Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Khả năng giảm lãi suất để cứu nền sản xuất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.62 KB, 13 trang )

Khả năng giảm lãi suất để cứu nền sản xuất
Thạc sỹ Lê Văn Hinh ( Hà Nội)
1- Đặt vấn đề.
2- Ai làm tăng lãi suất ?
3- Giảm lãi suất để cứu nền sản xuất, cứu doanh nghiệp
4- Đồng thuận, mặt bằng lãi suất giảm là tất yếu
1- Đặt vấn đề.
Thời gian dài, lãi suất huy động và lãi suất cho vay ở các NHTM Việt nam đã
tăng lên rất cao.Với mặt bằng lãi suất cho vay của cao như vậy, doanh nghiệp
sản xuất tỏ ra không chịu dựng nổi và có doanh nghiệp dự kiến cắt giảm đầu tư
sản xuất … Trước tình hình này Chính phủ đã chủ trương chỉ đạo giảm mặt
bằng lãi suất ngân hàng xuống mức thấp hơn và tập trung vốn cho khu vực sản
xuất, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên câu hỏi rằng liệu lãi suất ngân
hàng có thể giảm được đến đâu và cơ sở để giảm lãi suất một cách bền vững và
các nhà phải làm gì để giảm lãi suất.
2- Ai làm tăng lãi suất ?
1
Lý thuyết kinh tế và thực nghiệm chỉ ra rằng, lãi suất quá cao là có nguyên nhân
cả vĩ mô và vi mô: có nguyên nhân từ phía ngân hàng, có nguyên nhân từ phía
doanh nghiệp và có cả nguyên nhân từ các yếu tố kinh tế vĩ mô. Trong chừng
mực nào đó có thể kể ra một vài nguyên nhân dưới đây:
- Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hiển nhiện nhận thấy rằng, cơ sở kinh
tế quan trọng để đưa lãi suất xuống mức thấp là giảm lạm phát. Các nghiên cứu
và trong thực tế chỉ ra rằng, trong trung hạn, để bảo toàn tài sản của mình không
bị mài mòn bởi lạm phát, người gửi tiền và người cho vay đều phải đạt được
mức lãi suất cao hơn mức lạm phát dự tính (lãi suất thực dương).
Diễn biến lạm phát gần đay ở Việt nam cho thấy,vấn đề lạm phát ít nhiều ảnh
hưởng đến mặt bằng lãi suất.
- Ngoài ra, trên thị trường tiền tệ,lãi suất trái phiếu chính phủ lại có vai trò định
hướng và là tín hiệu quan trọng cho lãi suất của các NHTM. Trong điều kiện
bình thường, các NHTM thường coi lãi suất trái phiếu chính phủ làm mức


chuẩn và qua đó để xác định lãi suất huy động hay cho vay của mình. Như vậy
việc đảm bảo lãi suất trái phiếu chính phủ ở mức thấp chính là cơ sở của niềm
tin đối với thị trường về mức lãi suất thấp.Việc lãi suất trái phiếu chính phủ gia
tăng cũng phản ánh Chính phủ đã tham huy động nhiều trên thị trường tiền tệ.
Khi chính phủ huy động quá mức và đầu tư không hiệu quả, hiệu ứng lấn át đầu
tư cũng dẫn đến xu hướng tăng lãi suất.
Thực tế trong thời gian qua cho thấy trên thị trường tiền tệ Việt Nam, khi
NHNN cố gắng đưa ra lãi suất trần, nhưng nếu lãi suất trái phiếu chính phủ và
lạm phát vẫn cao thì lãi suất trên thị trường vẫn ở mức cao.
Bảng 1: Tình hình đấu thấu trái phiếu chính phủ gần đây tại Sở giao
dịch chứng khoán Hà Nội
2
Ngày
Kỳ
hạn
Khối
lượng
trúng
thầu
(ngàn tỷ
VND)
Lãi suất
trung
thầu (%/
năm)
Lãi suất
thấp nhất
(%/năm)
Lãi suất
cao nhất

(%/năm)
Lãi suất
trần,
trả cuối
kỳ
(%năm
)
19/11/200
9

3.0 - - 10.9 10.9
9.
7
19/11/200
9

2.0 - - 10.7 11.2
9.
4
16/12/200
9

3.0 - - - -
10.
8
16/12/200
9

2.0 - - 12.5 12.5
10.

8
16/12/200
9

5.0 10.0 10.8 10.5 11.0
10.
8
21/1/2010

5.0 2.0 11.0 11.0 14.5
11.
0
21/1/2010

2.0 - - 11.8 13.0
10.
8
4/2/2010

2.0 - - 11.7 14.5
11.
2
4/2/2010

5.0 - - 12.0 12.0
11.
3
4/3/2010

2.0 - - 12.0 13.5

11.
4
4/3/2010

3.0 - - 13.0 14.0
11.
5
Nguồn: Fitch Rating
3
- Kinh tế đầu cơ, bong bóng giá, quản trị thanh khoản của NHTM và lãi suất
cao.Có rất nhiều bằng chứng mà quan sát thông thường cũng thấy, yếu tố đầu
cơ đã dẫn đến tăng mặt bằng lãi suất trên thị trường tiền tệ Việt Nam (cho dù
trực tiếp hay gián tiếp). Trong thời kỳ thị trường chứng khoán, nhà đất và vàng
sôi động lãi suất trên thị trường tiền tệ đã tăng rất nhanh. Lãi suất thời gian
2007-2008 tăng chóng mặt bắt nguồn từ cuộc đua lãi suất huy động của các
NHTM.
Thông tin không chính thức cho thấy, trong thời kỳ hoàng kim của chứng khoán
và nhà đất, có NHTM đã cho vay nhà đất theo kiểu “tất tay” và đạt mức dự nợ
cho vay bất động sản lên tới 70% dư nợ của ngân hàng. Trong khi nguồn vốn
ngắn hạn lại chiếm tỷ trọng lớn của ngân hàng lên tới trên 80% (vốn dưới 1
năm). Trong thời kỳ này, nhiều NHTM đã dùng vốn vay từ thị trường 2 để cho
vay nền kinh tế chứng tỏ ngân hàng hoạt động không chuyên nghiệp và cũng
phản ánh tính kém bền vững của các NHTM.
Thực tế trong thời kỳ này, mức độ vay trên thị trường liên ngân hàng -thị
trường 2 (xem Bảng 3) của các NHTM cũng rất cao; Khối NHTMCP có tỷ lệ
vay thị trường 2 so với dư nợ cho vay đạt trên 50%; lãi suất qua đêm trong thời
kỳ này cũng dễ gây sốc với mức trên 40%/năm . Điều đó chứng tỏ nguyên nhân
lãi suất tăng có nguyên nhân ít nhiều từ phía NHTM. Trong thời kỳ 2007, người
ta thấy rằng, do giá chứng khoán tăng chóng mặt thì người ta vay bằng mọi giá
và trong thời kỳ chứng khoán giảm giá (2008) thì lãi suất cũng tăng mạnh thì

lại la hậu quả của thời gian trước đó dẫn đến tình trạng ngân hàng thiếu thanh
khoản.
4
Ngoài ra, cũng cần nhận định rằng trong thời kỳ này, trong khi NHTM nhỏ
thiếu vốn, một số NHTM lớn (hoặc NHTMCP mới thành lập còn nhiều vốn) có
ứng sử rất hay là chuyển rủi ro cho các NHTM nhỏ bằng cách hạn chế cho vay
nền kinh tế mà chỉ cho vay qua các NHTM khác (theo nhiều cách khác nhau
như gửi vốn, …) lấy lãi một cách rẩt “an nhàn”. Cách ứng xử này lại càng làm
cho lãi suất thị trường có chiều hướng gia tăng.
Những tháng quý II và quý III năm 2009, người ta lại thấy diễn biến tăng
trưởng tín dụng cho nền kinh tế cùng chiều rất rõ ràng với chỉ số và doanh số
chứng khoán trên hai Sở TP Hồ Chí Minh và Hà Nội. Phản ánh của báo giới
cho thấy, trong thời kỳ này, công cụ đòn bẩy tài chính lại hoạt động rất mạnh;
Người ta cũng thấy, giới đầu cơ chứng khoán và đầu cơ bất động sản chấp nhận
lãi suất rất cao lên tới 20% năm, trong khi khu vực doanh nghiệp sản xuất đơn
thuần lại không thể nuốt được mức này vì họ cho rằng trong thời kỳ suy thoái
thì sản suất khó đặt được lợi nhuận 20%/năm xét chung cả nền kinh tế ( ngoại
trừ ngành khai thác tài nguyên ).
Đến nay, chưa có nghiên cứu nào chỉ ro rằng các yếu tố bong bóng giá, đầu cơ
mạo hiểm và yếu tố quản lý thanh khoản (quản lý rủi ro) của các NHTM trong
5
Dư nợ cho vay nền kinh tế và thị trường chứng khoán năm 2009

×