thơ mới mà cũ, không thể không nói đến một thi nhân nổi tiếng, một tác phẩm nổi
tiếng: Quách Tấn với tập thơ 'Mùa Cổ Điển'. Như ông đã nói trong nhan đề cuốn thơ của
ông, mặc dầu thơ ông xuất hiện trong cùng phong trào thi ca lãng mạn đầu thế kỷ 20, thơ
ông là thơ cổ điển, có nghĩa phần nhiều làm theo thể thơ Đường luật, và cả ý thơ, lời thơ
đều cổ điển cả. Bài thơ hay nhứt của ông được nhiều người ưa thích là bài 'Đêm Thu Nghe
Quạ Kêu':
Từ ô y hạng rủ rê sang,
Bóng lẫn đêm thâu tiếng rộn ràng
Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng
Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng
Bồi hồi thương kẻ nương sông bạc.
Lặng lẽ nhà ai rụng giếng vàng
Tiếng dội lưng mây đồng vọng mãi
Tình hoang mang gợi tứ hoang mang.
(Quách Tấn)
Ông là nhà thơ mới nhưng thơ ông rất nhiều điển tích, là tính cách đặc biệt của thơ cổ: 'Ô y
hạng' là 'Ngõ áo thâm'. Theo tục xưa, các gia đình làm quan to nhiều đời ở chung một xóm,
ai ai cũng mặc áo thâm, để chứng tỏ thuộc nhà quan. Dòng họ Nguyễn Du ở Hà Tĩnh mấy
đời đều làm quan to trong triều vua Lê chúa Trịnh; dòng họ Phan Đình Phùng, 12 đời, đời
nào cũng có người đỗ đại khoa (tiến sĩ), họ ở chung trong một 'ô y hạng'. Bến Phong Kiều
là lấy chữ trong bài thơ 'Phong Kiều Dạ Bạc' của Trương Kế bên Tàu, bến sông Xích Bích
là chỗ Khổng Minh bày mưu cho Tôn Quyền phá quân Tào trên sông Trường Giang, về
sau ông Tô Đông Pha có làm bài phú Xích Bích nói tới trận đánh lớn nầy trong lịch sử
Tam Quốc. Thụy Khuê thuật lại trên đài RFI rằng khi còn trẻ, một hôm Quách Tấn qua
làng bên bốc thuốc cho mẹ, trên đường về, đi qua một rặng tre, bỗng một đàn quạ trong tre
thức giấc kêu vang lên làm ông kinh hãi. Ban đầu đề bài thơ là 'Nghe quạ kêu', sau Lưu
Trọng Lư đề nghị ông thêm vào hai chữ 'Đêm thú (Đêm Thu Nghe Quạ Kêu) cho bài thơ
thêm chút thi vị.
Về thơ mới, Xuân Diệu là một trong những người đi tiên phong. Không như bài trên của
Quách Tấn, thêm vào chữ 'Đêm Thú thành ra bài thơ nghe có vẽ tả cảnh mùa thu, bài 'Đây
Mùa Thu Tới' của XD là chọn ngay đề tài mùa thu để làm thơ:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới, mùa thu tới,
Với áo mơ phai dệt lá vàng
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò.
Mây vẫn từng không chim bay đi
Khí trời u uất hận chia ly
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói,
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì?
Trong thơ cổ, cây liễu tượng trưng cho người đàn bà hoặc sắc đẹp người đàn bà. Trong
Kiều có câu:
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Giải thích theo thơ Tàu: 'Bồ liễu chi tư vọng thu nhi tiên diêu'. Cây bồ cây liễu là thứ cây
yếu ớt, hễ trông thấy mùa thu tới thì rụng và héo rồi, ví như người đàn bà yếu ớt vậy.
(Truyện Thúy Kiều, Trần Trọng Kim-Bùi Kỷ chú thích, trang 98).
Trong Kiều cũng có câu:
Khi về hỏi liễu Chương Đài
Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay.
Sách Thái Bình Quang Ký chép rằng Hàn Hoành đời Đường lấy người kỷ nữ là Liễu thị, đi
làm quan xa để lại tại phố Chương Đài ở kinh đô Trường An, làm bài thơ gởi về có câu:
'Chương Đài liễu! Chương Đài liễu! Tích nhật thanh thanh kim tại phủ, giả ưng phan chiết
tha nhân thủ'. Nghĩa là: 'Liễu Chương Đài! Liễu Chương Đài! Ngày nọ xanh xanh nay còn
không, hay là tay khác đã bẻ mất rồi.' Cuối đời Thiên Bảo, Liễu thị bị tướng Phiên cướp