1. Bản chất pháp lý của hình thức đầu tư theo hợp đồng BCC.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh (hợp đồng BCC) là hình thức đầu tư được
quy định trong pháp luật của nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam. Khoản 16
Điều 3 Luật đầu tư năm 2005 có định nghĩa về hợp đồng BCC như sau: “Hợp
đồng hợp tác kinh doanh (sau đây gọi tắt là hợp đồng BCC) là hình thức đầu tư
được ký giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận,
phân chia sản phẩm mà không thành lập pháp nhân”.
Bản chất pháp lý của hình thức đầu tư theo hợp đồng BCC được thể hiện
khái quát ở những mặt sau đây:
Thứ nhất về tính chất của hợp đồng. Hợp đồng hợp tác kinh doanh là
quan hệ đầu tư được thiết lập trên cơ sở hợp đồng, các nhà đầu tư chung vốn
kinh doanh nhưng không thành lập bất kỳ tổ chức kinh tế mới nào, mọi quyền
và nghĩa vụ cũng như lợi ích của các bên được thực hiện thông qua thỏa thuận
của các bên, các chủ thể tham gia quan hệ đầu tư chỉ ràng buộc với nhau bởi
hợp đồng mà không có sự ràng buộc về mặt tổ chức như ở các hình thức đầu
tư chung vốn thành lập doanh nghiệp.
Thứ hai về chủ thể của hợp đồng. Chủ thể của hợp đồng hợp tác kinh
doanh là các nhà đầu tư được quy định tại khoản 4 Điều 3 của Luật Đầu tư
2005 bao gồm cả nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Số lượng
chủ thể trong từng hợp đồng cũng không giới hạn, chủ thể của hợp đồng có
thể bao gồm hai hoặc nhiều nhà đầu tư cùng có quan hệ hợp tác kinh doanh
với nhau (song phương hoặc đa phương), tùy thuộc vào từng quy mô của dự
án cũng như nhu cầu, khả năng và mong muốn của các nhà đầu tư.
Mặc dù có sự thống nhất pháp luật về đầu tư nhằm đảm bảo môi trường
đầu tư bình đẳng, không phân biệt đối xử song pháp luật hiện hành vẫn tồn tại
1
một số quy định riêng áp dụng cho hoạt động đầu tư kinh doanh vốn Nhà nước
do đặc thù của các hoạt động này.
Thứ ba về nội dung quan hệ đầu tư. Nội dung quan hệ đầu tư theo hợp
đồng BCC là những thỏa thuận thể hiện tính “hợp tác kinh doanh”, bao gồm
các thỏa thuận bỏ vốn để cùng kinh doanh, cùng chịu rủi ro, cùng phân chia
kết quả kinh doanh . Đây chính là đặc thủ của hợp đồng hợp tác kinh doanh
trong sự so sánh với các hợp đồng khác trong thương mại. Ví dụ như là ở hợp
đồng mua bán, cung ứng dịch vụ tùy thuộc sự thỏa thuận của các bên hoặc
theo quy định của pháp luật về thời điểm giao hàng, thời điểm cung ứng, thời
điểm chuyển giao giấy tờ mà hoàn toàn có thể xác định lợi nhuận hay rủi ro
thuộc về một trong các bên tham gia hợp đồng.
Luật đầu tư không quy định cụ thể về nội dung của hợp đồng BCC, chỉ có
Điều 55 Nghị định 108/2006/NĐ-CP quy định nội dung hợp đồng hợp tác
kinh doanh dành cho các dự án có vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ tư về mục đích của các bên tham gia hợp đồng đó là nhằm thực hiện
hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận và sản phẩm, thông qua hoạt động mà
không thành lập pháp nhân mới.
Thứ năm về hình thức của hợp đồng. Luật đầu tư năm 2005 không quy
định hợp đồng BCC bắt buộc phải bằng văn bản. Tuy nhiên, trong trường hợp
dự án đầu tư bằng hợp đồng hợp tác kinh doanh phải làm thủ tục đăng ký đầu
tư hay thẩm tra dự án đầu tư thì phải lập thành văn bản. Còn trong trường hợp
hợp đồng BCC không phải làm thủ tục đăng ký đầu tư hay thẩm tra dự án đầu
tư thì có thê được thể hiện dưới hình thức văn bản, lời nói hay hành vi cụ thể.
Như vậy, ta có thể thấy, do không phải thành lập pháp nhân mới, các bên
không phải tiến hành thủ tục thành lập doanh nghiệp hợp đồng hợp tác kinh
doanh là hình thức đầu tư dễ tiến hành, thích hợp với các dự án cần triển khai
2
nhanh, thời hạn đầu tư ngắn, đặc biệt với dự án có vốn đầu tư nước ngoài. Xét
về lợi thế, đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh giúp sớm thu
được lợi nhuận vì các nhà đầu tư không mất thời gian đầu tư xây dựng cơ sở
sản xuất mới. Ngoài ra, hợp đồng BCC còn giúp các nhà đầu tư khắc phục
được điểm yếu của mình và sử dụng được hầu hết các lợi thế trong kinh
doanh.
Hiện nay ở Việt Nam, hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh được thực
hiện chủ yếu trong lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí, lĩnh vực bưu chính
viễn thông, in ấn, phát hành báo chí với sự tham gia góp vốn của nhà đầu tư
nước ngoài. Kể từ khi được ghi nhận trong pháp luật Việt Nam, hình thức đầu
tư này đã góp phần hiện đại hóa và phát triển ngành dầu khí, ngành bưu chính
viễn thông của nước ta.
3
2. Phân biệt hợp đồng BCC và hợp đồng BOT
Hợp đồng hợp tác kinh doanh
(BCC)
Hợp đồng xây dựng – kinh
doanh - chuyển giao (BOT)
Khái niệm
Hình thức đầu tư được ký giữa
các nhà đầu tư nhằm hợp tác
kinh doanh phân chia lợi
nhuận, phân chia sản phẩm mà
không thành lập pháp nhân
(theo quy định tại khoản 16
Điều 3 Luật đầu tư năm 2005).
Hợp đồng được ký giữa Cơ
quan nhà nước có thẩm
quyền và Nhà đầu tư để xây
dựng, kinh doanh công trình
kết cấu hạ tầng trong một
thời hạn nhất định; hết thời
hạn, nhà đầu tư chuyển giao
không bồi hoàn công trình đó
cho Nhà nước Việt Nam.
(theo quy định tại khoản 1
Điều 2 Nghị định 108/2009/
NĐ-CP).
Chủ thể
Tất cả các nhà đầu tư đều có
quyền tham gia đầu tư và ký
kết hợp đồng.
Chủ thể của hợp đồng BOT
bắt buộc một bên phải là cơ
quan Nhà nước có thẩm
quyền của Việt Nam và một
bên là nhà đầu tư.
4
Lĩnh vực đầu
tư
Có quyền được đầu tư vào tất
cả các lĩnh vực mà pháp luật
không cấm.
Thường được thực hiện trong
các lĩnh vực như: xây dựng,
vận hành công trình kết cấu
hạ tầng mới hoặc cải tạo, mở
rộng, hiện đại hoá, vận hành,
quản lý các công trình giao
thông, kinh doanh điện, cấp
thoát nước và xử lý chất
thải... và các công trình khác
theo quy định của pháp luật
và quyết định của Thủ tướng
Chính phủ
Mục đích khi
lựa chọn hình
thức đầu tư
của các chủ
thể
Tìm kiếm lợi nhuận và các
mục đích kinh tế, tài chính
khác khi các bên hợp tác kinh
doanh.
Thu được lợi nhuận và các
quyền lợi ưu đãi khác, có
những đặc thù do có sự tham
gia của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, kêu gọi đầu tư
vào các lĩnh vực trọng điểm,
nhà đầu tư góp phần san sẻ
gánh nặng tài chính cho Nhà
nước khi tiến hành đầu tư xây
dựng các công trình kết cấu
hạ tầng
5