Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

LONG MẠCH.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.38 KB, 7 trang )

LONG MẠCH - HUYỆT VỊ
Phần này đề cập về "Long mạch - huyệt vị" theo Phong thủy cổ
truyền và Phong thủy hiện đại. Nội dung nhằm làm sáng tỏ thế
nào là long mạch và thế nào là huyệt vị dưới ánh sáng của khoa
học- vừa định nghĩa lại, vừa góp phần bô sung nâng cao hiện đại
hóa. Để hiểu rõ hơn bản chất thực về lĩnh vực này.
Long mạch - huyệt vị
Long mạch
Theo phong thủy cổ truyền
Mạch, nghĩa gốc là huyết quản. Mạch là nơi cư ngụ của máu, “Tốn vấn
– Mạch yếu tinh vi luận” viết. “Sử ký – Mông điềm truyện” viết ;
“Trường thành bắt đầu từ Lâm Triệu, xuyên suốt Liêu Đông dài trên vạn
dặm thì không thể tránh được long mạch bị đứt ? ”, “Mối khi đến nơi
danh sơn đại mạch đều gọi thần ở đó đến để hỏi về sơn xuyên mạch”.
“Như vậy người xưa quen gọi quan hệ giữa núi sông là mạch”, “Núi
nhấp nhô, sông vươn dài uốn khúc, như rồng nằm, rồng múa, rồng
vươn dậy, rồng bay. Vì vậy, các nhà phong thủy gọi sông núi là long
mạch” Vương Ngọc Đức viết.
Người Trung Hoa xưa sùng bái rồng (con vật không có thật, do
tưởng tượng mà có). Cho nên dùng “long” để đặt tên, sơn mạch
gọi là long mạch
. Để tìm long mach, trước hết phải xác định bằng
được núi tổ, từ đây sẽ phân biệt long mạch to (chính) hay nhỏ (phụ), do
đó mà biết sức khỏe tốt hay xấu. Cách phân biệt núi tổ phải dựa vào
nguồn nước. Tuy nhiên, phân biệt chính phụ là để biết lai mạch (mạch
đến) to nhỏ và thịnh suy. Còn muốn biết sang hèn, giả thật thì trước hết
phải xem “nhập cục” và “nhập thù”. Ngoài tìm nguồn nước để xác định
núi tổ, còn phải quan sát hình thế, tức là quan sát núi. Phong thủy
1
Trung Hoa coi Côn Lôn là cội nguồn của long mạch là địa chủ (đầu của
đất), cho rằng các núi lớn trong thiên hạ đều do Côn Lôn kéo dài ra


hoặc chi mạch. Dương quân Tùng đời Đường trong “Long kinh” viết “
Côn Lôn là xương sống của trời đất, trấn giữ thiên tâm (trái tim trời) là
vật khổng lồ, cũng như con người có xương sống, xương cổ, có tứ chi
nổi lên. Tứ chi chia thành 4 thế giới, bốn mạch ở nam bắc tây đông.
Núi thuộc nội khí ( khí bên trong) như núi đất, như nhà, như chủ nhà,
như vua. Nước thuộc ngoại khí (khí bên ngoài) như thành, như tường,
như bề tôi, như khách. Do đó bất kỳ thầy phong thủy nào khi xem
tướng địa (xem đất lấy huyệt) cũng phải quan sát núi và nước. Thủy tụ
tức long tận. Thủy giao nhau tức long dừng lại, thủy chẩy xiết tức sinh
khí tản mát, thủy lưu thông tức nội khí tụ. Núi quản về con người, nước
quản về của cải. Nguồn nước vươn xa thì long khí vượng, phát phúc lâu
dài. Nguồn nước ngắn thì phúc ngắn. Các thầy phong thủy Tung Hoa
đưa ra thuyết “Tam long” nói về long mạch của đại lục Trung Quốc. Đại
lục Trung Quốc có 2/3 đất đai là sông núi, như vậy 2/3 diện tích ẩn
chứa long mạch ”. Tóm lại: "long mạch là núi là sông", ngược lại lấy núi
sông mà định long mạch. Đây có thể được xem như “định nghĩa” thế
nào là “long mạch” của phong thủy cổ Trung Hoa. Tức là, long mạch chỉ
xuất hiện ở vùng có núi và sông đi kèm, hiển nhiên vùng đồng bằng
không có long mạch, kể cả vùng có núi nhưng không có sông cũng vậy.
Theo đúng “định nghĩa” ấy thì ở Việt Nam ta “long mạch” chỉ xuất hiện
ở vùng Tây bắc và một phần Đông bắc và dọc miền Trung mà thôi. Tuy
nhiên “long mạch” ở đây sẽ không hoàn chỉnh, chỉ là long mạch phụ
(nhánh), thậm chí không có, nếu có cũng không thể tốt. Vì, theo định
nghĩa trên muốn tìm “long mạch” phải tìm cho ra “núi tổ và nước
nguồn”. Núi, sông của ta lại hầu hết bắt nguồn từ Trung Quốc, Lào. Tức
là trên đất ta không có “núi tổ, sông nguồn”. Điều này khác hoàn toàn
với cách hiểu bấy lâu nay của các thầy phong thủy Việt Nam, tràn lan
chỗ nào cũng long mach huyệt vị. Nên mỗi khi chọn đất cất nhà, đặt
2
mồ mả, nhất nhất không thể thiếu vai trò của thầy phong thủy để đuổi

tìm bằng được long mạch huyệt vị. Đã không có “long mạch” (sơn
mạch) ở nơi đất bằng (gồm cả vùng đồng bằng) thì làm sao tìm thấy,
lấy ở đâu ra, mà các thầy phong thuy vẫn bận rộn hành nghề đàng
hoàng?
Theo phong thủy hiện đại
Trong đời người có 4 việc lớn : lập nghiệp, lập gia đình, làm nhà, mồ
mả tổ tiên. Ai cũng muốn mọi việc xuôn xẻ, tốt đẹp. Đặc biệt trong đó
nơi ăn chốn ở, nơi đặt mồ mả được “yên lành” là nhu cầu chính đáng
của con người. “Yên lành” ở đây tạm hiểu là mảnh đất có “long mạch”
tốt. Vậy, dưới ánh sáng của khoa học hiện đại, cụm từ “yên lành” hay
“long mạch” tốt xấu nên hiểu như thế nào cho chuẩn xác. Để làm điều
đó có lẽ nên định nghĩa lại và xác lập bản chất thực cho nó trên cơ sở
thuyết về “tia đất” – “địa bức xạ”.
Định nghĩa long mạch theo thuyết tia đất : các tầng đất đá thông
thường gồm 3 pha: rắn, lỏng, khí. Nếu ngoài 3 pha đó tồn tại trường
bức xạ năng lượng đặc biệt: tia đất (mà xung quanh không có) - có thể
gọi là pha thứ 4, thì đất đó được gọi là đất có “long mạch” - "trường
mạch bức xạ" . Trường này ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con
người hoặc tốt hoặc xấu.. “Long mạch” (môi trường đất tồn tại tia đất)
có hình dạng bất kỳ phụ thuộc cấu trúc địa chất. Trường tia đất có
thể xuất hiện thẳng hoặc ngoằn ngèo… không có hình dạng nhất định
gọi là mạch. Vậy ở đây nên gọi là “dải tia đất” hay “mạch tia đất tốt
hoặc xâu” đều được.
Bản chất của cái gọi là “long mạch”. Ba pha của nền đất gồm: địa tầng
- các loại đất đá, nước (nước ngầm), khí (đới lưu thông khí), kể cả các
thành phần phụ khác tồn tại dưỡi dạng hỗn độn hay “thấu kính” như
quặng mỏ, nước khoáng, xác động thực vật, cát chẩy, bùn loãng…
Trong môi trường đất, mỗi pha xắp xếp theo quy luật cấu tạo địa chất
3
tùy thuộc vào nguồn gốc hình thành. Dưới tác dụng của địa động lực

một nơi nào đó có thể bị nâng lên hay hạ xuống hình thành đồi, núi,
đồng bằng, bờ biển, đảo... Cần chú ý rằng: một là, không nhất thiết nền
đất phải hội đủ các pha trên mà phụ thuộc vào cấu tạo địa chất địa
phương. Có thể chỉ tồn tại 1, 2 trong 3 pha ấy, hoặc rắn – lỏng, hoặc
rắn – khí, có thể có các thân quặng, tạp chất, kể cả các nứt nẻ, hang
động ngầm. Nên nền đất mỗi nơi mỗi khác. Hai là, đất được gọi là có
“long mạch” chỉ khi ở đó xuất hiện trường “địa bức xạ” - tia đất. Long
mạch tốt, khi trong các pha có chứa các khoáng chất bức xạ trường
điện từ thuận, tia hồng ngoại với mức năng lượng cao hơn bình thường
từ 150 – 300% như: amethyst, german, đá quý, thiên thạch. Đặc biệt
hơn nữa, nơi có các mỏ quặng quý, vùng tiếp giáp giữa chúng với môi
trường xung quanh thường sinh ra trường điện tự nhiên cục bộ – loại
trường tốt cho sức khỏe (tia đất có lợi). Con người sống trên đó luôn
khỏe mạnh, minh mẫn, hiệu xuất lao động cao – “đất lành”, “địa linh
nhân kiệt” là như vậy. Ngược lại, “long mạch” được gọi là xấu khi các
pha trong nền đất chứa các thành phần độc hại như đá phóng xa
(urani), chất độc hóa học trong các dòng chẩy ngầm, thủy ngân, chì,
arsen, dioxin. Đặc biệt, khi môi trường bị ô nhiễm (chất độc mầu da
cam, chất thải độc hại ngấm sâu xuống mặt đất.). Người sống trên
mảnh đất có “long mạch” loại này - tia đất có hại, chắc chắn không
bệnh nọ thì tật kia. Tin “cả làng bị ung thư do đất chứa phóng xạ, nước
nhiễm arsen, dioxin.” đây đó, qua các phương tiện thông tin đại chúng
trong những năm gần đây là bằng chứng về những địa phương có “long
mạch xấu”.
Huyệt vị
Theo phong thủy cổ truyền
Huyệt, nghĩa gốc là nhà ở bằng đất. Huyệt còn có nghĩa là hang, ổ (sào
huyệt) lỗ huyệt, huyệt châm cứu.
4
Kinh “Thi - Đại nhã Miên” viết : “Xưa, Công Đàn Phụ, lỗ huyệt (nhà ở)

chỉ là đất nung, chưa có nhà”. Thầy phong thủy cho rằng huyệt là do
trời sinh ra. Đã có sinh tồn chi long thì phải có sinh thành chi huyệt. Để
có huyệt tốt trước hết phải xem chân long. Xem đất, điều quan trọng là
chọn huyệt, chọn huyệt điều quan trọng là xem xét long, chân long tất
huyệt kết. Thứ đến là xem minh đường long hổ (mảnh đất trước huyệt,
núi vây quanh, sông, sinh khí tụ hợp), thủy khẩu la thành (nơi nước
chẩy vào và ra) phải đạt được dáng vẻ oai phong. Sơn thủy hướng về
đầu là huyệt thật , quay lưng lại là huyệt giả. Tạ Hữu Khanh trong
“Thần bảo kinh” viết “Đất huyệt tựa như đất mà không phải đất, đất
phải hoa văn chằng chịt, đất tơi vụn thì chân dương không ở”. Liêu hi
ung trong “Táng kinh đức” viết “Sơn dừng mà khí tụ gọi là huyệt”.
Huyệt được chia làm 4 loại : phú, quý, bần, tiện. Có mười huyệt phú và
mười huyệt hèn. Hoặc lấy vật để gọi tên huyệt, huyệt tốt có – cổ rắn,
vai rùa, cánh hạc, cánh loan, càng tôm hùm, càng cua, vú bò khi nằm,
vòi voi cuộn lại, mang cá, bứu lạc đà, lẫy nỏ, xoáy nước, vết hằn trên
thân cây, bàn tay bịt miệng hổ, bàn tay để ngửa. Huyệt nông thì đất
mỏng, kiến xâm nhập, huyệt sâu thì đất sâu nước thấm vào. Nông sâu
vừa phải, thích hợp xử lý theo tình hình cụ thể. Huyệt thì ở núi, tuy ở
núi nhưng họa phúc thì ở nước. “Bát sơn thiên” viết :“ huyệt hư ảo như
vậy làm thế nào để nhận ra”.
Điểm huyệt
Thầy phong thủy cho rằng điểm huyệt là công việc vất vả và khó. “Ba
năm tìm long, mười năm điểm huyệt”. Điểm huyệt là khâu quan trọng
nhất của thuật tướng địa. Điểm huyệt phải xem xét : long mạch, bản
thân huyệt, mối liên quan với khí, thời gian, âm dương, ngũ hành. Phải
nhìn trước ngó sau, trốn tả ứng hữu, lấy cái tâm minh làm chuẩn, trái
một bước, phải một bước, trước một bước, sau một bước, nghĩ một
bước, xem một bước. Nó là ta, ta là nó, không được vội, không được
rối, không được lộ, không được hãm. Huyệt chỉ lệch một chút là đã
5

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×