Môn: Lý luận nhà nước và pháp luật
BÁO CÁO TIỂU LUẬN
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT CHỦ NÔ
A. NHÀ NƯỚC CHỦ NÔ
I. SỰ RA ĐỜI CỦA NHÀ NƯỚC CHỦ NÔ
Nhà nước chiếm hữu nô lệ hay còn gọi là nhà nước chủ nô là hình thức nhà nước
đầu tiên trong lịch sử loài người và được coi là được coi là tổ chức quyền lực chính
trị của giai cấp chủ nô trong xã hội. Nhà nước chủ nô ra đời trên cơ sở sự tan rã của
chế độ cộng sản nguyên thủy (sự tan rã của chế độ thị tộc, bộ lạc...). Các nhà nước
chiếm hữu nô lệ đầu tiên xuất hiện khoảng 4000 - 5000 năm trước công nguyên ở
châu Á và Bắc Phi (Trung Quốc, Ấn Độ, Ai Cập...) và ở châu Âu (Hy Lạp, La Mã)...
* Cơ sở kinh tế, xã hội của sự ra đời Nhà nước chủ nô:
Cơ sở kinh tế của nhà nước chủ nô chính là quan hệ sản xuất được đặc trưng bởi
chế độ chiếm hữu tư nhân của chủ nô đối với toàn bộ tư liệu sản xuất và nô lệ. Trong
chế độ này, chủ nô là người sở hữu toàn bộ đất đai, tư liệu sản xuất và cả người sản
xuất là nô lệ. Do vậy, chủ nô có toàn quyền bóc lột nô lệ. Nô lệ phải hòan toàn phục
tùng chủ nô, và trở thành "những công cụ biết nói."
Gắn liền với cơ sở kinh tế nói trên là một xã hội bất bình đẳng. Điều này được
thể hiện thông qua kết cấu giai cấp của nó: giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ là hai giai
cấp chính. Giai cấp chủ nô chiếm số ít trong xã hội, nhưng lại nắm giữ toàn bộ đất
đai, cũng như tư liệu sản xuất. Trong khi đó giai cấp nô lệ chiếm số đông, nhưng phải
hoàn toàn phục vụ giai cấp chủ nô. Một xã hội bất bình đẳng giữa chủ nô và nô lệ như
trên dẫn tới mâu thuẫn không thể điều hòa được giữa giai cấp chủ nô và giai cấp nô
lệ. Ngoài hai giai cấp nói trên, trong xã hội chiếm hữu nô lệ còn tồn tại tầng lớp thợ
thủ công, nông dân... Những người này tuy không phải là nô lệ, nhưng họ cũng gần
như phải lệ thuộc hoàn toàn vào chủ nô về kinh tế và chính trị. Kết cấu giai cấp nói
trên đã làm cho xã hội chiếm hữu nô lệ gần như nằm trong tay giai cấp chủ nô, phục
vụ cho giai cấp chủ nô.
* Sự xuất hiện của các nhà nước chủ nô:
Đối với các nhà nước chủ nô ở phương Đông xuất hiện sớm hơn rất nhiều so với
các nhà nước phương Tây dưới sự tác động trực tiếp và chủ yếu bởi yếu tố tự nhiên,
chống ngoại xâm và làm thủy lợi. Do điều kiện lực lượng kinh tế sản xuất thấp kém
quá trình hình thành các giai cấp diễn ra rất chậm chạp, chế độ tư hữu về ruộng đất
phát triển rất yếu ớt. Vì vậy quá trình hình thành nhà nước rất chậm chạp và kéo dài.
Nhà nước xuất hiện nhưng công xã nông thôn (công xã láng giềng) - tàn tích của chế
độ xã hội thị tộc vẫn còn tồn tại. trong thời gian dài, nhà nước tồn tại và phát triển
trên cơ sở đan xen giữa chế độ công hữu còn điều kiện để phát triển khá bền vững
chắc với chế độ tư hữu mới hình thành và chưa phát triển lắm.
Đối với các nhà nước chủ nô ở phương Tây xuất hiện khi lực lượng sản xuất đã
phát triển ở trình độ tương đối cao mà nguyên nhân cơ bản là do gia cấp mâu thuẩn
giai cấp và đấu tranh giai cấp. So với phương Đông các nhà nước ở phương Tây diễn
ra sâu sắc, sở hữu tư nhân được xác lập tương đối triệt để và rất phát triển, mâu thuẩn
giai cấp trong xã hội ngày càng gay gắt, tổ chức thị tộc, bộ lạc thoái hóa và tan rã
từng bước, nhường chỗ cho hình thức tổ chức mới, đó là nhà nước. Quá trình đó lại
được thúc đẩy bằng những cuộc cải cách xã hội mà sau mỗi cuộc cải cách, tổ chức thị
tộc, bộ lạc lại càng nhanh đi tới chỗ tan rã, nhà nước hiện ra một cách rõ nét hơn.
II. BẢN CHẤT NHÀ NƯỚC CHỦ NÔ
Như chúng ta đã biết Nhà nước là một tổ chức chính trị có quyền lực công cộng
đặc biệt, được hình thành và bị quyết định bởi nhu cầu trấn ấp giai cấp và nhu cầu
quản lý các công việc chung của xã hội.
Bất kỳ Nhà nước nào củng mang một bản chất nhất định. Vậy bản chất nhà nước
là gì? Bản chất Nhà nước là toàn bộ những mối liên hệ, quan hệ sâu sắc và những qui
luật bên trong quyết định những đặc điểm và khuynh hướng phát triển cơ bản của
Nhà nước.
Với khái niệm về bản chất Nhà nước cho chúng ta biết bản chất nhà nước thể
hiện hai nội dung cơ bản đó là tính giai cấp của Nhà nước và tính xã hội của Nhà
nước. Đó là hai nội dung cơ bản của bản chất nhà nước nói chung.
Vậy tính giai cấp của Nhà nước Chiếm hữu nô lệ thể hiện Như thế nào? Tính
giai cấp của Nhà nước Chiếm hữu Nô lệ thể hiện nhà nước của giai cấp chủ nô, do
giai cấp chủ nô tổ chức, quyền lực nằm trong tay giai cấp chủ nô, bảo vệ lợi ích cho
giai cấp chủ nô là chủ yếu. Tính giai cấp của Nhà nước chủ nô thể hiện sâu sắc nhất
trong tất cả các kiểu nhà nước. Tuy nhiên, Nhà nước chủ nô phương Tây thể hiện tính
giai cấp rõ nét hơn ở phương Đông. Ở phương Tây giai cấp chủ nô là bộ phận thiểu
số trong xã hội nhưng lại sở hữu hầu hết tư liệu sản xuất và cả con người lao động,
giai cấp nô lệ là bộ phận dân cư đông đảo nhưng có địa vị thấp kém, nô lệ coi là tài
sản thuộc sở hữu của chủ nô, chủ nô có quyền tuyệt đối đối với nô lệ, khai thác, bóc
lột sức lao động , đem bán , tặng, cho, bỏ đói hay giết chết, việc mua bán nô lệ diễn ra
hàng ngày, nô lệ trở thành món hàng hóa chính, vì vậy mà mâu thuẩn giai cấp chủ nô
và giai cấp nô lệ hết sức sâu sắc và đấu tranh giai cấp thường xuyên xảy ra. Riêng ở
phương đông nô lệ không phải là lực lượng xã hội chủ yếu, địa vị nô lệ không thấp
kém như phương Tây, nô lệ có thể có gia đình riêng, mâu thuẫn giữa chủ nô và nô lệ
không gay gắt, bộ phận đông đảo nhất trong xã hội là thành viên công xã nông thôn,
họ được chia ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước để canh tác và nộp thuế cho nhà nước.
Để tồn tại và phát triển trong điều kiện mâu thuẫn giai cấp sâu sắc và đấu tranh
giai cấp gay gắt nên nhà nước chủ nô luôn thể hiện là công cụ chuyên chính của giai
cấp chủ nô, để bảo vệ lợi ích cho giai cấp chủ nô nhằm duy trì bất bình đảng trong xã
hội và để đàn áp sự phản kháng của nô lệ và những người lao động khác.
Còn tính xã hội của Nhà nước chiếm hữu nô lệ thể hiện do nhu cầu đòi hỏi của
đời sống chung trong cộng đồng xã hội nhằm phản ánh ý chí chung, lợi ích chung và
giải quyết những vấn đề chung của xã hội. Thể hiện khá rõ nét là công cụ tổ chức dân
cư tiến hành công cuộc trị thủy, chống ngoại xâm, quản lý đất đai và các hoạt động xã
hội khác nhằm duy trì đời sống chung của cộng đồng.
Tóm lại bản chất nhà nước chiếm hữu nô lệ thể hiện hai thuộc tính căn bản là
tính giai cấp và tính xã hội. Tính giai cấp nhà nước chiếm hữu nô lệ là nhà nước do
chủ nô nắm quyền, thống trị, mang bản chất của chủ nô và bảo vệ quyền lợi chủ yếu
của giai cấp chủ nô. Tính xã hội của nhà nước chiếm hữu nô lệ là công cụ tổ chức dân
cư tiến hành công cuộc trị thủy, chống ngoại xâm, quản lý đất đai và các hoạt động xã
hội khác nhằm duy trì đời sống chung của cộng đồng.
III. CHỨC NĂNG NHÀ NƯỚC CHỦ NÔ
Chức năng của nhà nước là những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nước nhằm để
thực hiện những nhiệm vụ đặt ra trước nhà nước. Nhà nước chủ nô, bộ máy duy trì sự
thống trị của giai cấp chủ nô đối với giai cấp nô lệ, tổ chức quyền lực công, thay mặt
cho xã hội tổ chức và quản lý các mặt của đời sống xã hội, có các chức năng sau đây:
chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.
1. Chức năng đối nội: Là những hoạt động chủ yếu của nhà nước trong nội bộ
đất nước.
Chức năng bảo vệ chế độ sở hữu là chức năng đặc trưng thể hiện rõ nét nhất bản
chất của nhà nước chiếm hữu nô lệ, nhất là các nhà nước ở phương Tây. Nhà nước
này thừa nhận mọi đặc quyền của chủ nô đối với các tư liệu sản xuất và nô lệ. Nhà
nước cho phép chủ nô có quyền lực không hạn chế đối với nô lệ. Nô lệ bị coi là tài
sản thuộc sở hữu của chủ nô. Chủ nô có quyền tuyệt đối với nô lệ, khai thác bóc lột
sức lao động, đánh đập, đem bán, tặng cho, bỏ đói hay giết chết tùy theo ý muốn của
chủ nô. Nhà nước quy định và trừng phạt rất nghiêm khắc đối với những hành vi xâm
hại tới sở hữu của chủ nô.
Để thực hiện chức năng này, nhà nước chủ nô sử dụng chức năng trấn áp sự
phản kháng của nô lệ và các tầng lớp nhân dân lao động khác bằng quân sự. Trong xã
hội chiếm hữu nô lệ sự mâu thuẫn và bất bình đẳng giữa giai cấp chủ nô và giai cấp
nô lệ diễn ra hết sức sâu sắc và đấu tranh giai cấp thường xuyên xảy ra với mức đô
ngày càng gay gắt. Để bảo vệ quyền lợi và địa vị của giai cấp chủ nô, nhà nước chủ
nô đã sử dụng mọi biện pháp để bảo vệ chế độ tư hữu hết sức chặt chẽ mà chủ yếu là
biện pháp trấn áp bằng quân sự để đàn áp một cách dã man, có khi mang tính chất
thảm sát dối với sự phản kháng chống đối của nô lệ của các tầng lớp lao động khác
đối với chủ nô.
Để củng cố và bảo vệ địa vị thống trị của mình, giai cấp chủ nô thông qua nhà
nước của nó không chỉ trấn áp bằng quân sự mà còn thực hiện thống trị về tư tưởng
đối với giai cấp nô lệ và các tầng lớp lao động khác. Lợi dụng sự hiểu biết thấp kém
của tầng lớp nô lệ, giai cấp chủ nô sử dụng tôn giáo để duy trì sự thống trị về mặt tư
tưởng. Có những tôn giáo khi xuất hiện đáp ứng được những khát khao, hy vọng của
tầng lớp lao động vốn đã khốn khổ lúc đó.Tuy nhiên về sau hầu hết các tôn giáo đều
bị giai cấp thống trị lợi dụng làm chỗ dựa vững chắc về mặt tinh thần cho sự thống trị
của mình. Thông qua nhà nước chiếm hữu nô lệ, giai cấp chủ nô đã xây dựng tôn giáo
thành hệ tư tưởng thống trị xã hội, tìm mọi cách biến vương quyền thành thần quyền,
thần thánh hóa nhà vua, biến nhà vua thế tục thành vị con trời có quyền uy và phép lạ,
quyền lực nhà vua là vô hạn. Nhà vua không chỉ nắm quyền lực tối cao về ruộng đất
mà còn là người thế thiên hành đạo thay trời chăn dắt dân chúng.
Nhà nước chiếm hữu nô lệ còn thể hiện chúc năng kinh tế xã hội. Ở phương
Đông, kinh tế nông nghiệp là chủ yếu nên việc trị thủy là công việc vừa thường xuyên
vừa cấp bách. Chính vì vậy hầu hết các nhà nước chiếm hữu nô lệ đã xây dựng đê
điều, khai hoang giúp hạn chế tác hại của lũ lụt và mở rộng diện tích cày cấy, trồng
trọt. Các nhà nước phương Tây cũng sớm quan tâm đến yêu cầu phát triển kinh tế của
đất nước nhằm để duy trì hoạt động của bộ máy nhà nước và giải quyết các công việc
chung của xã hội. Chính sách về kinh tế được thể hiện bằng việc cải cách xã hội, giải
phóng nô lệ, xây dựng và phát triển nền dân chủ xã hội, chính sách về tài chính thuế
khóa vừa nhằm tăng thu ngân sách, vửa giải quyết được nhu cầu phát triển kinh tế, xã
hội. Như vậy nhà ước chủ nô cũng phải thực hiện chức năng kinh tế xã hội tùy, từng
nhà nước, từng giai đoạn phát triển, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội cụ thể mà
hoạt động này chiếm tỉ trọng khác nhau trong tất cả các chức năng của nó.
2. Chức năng đối ngoại: Thể hiện vai trò của nhà nước trong quan hệ với các
dân tộc khác.
Trong suốt quá trình tồn tài và phát triển của các nhà nước chủ nô, chiến tranh
xâm lược lẫn nhau xảy ra thường xuyên. Do không ngừng tiến hành các cuộc chiến
tranh quy mô lớn thôn tính và cướp bóc các nước khác nên một số nhà nước chủ nô
đã trở thành những đế quốc có lãnh thổ rộng lớn. Chiến tranh đã làm cho quan hệ
giữa các nhà nước chủ nô luôn trong tình trạng căng thẳng đồng thời nó cũng làm cho
mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ xã hội ngày càng trở nên sâu sắc.
Đồng thời việc tiến hành chiến tranh xâm lược các nhà nước chủ nô cũng phải tổ
chức phòng thủ để chống lại các cuộc xâm lược từ bên ngoài, bảo vệ chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ đất nước, bảo vệ các lợi ích chung của cộng đồng xã hội cũng như
lợi ích của giai cấp thống trị.
VI. HÌNH THỨC NHÀ NƯỚC CHỦ NÔ
- Mặc dù các nhà nước chủ nô đều có những chức năng cơ bản giống nhau,
nhưng do điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia là khác nhau nên trong nhà nước
chủ nô có nhiều hình thức chính thể khác nhau. Lịch sử phát triển của nhà nước chủ
nô gắn với các hình thức chính thể: quân chủ, cộng hoà dân chủ, cộng hoà quý tộc.
+ Chính thể quân chủ chuyên chế: Phổ biến trong các nhà nước Phương
Đông cổ đại. Đặc trưng của hình thức này là quyền lực nhà nước tập trung toàn bộ
vào trong tay người đứng đầu nhà nước (Hoàng đế, vua) với một bộ máy quân sự,
quan liêu khá phức tạp (Ai cập, Ấn độ, Babilon…) Người đứng đầu nhà nước có toàn
quyền quyết định vận mệnh quốc gia, cũng như vận mệnh của từng thành viên trong
quốc gia đó, chức vụ này được truyền lại theo nguyên tắc cha truyền con nối.
+ Chính thể cộng hoà dân chủ: tồn tại ở nhà nước chủ nô Aten vào thế kỷ
thứ V-IV trước công nguyên. Ở Aten mọi nam công dân trưởng thành đều được tham
gia Hội nghị nhân dân. Hội nghị sẽ bầu ra các cơ quan nhà nước và các cá nhân thực
thi quyền lực nhà nước theo những nhiệm kỳ nhất định. Nô lệ, kiều dân, phụ nữ, nô lệ
đã được giải phóng không được tham gia bầu cử, thực chất của hình thức dân chủ này
là dân chủ chủ nô.
+ Chính thể cộng hoà quý tôc: tồn tại ở nhà nước chủ nô Spác và La Mã.
Quyền lực nhà nước (chủ yếu quyền lập pháp) nằm trong tay một hội đồng mà thành
viên được bầu ra từ các quý tộc giàu có nhất và họ nắm giữ chức vụ suốt đời. Bên
cạnh đó có các cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp cũng được hình
thành thông qua con đường bầu cử. Đại hội nhân dân vẫn tồn tại nhưng không chiếm
vị trí quan trọng. Đại hội nhân dân chỉ tiến hành bầu những người tham gia vào các
chức vụ trong bộ máy nhà nước, thông qua về mặt hình thức các dự luật do Hội đồng
trưởng lão đưa ra.
- Về hình thức cấu trúc nhà nước: hầu hết các nhà nước chủ nô đều có cấu trúc
nhà nước đơn nhất.
- Về chế độ chính trị: ở các nước phương Đông chủ yếu tồn tại chế độ độc tài
chuyên chế. Ở các nước Phương Tây chế độ chính trị đã mang tính dân chủ, tuy nhiên
về bản chất đó chỉ là chế độ dân chủ chủ nô. Về cơ bản, nền dân chủ được thiết lập ở
những quốc gia này vẫn là chế độ quân phiệt, độc tài với đại đa số nhân dân lao động.
V. BỘ MÁY NHÀ NƯỚC CHỦ NÔ
Khi xuất hiện, bộ máy nhà nước chủ nô còn hết sức đơn giản và chưa có tính
chuyên nghiệp, còn mang tính tự phát. Thời kì này, những người làm trong bộ máy
nhà nước thường đảm trách tất cả các công việc, họ vừa là người chỉ huy quân đội,
vừa là nhà lập pháp, vừa là quan lại thu thuế, vừa là quan tòa xét xử các tranh chấp.
Cùng với sự phát triển của chế độ chiếm hữu nô lệ, chức năng của nhà nước ngày
càng trở nên phức tạp hơn, vì vậy tổ chức bộ máy nhà nước ngày càng được tổ chức
có quy củ và mang tính chuyên nghiệp. Khi lãnh thổ ngày càng được mở rộng thì nhu
cầu quản lí theo lãnh thổ càng trở nên cấp bách cho nên nhà nước đã từng bước chia
lãnh thổ thành các đơn vị hành chính lãnh thổ và tổ chức bộ máy theo từng cấp để dễ
quản lí và từ đó hình thành nên hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương cho đến
địa phương.
Ở phương Đông thì tổ chức nhà nước có nhiều khác biệt và nói chung thì có vẻ
đơn giản hơn so với phương Tây. Nhà vua được đề cao, thần thánh hóa (thiên tử: con
của trời) để nắm toàn bộ quyền lực nhà nước. Các quan lại từ trung ương cho đến địa
phương đều là bầy tôi giúp việc của nhà vua. Trong quãng thời gian tương đối dài
chính quyền cấp cơ sở là công xã nông thôn, là một hình thức tổ chức quá độ từ công
xã thị tộc nhưng ở mức cao hơn. Quan hệ giữa các thành viện trong công xã dựa trên
yếu tố láng giềng chứ không phải là quan hệ huyết thống.
Còn ở phương Tây, nhiều nhà nước đã thiết lập ra những bộ máy nhà nước khá
hoàn thiện, có tính chuyên môn tương đối cao, trong đó xuất hiện các cơ quan nhà
nước với cách thức tổ chức và hoạt động dân chủ. Đã có sự phân công rõ ràng giữa
các cơ quan trong việc lập pháp, hành pháp và tư pháp. Lập pháp là các hội đồng
trưởng lão, viện nguyên lão có chức năng tương tự như quốc hội của các nhà nước
hiện đại. Hành pháp là hội đồng quan chấp chính có chức năng tương tự như chính
phủ. Tư pháp là tòa án và là thiết chế được hình thành khá sớm trong bộ máy nhà
nước chủ nô phương Tây.
Cho dù là ở phương Đông hay phương Tây thì trong bộ máy nhà nước chủ nô,
bộ phận giữ vai trò chủ đạo là quân đội, là lực lương cưỡng chế chuyên nghiệp. Nhà
nước nào cũng không ngừng tăng cường xây dưng quân đội lớn mạnh để bảo vệ và
mở rộng lãnh thổ. Thời gian đầu, quân đội đảm nhận luôn công việc giữ gìn trật tự trị
an. Về sau, do yêu cầu của cuộc sống, lực lượng cảnh sát từng bước được hình thành.
Ở một số nước, cảnh sát còn thêm chức năng điều tra vụ án, bảo vệ các công trình
thủy lợi, công cộng ……
Tóm lại nhà nước chủ nô là công cụ chuyên chính của giai cấp thống trị để bảo
vệ lợi ích của giai cấp này nhằm duy trì sự thống trị về mọi mặt, để cưỡng bức, đàn
áp có tổ chức đối với tầng lớp thấp hơn.
B. PHÁP LUẬT CHỦ NÔ
I. SỰ RA ĐỜI CỦA PHÁP LUẬT CHỦ NÔ
Pháp luật chủ nô là kiểu pháp luật đầu tiên trong lịch sử, nó ra đời cùng với quá
trình hình thành và phát triển của nhà nước chủ nô.
Pháp luật chủ nô hình thành dần từng bước trên cơ sở thừa nhận, củng cố và đảm
bảo cho những qui phạm xã hội của xã hội nguyên thủy được thực hiện bằng nhà
nước. Cụ thể là một số tập quán, tín điều tôn giáo, quy tắc đạo đức… vốn đã hình
thành và tồn tại từ thời thị tộc, bộ lạc nguyên thủy nhưng có lợi cho chủ nô, cho
những hoạt động chung của cộng đồng được nhà nước chủ nô duy trì, sửa đổi cho phù
hợp.
Bên cạnh đó, sự phát triển toàn diện về mọi mặt của xã hội chiếm hữu nô lệ
ngày càng làm cho các quan hệ xã hội xuất hiện ngày một nhiều và trở nên phức tạp
hơn. Do tính chất và nhu cầu quản lý xã hội ngày càng cao, đòi hỏi nhà nước chủ nô
phải sử dụng nhiều hình thức pháp luật khác nhau để đáp ứng nhu cầu điều chỉnh các
quan hệ xã hội, bảo vê lợi ích cho chủ nô, cho toàn xã hội một cách chặt chẽ, chính
xác, hiệu quả. Do vậy, nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã được nhà nước chủ nô
ban hành.
Sự ra đời của pháp luật chủ nô đánh dấu bước phát triển mới của loài người
trong lĩnh vực điều chỉnh quan hệ xã hội. Pháp luật chiếm hữu nô lệ đã góp phần tạo
lập một trật tự xã hội cần thiết , tạo điều kiện và định hướng cho sự phát triển hơn so
với xã hội nguyên thủy .
Pháp luật chủ nô hình thành và hoàn thiện dần cùng với sự hình thành và phát
triển của nhà nước và xã hội chiếm hữu nô lệ . Do nhu cầu của đời sống nhà nước và
xã hội mà phạm vi điều chỉnh của pháp luật chủ nô ngày càng được mở rộng tới nhiều
lĩnh vực khác nhau , hiệu quả điều chỉnh ngày càng cao làm cho vai trò và những giá
tri xã hội của nó ngày càng được thừa nhận và phát huy.
II. BẢN CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA PHÁP LUẬT CHỦ NÔ
1. Bản chất của pháp luật chủ nô:
* Tính giai cấp:
- Pháp luật chủ nô thể hiện ý chí của giai cấp chủ nô, là phương tiện mà chủ nô
sử dụng để bảo vệ lợi ích, củng cố quyền lực của chủ nô, trấn áp sự phản kháng của
nô lệ và những người lao động khác.
- Pháp luật chủ nô cũng là công cụ để xác lập chế độ sỡ hữu của chủ nô, hợp
thức hóa các hình thức bóc lột tàn nhẫn của chủ nô với nô lệ.
- Pháp luật chủ nô ghi nhận và bảo vệ chế độ chiếm hữu nô lệ, thừa nhận chủ nô
là công dân có đầy đủ mọi quyền hành và lợi ích, còn nô lệ thì không được coi là
công dân, họ không có một thứ quyền nào cả.
* Tính xã hội:
- Pháp luật chủ nô quy định những quy tắc hoạt động chung trong quá trình sản
xuất, trao đổi, sinh hoạt có tính chất cộng đồng của xã hội chiếm hữu nô lệ, là phương
tiện hữu hiệu để giải quyết những tranh chấp, mâu thuẫn trong xã hội.
- Pháp luật chủ nô đã duy trì trật tự, sự ổn định, an toàn của xã hội chiếm hữu nô
lệ, tạo điều kiện cho xã hội chiếm hữu nô lệ tồn tại và phát triển với qui mô ngày
càng lớn.
Tóm lại, pháp luật chủ nô thể hiện ý chí của nhà nước chủ nô, được đảm bảo
thực hiện bằng nhiều biện pháp trong đó chủ yếu là cưỡng chế. Pháp luật chủ nô
mang nặng tính chủ quan và tính giai cấp. Bên cạnh đó, pháp luật chủ nô là một trong
những công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội vì lợi ích của chủ nô và vì sự tồn tại và
phát triển của xã hội chiếm hữu nô lệ.
2. Đặc điểm của pháp luật nô:
- Pháp luật chủ nô củng cố quan hệ sản xuất hình thành trên cơ sở chế độ chiếm
hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất và đối với người sản xuất, hợp pháp hoá sự
bóc lột không có giới hạn của chủ nô đối với nô lệ.
+ Chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, trong xã hội chiếm hữu nô lệ,
tư liệu sản xuất và cả người sản xuất đều thuộc sở hữu của chủ nô.
+ Pháp luật chủ nô ghi nhận và củng cố quyền tư hữu của chủ nô đối với tư liệu
sản xuất, Quyền sở hữu của chủ nô gồm: Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài
sản và cả nô lệ một cách tuyệt đối và được lưu truyền.
+ Quyền tư hữu được pháp luật chủ nô bảo vệ rất chặt chẽ. Có thể nói pháp luật
chủ nô coi tài sản giá trị hơn tính mạng con người, đối với chủ nô tài sản là quan
trọng nhất.
- Pháp luật chủ nô ghi nhận và củng cố tình trạng không bình đảng trong xã hội
+ Pháp luật chủ nô luôn quy định và củng cố tình trạng đặc quyền của giới quý
tộc chủ nô, chỉ có chủ nô mới được pháp luật coi là công dân và có mọi thứ còn nô lệ
không được coi la công dân và không có quyền nào cả.
+ Pháp luật của nhiều nhà nước chủ nô quy định vua có quyền vô hạn. Pháp
luật chủ nô còn cho phép chủ nô có thể chuộc tội bằng tiền, còn người tự do, người
bình dân thì không có quyền đó.
+ Pháp luật chủ nô còn quy định là với cùng tội phạm nhưng nếu người phạm
tội là chủ nô thì mức phạt là cách chức còn đối với những người khác thì có thể bị
giết chết.
- Pháp luật chủ nô ghi nhận sự thống trị tuyệt đối của gia trưởng đối với vợ và
các con trong gia đình.
+ Trong gia đình chủ nô, người gia trưởng (chủ nô) được pháp luật quy định có
nhiều quyền hơn so với những thành viên khác.
+ Địa vị của người phụ nữ trong xã hội rất thấp, họ không có tự do, kể cả trong
hôn nhân. Vợ con của chủ nô phải phục tùng vào chủ nô, con của chủ nô có quyền
công dân, có địa vị pháp lý nhất định nhưng chủ nô có toàn quyền quyết định đến số
phận, thậm chí cả tính mạng của họ.
- Pháp luật chủ nô quy định hình phạt dã man, tàn bạo
+ Hình phạt trong pháp luật chủ nô có thể coi là nghiêm khắc nhất, dã man, tàn
bạo nhất. Các biên pháp trừng phạt phổ biến được áp dụng là tử hình.
+ Pháp luật chủ nô còn cho cho phép tra tấn nhục hình phạm nhân, giết cả cộng
đồng mà trong đó có người phạm tội.
- Trong pháp luật chủ nô, đối tượng điều chỉnh không được xác định rõ ràng
Ở nhiều nước, đối tượng, phạm vi và những lĩnh vực điều chỉnh của pháp luật
chưa được xác định rõ ràng.
III. HÌNH THỨC CỦA PHÁP LUẬT CHỦ NÔ
Hình thức phổ biến của pháp luật chủ nô là tập quán pháp. Nhà nước chủ nô
thừa nhận tập quán đã và đang tồn tại trong xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp
chủ nô và nâng chúng lên thành pháp luật.
Ngoài tập quán pháp ra, những quyết định của các cơ quan nhà nước chủ nô
hoặc của cá nhân chủ nô khi giải quyết trường hợp cụ thể nào đó cũng được thừa
nhận là khuôn mẫu để giải quyết những trường hợp tương tự. Cách thức này đã tạo ra
hình thức tiền lệ pháp trong pháp luật chủ nô.
Cùng với sự phát triển của chữ viết trong xã hội chiếm hữu nô lệ là sự hình
thành và phát triển của pháp luật thành văn. Nhiều nhà nước chủ nô đã ban hành
nhiều văn bản quy phạm pháp luật ở các dạng khác nhau. Thời kì đầu, các văn bản
pháp luật chủ yếu là sao chép lại một cách có hệ thống những tập quán pháp không
thành văn. Tuy nhiên cũng có những nhà nước chủ nô đã xây dựng được bộ luật tổng
hợp tương đối hoàn chỉnh.