LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỢI NHUẬN DOANH NGHIỆP
1.1. Lợi nhuận và mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận trong doanh nghiệp
1.1.1. Vài nét về mô hình Tập đoàn kinh tế và khái niệm lợi nhuận
doanh nghiệp
1.1.1.1. Vài nét về mô hình Tập đoàn kinh tế
Đi đôi với quá trình phát triển sản xuất của nền kinh tế xã hội là quá
trình phát triển về mặt tổ chức của các đơn vị sản xuất kinh doanh theo hướng
tập trung hóa trên cơ sở tích tụ và canh tranh. Từ các cơ sở sản xuất kinh
doanh ban đầu, trải qua các giai đoạn hình thành đã tạo ra những công ty sản
xuất hàng dọc và những công ty sản xuất hàng ngang và cuối cùng tạo ra các
Tập đoàn kinh tế.
Mô hình Tập đoàn kinh tế là một mô hình hiệu quả, hiện đại đóng vai trò
chi phối và tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế ở nhiều nước, khu vực và trên
thế giới trong giai đoạn hiện nay.
Khái niệm: Tập đoàn kinh tế là sản phẩm của nền kinh tế thị trường,
được ra đời và phát triển xuất phát từ yêu cầu của tích tụ, tập trung, liên kết,
cạnh tranh, tối đa hóa lợi nhuận và tiến bộ khoa học công nghệ. Tập đoàn kinh
tế là một thực thể kinh tế thực hiện sự liên kết giữa các thành viên là các
doanh nghiệp có quan hệ với nhau về công nghệ và lợi ích.
Đặc điểm
+ Tập đoàn kinh tế có nhiều loại hình tổ chức đa dạng
Loại hình thứ nhất: các công ty thành viên kết hợp trong một tổ chức
thống nhất và mất tính độc lập về tài chính, sản xuất, thương mại. Những Tập
đoàn kinh tế dạng này được cấu tạo dưới dạng đa sở hữu, theo kiểu công ty cổ
phần, với sự góp vốn của nhiều chủ sở hữu khác nhau. Các công ty thành viên
trong cùng một ngành hoặc có liên quan với nhau về công nghệ, bổ sung cho
nhau trong quá trình gia công chế biến liên tục, hoạt động thống nhất trong
tập đoàn.
Loại hình thứ hai: Về tổ chức,loại hình này thường có ban quản trị chung
điều hành các hoạt động phối hợp của tập đoàn theo một đường lối chung
thống nhất, nhưng các công ty thành viên vẫn giữ nguyên tính độc lập về pháp
lý.
Loại hình thứ ba: Được hình thành trên cơ sở xác lập sự thống nhất về
tài chính và kiểm soát tài chính. Các công ty thành viên ký kết các hiệp định về
tài chính, hình thành công ty nắm vốn chung còn gọi là Công ty mẹ. Trong tập
đoàn không chỉ giới hạn một vài loại hình mà mở rộng ra rất nhiều loại hình
hoạt động sản xuất, kinh doanh.
+ Tập đoàn gồm nhiều đơn vị thành viên thuộc các lĩnh vực sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ, tài chính, v.v. , có quy mô rất lớn về vốn, lao động, doanh
thu và thị trường. Phạm vi hoạt động rất rộng, thường vượt ra ngoài biên giới
một nước, thậm chí ở khắp thế giới. Giữa các đơn vị thành viên có mối quan hệ
khác nhau về tài chính, công nghệ, thị trường và lợi ích với mức độ chặt chẽ,
lỏng lẻo khác nhau.
+ Tập đoàn kinh tế tiến hành hoạt động và quản lý tập trung một số mặt
như huy động, điều tiết, quản lý vốn; nghiên cứu triển khai; đào tạo; xây dựng
chiến lược phát triển; chiến lược thị trường, chiến lược sản phẩm, chiến lược
đầu tư.
+ Tập đoàn kinh doanh chuyên ngành hoặc đa ngành, đa lĩnh vực, trong
đó kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực là phổ biến. Mỗi tập đoàn đều có định
hướng ngành chủ đạo, lĩnh vực kinh doanh đặc trưng, mũi nhọn. Bên cạnh các
đơn vị sản xuất thường có các tổ chức tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, thương
mại, dịch vụ, nghiên cứu khoa học, đào tạo,v.v. Xu hướng chung là các tổ chức
tài chính, ngân hàng và nghiên cứu ứng dụng ngày càng được chú ý hơn, vì đó
là đòn bẩy cho sự phát triển của Tập đoàn kinh tế.
+ Về tổ chức sản xuất kinh doanh trong tập đoàn, thông thường, các
đơn vị thành viên trong cùng một ngành là một mắt xích thực hiện một khâu
nhất định trong toàn bộ dây chuyền từ khâu nghiên cứu triển khai, cung cấp
đầu vào, tiến hành sản xuất đến tiếp thị và tiêu thụ đầu ra theo một chiến lược,
chính sách thống nhất. Vì vậy, các đơn vị này thường thực hiện hạch toán kinh
tế theo giá nội bộ. Các đơn vị thành viên thuộc các ngành khác nhau thường là
các doanh nghiệp hạch toán độc lập, ít có quan hệ với nhau.
1.1.1.2. Khái niệm về lợi nhuận
Lợi nhuận trước thuế hay thu nhập trước thuế của doanh nghiệp được
hiểu là phần chênh lệch giữa doanh thu và chi phí bỏ ra để đạt được doanh thu
đó.
Lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp bao gồm:
Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính
Lợi nhuận từ hoạt động bất thường
Lợi nhuận trước thuế từ hoạt động kinh doanh là phần chênh lệch giữa
doanh thu tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ và chi phí hoạt động kinh
doanh.
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính là chênh lệch giữa doanh thu hoạt
động tài chính và chi phí hoạt động tài chính.
Lợi nhuận từ hoạt động bất thường là chênh lệch giữa doanh thu hoạt
động bất thường và chi phí hoạt động bất thường.
Lợi nhuận sau thuế là chênh lệch giữa lợi nhuận trước thuế và thuế thu
nhập của doanh nghiệp.
1.1.2. Vai trò của lợi nhuận
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, việc doanh nghiệp có tồn tại và
đứng vững được hay không phụ thuộc rất lớn vào việc doanh nghiệp có tạo ra
lợi nhuận hay không. Chính vì thế ở Việt Nam, lợi nhuận là một trong những
điều kiện để doanh nghiệp được tham gia vào các sân chơi khác nhau. Đây là
chỉ tiêu quan trọng phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp, là nguồn
quan trọng để doanh nghiệp tái đầu tư mở rộng sản xuất. Về mặt xã hội, lợi
nhuận là nguồn để tái sản xuất xã hội. Tuy nhiên, lợi nhuận không phải là chỉ
tiêu duy nhất để đánh giá chất lượng hoạt động của doanh nghiệp. Một doanh
nghiệp có lợi nhuận tốt nhưng vẫn phá sản khi doanh nghiệp không có đủ
lượng tiền mặt để thanh toán các khoản nợ đến hạn. Mặt khác lợi nhuận chịu
nhiều nhân tố như thời gian, rủi ro…Do vậy để đánh giá lợi nhuận của doanh
nghiệp chúng ta phải kết hợp với các chỉ tiêu khác đó là tỷ suất lợi nhuận.
Chính vì thế lợi nhuận có một số vai trò chính sau:
• Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp biểu hiện kết quả của quá trình sản xuất
kinh doanh. Nó phản ánh đầy đủ các mặt số lượng, chất lượng hoạt
động của doanh nghiệp, phản ánh kết quả việc sử dụng các yếu tố cơ bản
sản xuất như lao động, vật tư, tài sản cố định…
• Lợi nhuận là một nguồn thu điều tiết quan trọng của Ngân sách Nhà
nước, giúp Nhà nước thực hiện các chương trình kinh tế xã hội, phát
triển đất nước.
• Lợi nhuận là nguồn vốn quan trọng để tái sản xuất và mở rộng toàn bộ
nền kinh tế quốc dân và doanh nghiệp.
• Lợi nhuận được để lại doanh nghiệp thành lập các quỹ tạo điều kiện mở
rộng quy mô sản xuất, nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên.
• Lợi nhuận là đòn bẩy kinh tế quan trọng có tác dụng khuyến khích người
lao động và các đơn vị ra sức phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trên cơ sở của chính
sách phân phối đúng đắn.
Các thành viên trong Tập đoàn kinh tế là các doanh nghiệp mà công ty
mẹ thực hiện vốn đầu tư để thực hiện nhiệm vụ kinh doanh chung của cả tập
đoàn. Chính vì thế ở mỗi Tập đoàn lợi nhuận chủ yếu là sự tập hợp lợi nhuận
từ các đơn vị thành viên đem lại, là chỉ tiêu chất lượng phản ánh kết quả kinh
doanh của từng đơn vị thành viên trong toàn Tập đoàn.
Lợi nhuận là cơ sở để tính ra các chỉ tiêu chất lượng khác nhằm đánh giá hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh ở từng doanh nghiệp cũng như toàn bộ Tập đoàn, đánh giá các yếu tố đưa
vào quá trình sản xuất kinh doanh cũng như các chiến lược phát triển đưa ra của ban lãnh đạo Tập
đoàn có đúng đắn và kịp thời không.
1.1.3. Chính sách phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp
Lợi nhuận là đòn bẩy kinh tế quan trọng cho nên phân phối lợi nhuận
hợp lý sẽ có tác dụng khuyến khích doanh nghiệp ngày càng phát huy tinh thần
trách nhiệm và ý thức làm chủ của doanh nghiệp, góp phần động viên mọi
người lao động trong doanh nghiệp vì lợi ích bản thân mình, của doanh nghiệp
và của xã hội mà phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao
động để không ngừng phát triển sản xuất kinh doanh.
Chính sách phân phối lợi nhuận có ý nghĩa rất lớn đối với doanh nghiệp.
Mỗi doanh nghiệp có những chính sách riêng nhằm đảm bảo cho sự tồn tại và
phát triển của mình. Tuy nhiên phải theo quy định của Bộ tài chính.
Việc phân phối lợi nhuận doanh nghiệp cần đạt những yêu cầu cơ bản
sau:
Đảm bảo mối quan hệ về lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người
lao động.
Dành phần lợi nhuận ích đáng để mở rộng hiệu quả sản xuất kinh doanh
và phải đảm bảo lợi ích của cổ đông của đơn vị.